VNAF & me

VNAF & me All about VNAF, USAF, USAAVN & me.

SANTA ANA, California (NV) – Ngày 30 Tháng Tư, 1975, khi Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố chính quyền và quân đội VNCH...
08/11/2025

SANTA ANA, California (NV) – Ngày 30 Tháng Tư, 1975, khi Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố chính quyền và quân đội VNCH đầu hàng vô điều kiện trước các lực lượng CSBV lúc đoàn quân của Tướng Văn Tiến Dũng tiến vào Dinh Độc Lập, hầu hết thế giới lầm mê lúc đó đều hớn hở ra mặt, vì cứ tưởng rằng hòa bình đã đến rồi, và dân chúng miền Nam Việt Nam sẽ được độc lập, tự do, hạnh phúc và an cư, lạc nghiệp dưới chế độ mới. Nhưng từ ngày đó cho đến nay sự thật diễn ra hoàn toàn trái ngược với niềm hy vọng ngây thơ và tội nghiệp kia, khi 45 năm đã qua đi mà tuyệt đại đa số dân chúng Việt Nam vẫn đắm chìm trong ách nô lệ của chế độ cộng sản độc tài, đảng trị, không có độc lập, không có tự do, không có hạnh phúc, và rõ rệt nhất là không hề có nhân quyền.

Tuy VNCH đã mất đi gần nửa thế kỷ nay rồi nhưng cái di sản to lớn và đẹp đẽ mà quốc gia này để lại cho dân tộc và nhân loại vẫn còn đó, từ nền văn hóa và văn minh cho tới các công trình văn học, giáo dục, nghệ thuật, âm nhạc… và luôn cả ngày 19 Tháng Sáu, Ngày Quân Lực VNCH mà các cộng đồng người Việt tị nạn trên khắp thế giới vẫn làm lễ kỷ niệm hằng năm. Vào ngày 17 Tháng Sáu, 2019, Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu được Quốc Hội California công nhận là Ngày Cựu Chiến Binh Việt Nam Cộng Hòa (Veterans of the Republic of Vietnam Armed Forces Day) qua Nghị Quyết SCR-59 do Thượng Nghị Sĩ Tom Umberg và Dân Biểu Tom Daly đệ trình nhằm “tưởng niệm các chiến sĩ đã hy sinh mạng sống của họ cho tự do và dân chủ cũng như các nạn nhân của cuộc Chiến Tranh Việt Nam, và để vinh danh những chiến binh còn sống sót, các nhà đấu tranh, cùng các chiến sĩ của tự do trong cuộc chiến tranh đó.”

Lịch sử Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu

Ngược dòng thời gian, Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu, 1965, là ngày chính phủ quân nhân tại miền Nam Việt Nam ra mắt lần đầu tiên trước quốc dân và quốc tế, một năm rưỡi sau khi chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ vào ngày 2 Tháng Mười Một, năm 1963. Sau hơn một năm trời các sĩ quan cao cấp quân đội VNCH thay nhau cầm quyền, với những cuộc phản đảo chánh, chỉnh lý, và biểu tình chống đối của các thành phần tôn giáo và sinh viên liên tiếp xảy ra trong nước, Hội Ðồng Quân Lực – mà trước đó được gọi là Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng – gồm các tướng lãnh, trao quyền cai trị đất nước về cho các chính trị gia vào ngày 5 Tháng Năm, năm 1965, với một chính phủ dân sự dưới quyền Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Phan Huy Quát. Ðiều không may là phe dân sự tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ, dù gồm nhiều chính trị gia nổi tiếng, nhiều chuyên gia lỗi lạc, và nhiều nhà khoa bảng từ ngoại quốc trở về, không thể nào vừa điều hành đất nước một cách hữu hiệu vừa bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ trước các cuộc tấn công liên tiếp của các lực lượng CSBV đội lốt Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Tình trạng thù trong, giặc ngoài tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ chẳng những không giảm bớt mà ngày một gia tăng, với tình hình an ninh đất nước được mô tả là hết sức nguy ngập khi cường độ tấn công, phá hoại của Cộng Quân tại các địa phương gia tăng vượt ngoài tầm kiểm soát của chính quyền và các lực lượng quân sự địa phương. Cuối cùng, việc gì phải đến đã đến: Sau ba tháng đứng ra điều hành chính quyền và quân đội không xong, vào ngày 11 Tháng Sáu, 1965, chính quyền dân sự đành phải ra tuyên cáo trao trả lại quyền cai trị đất nước cho quân đội.

Sau khi được trao quyền, trong một cuộc họp quy tụ tất cả những tướng lãnh đang nắm các trọng trách trong quân đội, từ cấp tổng tham mưu trưởng, tư lệnh các vùng chiến thuật cho đến các tư lệnh quân, binh chủng, Hội Ðồng Quân Lực, vào ngày 12 Tháng Sáu, 1965, đề cử Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đảm nhiệm chức vụ chủ tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia (tương đương tổng thống), và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ giữ chức vụ chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (tương đương thủ tướng).

Ngày 19 Tháng Sáu, 1965, trong một buổi lễ ra mắt được long trọng tổ chức tại thủ đô Sài Gòn, các thành phần trong Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương tuyên thệ trung thành với tổ quốc, nhận trách nhiệm làm thành phần tiền phương của quân, dân miền Nam Việt Nam trong vai trò chỉ huy QLVNCH bảo vệ đất nước và điều khiển chính phủ, thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội, văn hóa, và giáo dục để xây dựng miền Nam Việt Nam thành một quốc gia phú cường, mặc dù đất nước đang có chiến tranh. Trong vai trò mới, QLVNCH ở hậu phương thì lo xây dựng nền độc lập, tự do và dân chủ, diệt trừ những mầm mống nằm vùng bạo loạn, và phát triển kinh tế, ngoài tiền tuyến thì chỉ huy quân đội ngăn chống những đợt sóng xâm lăng của Cộng Sản ngày càng mãnh liệt từ miền Bắc tràn vào.

Nhưng giới lãnh đạo quân sự tại miền Nam Việt Nam, tức QLVHCH, vì ý thức rằng cuộc chiến đấu tự vệ chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của Cộng Sản từ ngoài Bắc vào không phải là một cuộc chiến đơn thuần về quân sự mà là một trận chiến phối hợp giữa các mặt trận quân sự và chính trị cũng như kinh tế, đồng thời còn cảnh giác cao độ về vai trò sinh tử của một chế độ tự do, dân chủ tại miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến tranh một mất, một còn với phe Cộng Sản Quốc Tế, đã phải tìm cách chuyển đổi chế độ hội đồng quân nhân cầm quyền (military junta) hiện có sang một thể chế dân chủ hợp hiến và hợp pháp mới mong nâng cao uy tín của VNCH trên trường quốc tế.

Từ 1966 tới 1967, mặc dù chiến sự vẫn tiếp tục diễn ra vô cùng ác liệt trên khắp các mặt trận tại miền Nam Việt Nam – với sự can dự trực tiếp của quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng Ðồng Minh như Nam Hàn, Úc, New Zealand, và Thái Lan – chính quyền miền Nam Việt Nam dưới quyền của các tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, với sự hỗ trợ của chính phủ, dân chúng, quyết tâm tổ chức các cuộc tuyển cử tự do để thành lập Ðệ Nhị Cộng Hòa thay thế cho Ðệ Nhất Cộng Hòa của cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm đã cáo chung hồi năm 1963.

Chinh quyền Đệ Nhị Cộng Hòa, do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và các Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ và Trần Văn Hương lãnh đạo, đã có công giúp cho tiến trình dân chủ hóa miền Nam Việt Nam tuần tự diễn ra, với những cuộc bầu cử từ tổng thống và phó tổng thống cùng các đại biểu lưỡng viện Quốc Hội cho tới các nghị viên hội đồng thành phố và tỉnh trên toàn cõi miền Nam Việt Nam. Cho dù miền Nam Việt Nam vẫn đang đắm chìm trong khói lửa chiến chinh – với những trận chiến ác liệt như chiến dịch Bắc Phạt của Không Lực VNCH (1966-1967), cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân của Cộng Sản (1968), cuộc hành quân đánh sang Cambodia của Quân Ðoàn 3 (1970), cuộc hành quân của QLVNCH đánh sang Hạ Lào (1971), cuộc tổng tấn công của Cộng Sản vào Mùa Hè Ðỏ Lửa (1972), cuộc không tập và phong tỏa Bắc Việt của Hoa Kỳ vào mùa Giáng Sinh 1972… và với những biến cố chính trị lớn lao như cuộc Hòa Ðàm Paris (1968-1972), việc ký kết Hiệp Ðịnh Paris 1973, cuộc trao trả tù binh các bên lâm chiến (1973), những vụ Cộng Sản lấn đất, giành dân, vi phạm Hiệp Ðịnh Paris mà cao điểm là cuộc tấn công đánh chiếm Phước Long (1974)… tiến trình dân chủ hóa miền Nam Việt Nam diễn ra khá tốt đẹp dưới quyền lãnh đạo của một chính quyền mà đa số các giới chức cao cấp đều là sĩ quan hiện dịch trong quân đội hoặc có gốc gác nhà binh.

Nghĩ đến công ơn các chiến sĩ QLVNCH

Mặc dù miền Nam Việt Nam, tính luôn cả chính quyền Quốc Gia Việt Nam cùng hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa, chỉ tồn tại có 21 năm ngắn ngủi, tức là từ 1954 tới 1975, nhưng chế độ VNCH đã để lại những thành tích trị quốc, an dân dài lâu trong lòng người dân Việt Nam mà không thời kỳ nào trong lịch sử cận đại và hiện đại của nước nhà có thể sánh được. Nhưng đã là công dân VNCH trong suốt thời kỳ lịch sử đó, không ai lại không biết rằng cuộc sinh tồn của đất nước luôn luôn phải được đánh đổi bằng xương máu của chính người dân miền Nam Việt Nam, trong đó các chiến sĩ QLVNCH, mà tiền thân là Quân Đội Quốc Gia Việt Nam và Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, luôn phải đứng mũi, chịu sào. Đó là vì miền Nam Việt Nam không hề có được cái may mắn như Nam Hàn, là nước luôn được Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc hỗ trợ trong cuộc Chiến Tranh Triều Tiên (1950-1953) và dài dài cho đến ngày nay nên không hề bị Cộng Sản Bắc Hàn thôn tính, hoặc Tây Đức, là nước có được sự đồng tâm nhất trí che chở và bảo bọc của ba cường quốc Tây Phương – Hoa Kỳ, Anh, và Pháp – cho đến ngày Cộng Sản Đông Đức sụp đổ và sát nhập vào Cộng Hòa Liên Bang Tây Đức để trở thành Cộng Hòa Liên Bang Đức ngày nay.

Mặc dù cuối cùng rồi thì QLVNCH đã phải buông súng tan hàng vì xui xẻo bị người bạn Đồng Minh Mỹ bỏ rơi nửa chừng, người lính VNCH đã kiên cường chiến đấu trong suốt thời gian đất nước tồn tại, với những chiến thắng lẫy lừng từ Trận Mậu Thân 1968, cuộc hành quân Toàn Thắng 43 sang Cambodia năm 1970, cuộc chiến đấu tại An Lộc, Kon Tum, và Cổ Thành Quảng Trị hồi Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, trận chiếm lại ngọn đồi Thường Đức từ tay Cộng Quân năm 1973, và chiến thắng Xuân Lộc vào mùa Xuân 1975, mùa Xuân cuối cùng của dân tộc Việt Nam. Ngay cả lúc chiến bại, người lính VNCH lúc nào cũng anh dũng, hiên ngang, như một Nguyễn Đình Bảo tại Charlie năm 1970, một Nguyễn Văn Đương trên ngọn Đồi Máu Hạ Lào năm 1971, và một Ngụy Văn Thà anh dũng ở lại chết theo tàu trong trận hải chiến chống các lực lượng Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Đó là chưa kể những cuộc tuẫn tiết của các Thiếu Tướng Phạm Văn Phú và Nguyễn Khoa Nam cùng các Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, và Lê Nguyên Vỹ, cùng với Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long vào ngày 30 Tháng Tư, 1975, cũng như cuộc chiến đấu kiên cường cho đến lúc phải hy sinh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn và Trung Tá Cảnh Sát Lê Phó sau đó. Rồi khi cuộc chiến chấm dứt, các chiến sĩ QLVNCH kẻ thì hy sinh ngoài mặt trận, người thì mất đi một phần thân thể, kẻ thì chịu cảnh tù đày, người thì chết thảm trên đường vượt biên, vượt biển đi tìm tự do, để rồi tất cả ngày nay ai cũng đều cùng chung số phận của những kẻ đánh mất quê hương, sống đời lưu vong nơi quê hương thứ hai và luôn mang tâm trạng “nhớ nước đau lòng con quốc quốc, thương nhà mỏi miệng cái gia gia…”

Đến đây, tưởng cũng nên mượn ý nhạc trong ca khúc “Nửa Đêm Biên Giới” của Anh Bằng để nói lên phần nào những gian khổ tột cùng của người lính VNCH trong sứ mệnh dựng nước và giữ nước tại miền Nam Việt Nam: “Đêm nay quê nhà mẹ hiền còn thương đứa con nơi chốn xa vời/Không than, không sầu, đầu non cuối ghềnh ôm cây súng canh rừng sâu…” Phải chăng đó cũng là khúc ca bi tráng của các chiến sĩ Tiểu Đoàn 92, Biệt Động Quân QLVNCH, tại tiền đồn Tống Lê Chân thuộc tỉnh Tây Ninh, nơi vùng biên giới Việt Nam-Cambodia khi họ bị quân CSBV vây hãm ngặt nghèo trong gần một năm rưỡi trời, tức là 510 ngày, từ 10 Tháng Năm, 1972 đến 11 Tháng Tư, 1974, để rồi đành phải rút lui vì hết đạn và hết lương thực mà không hề được tiếp tế và tiếp viện?

(Vann Phan / Báo Người Việt)

CHUYỆN GIỜ MỚI KỂ : Di tản trên Tỉnh lộ 7 với góc nhìn từ trên cao, và hành trình di tản bằng Chinook từ Phù Cát, Nha Tr...
08/08/2025

CHUYỆN GIỜ MỚI KỂ : Di tản trên Tỉnh lộ 7 với góc nhìn từ trên cao, và hành trình di tản bằng Chinook từ Phù Cát, Nha Trang, Phan Rang, Biên Hoà, TSN Sài Gòn…

Có lẽ tôi là 1 trong những nhân viên phi hành thuộc phi đoàn trực thăng vận tải Chinook 241, thuộc căn cứ 60 chiến thuật Phù Cát đóng trụ lâu nhất tại đây tính từ ngày thành lập PĐ 241 năm 1972 cho đến ngày di tản khỏi căn cứ 60 chiến thuật KQ Phù Cát cuối tháng 03/1975.
Và chiếc trực thăng Chinook mang số hiệu 034 đã đưa tôi đến nhiều nơi trên bản đồ vùng 2 chiến thuật, từ vùng rừng thẳm biên giới Lào Việt cho đến đồng bằng trung bộ Quảng Ngãi, Tam quan, Bồng sơn…những nơi là cái nôi của cs.

Tôi là 1 HSQ, Cơ khí phi hành trên trực thăng vận tải Chinook, tình nguyện vào Không Quân VNCH tháng 01/1971 sau hơn 1 năm được đào tạo Quân sự và chuyên ngành Cơ khí phi hành.
Đầu giữa năm 1972 tôi được điều về PĐ 241 Chinook phù Cát, 1 nơi mà ít anh em nào mong mỏi, thực sự buồn khi những tháng đầu đến nơi này !
Ngoại trừ những phi vụ tiếp tế hành quân có dịp ra khỏi căn cứ đến những tỉnh thành phố thị, hoặc cuối tuần mò ra thị xã Qui nhơn cách khoảng 30km, còn hàng ngày mỗi chiều chỉ ra đến ngã 3 Gò găng là cùng !

Nhưng bù vào đó, vì phi trường Phù cát mới được Mỹ bàn giao nên tiện nghi chỗ ăn ở là tuyệt vời, là 1 HSQ nhưng mỗi người cũng nhận được 1 phòng, có phòng đầy đủ tiện nghi máy lạnh, tủ lạnh…
Ở trên lầu vẫn còn nhân viên phi hành Mỹ, họ chưa rút hết vì còn nhiệm vụ tập huấn cho cơ khí phi hành VN 1 thời gian ngắn.

Đúng là thời trai trẻ có khác, đối với dân phi hành dù cho có đi bay nguy hiểm ( thời điểm 1972 chiến trường sôi động đỏ lửa) nhưng vẫn tình nguyện đi bay biệt phái Tây nguyên Pleiku. Và cũng chính nơi này nhiều anh đã phải lòng em gái Pleiku má đỏ môi hồng như lời bài hát của Phạm Duy “Còn Chút Gì Để Nhớ”

Sau 3 năm phục vụ tại PĐ241 CC60 Chiến Thuật Phù Cát gần như hầu hết các anh em được thuyên chuyển về những nơi mà mình có nguyện vọng gần người Thân, đa phần anh em có nguyện vọng về Biên Hoà hoặc Cần Thơ.
Riêng tôi mặc dù gia đình ở SG, có nguyện vọng được thuyên chuyển về Biên Hoà hoặc Đà Nẵng (Tôi thích Đà Nẵng hơn Cần Thơ)
Nguyện vọng 1 về Biên Hoà không được toại nguyện, tôi sẽ phải thuyên chuyển ra Đà Nẵng từ tháng 06/1975 !

Chính vì những lý do trên mà tôi được chứng kiến cảnh di tản từ Pleiku, Phù Cát, tỉnh lộ 7, Phan Rang, Biên Hoà và sau cùng là TSN Sải Gòn…từ trên cao nhìn xuống !
Sau khi có lệnh rút khỏi Tây Nguyên, biệt đội Chinook tại phi trường Pleiku rút về Phù Cát, thời gian này chúng tôi có những phi vụ tiếp tế, chuyển quân cho đoàn người đi theo tỉnh lộ 7 từ Pleiku về Phú Yên.
Thực sự kinh hoàng khi tận mắt chứng kiến cảnh đoàn người và xe di tản trên tỉnh lộ 7 từ trên cao, chúng tôi thấy từng tốp người quỳ lạy máy bay đáp xuống hoặc tiếp tế thực phẩm cho họ, nhưng làm sao có thể đáp ứng hết được, đây mới chỉ là cái nhìn tổng thể từ trên cao.
Nếu phải chứng kiến cảnh sinh hoạt, sinh tồn của đoàn người trong những ngày di tản sẽ khùng khiếp biết chừng nào so với chúng tôi chứng kiến họ !

Đoàn người di tản gồm binh lính và Dân từ Tây Nguyên về Phú yên…chưa được bao lâu thì khoảng cuối tháng 3/1975 (không nhớ rõ) lại có lệnh di tản về Nha Trang, lúc này chúng tôi đang ở phi trường Phù cát, và thế là chúng tôi lên Chinook bay về Phi trường Nha Trang yên bình.
Vừa mới đến Nha Trang, chiều hôm đó số đông anh em đã mò ra phố hưởng không khí phố thị sau nhiều ngày cắm trại tại Phù cát.

Hưởng nhịp sống phố thị Nha Trang chưa được bao lâu (chừng 2 ngày, không nhớ rõ) thì đầu giờ chiều ngày đó lại có lệnh di tản về Phan Rang, cũng chẳng nghe súng lớn súng bé gì nổ cả !
Và đây là chuyến bay kinh hoàng đối với phi hành đoàn Chinook chúng tôi :
Đầu giờ chiều hôm ấy chúng tôi có lệnh di tản gấp về Phan Rang, cũng may là lúc đó tôi chưa ra phố chơi và thế là những anh em có mặt tại đơn vị vội về phòng lấy đồ đạc quân dụng mang theo ra máy bay.
Khi chạy ra đến bãi đậu Chinook thì tôi thấy có rất nhiều anh em KQ làm dưới đất đứng quanh bãi đậu, khi họ thấy chúng tôi lên máy bay họ ủa lên theo, khi pilot đề được máy tôi vội đóng Ramp cửa sau lên, nhưng lúc này trên máy bay người đứng sắp lớp như cá hộp, có lẽ phải đến cả trăm người thêm vật dụng súng ống họ mang theo, cũng vì vậy Ramp không thể lên hết.

Chinook bắt đầu nâng lên chuẩn bị rời mặt đất, lúc đó tôi đứng ở cuối tàu nhìn xuống dưới ramp tôi thấy có mấy người đu theo bám víu vào thành ramp sau, trong đó tôi thấy rõ có 1 ông mang lon thiếu tá bám theo ramp tàu, miệng nói lắp bắp gì đó tôi không nghe rõ, vì tôi là nhân viên phi hành có đội nón bay để liên lạc nên không thể nghe ông và những người bu theo nói gì.
Không còn cách nào khác để bảo toàn sinh mạng cho những người đu theo máy bay, tôi lập tức dùng chân đẩy họ rớt xuống đất khi máy bay vẫn còn cách mặt đất 2, 3 mét (trên máy bay đầy nghẹt không còn chỗ) nếu máy bay lên cao họ mỏi tay buông xuống chắc chắn là chết.

Chiếc Chinook rời mặt đất hướng ra biển, tuy nhiên vẫn không thể lấy được độ cao vì quá tải, như tôi đã nói ở trên với sức chứa cả trăm người thêm vũ khí quân dụng, nếu cứ giữ nguyên thế này chắc chắn chiếc Chinook sẽ gặp nạn.
Không đợi ý kiến của trưởng phi cơ, tôi với mấy anh em phía sau đẩy khoảng 4,5 chiếc xe máy xuống biển, tuy nhiên máy bay vẫn chưa lấy được cao độ !
Ngay sau đó tôi len lên đầu tàu chỗ cửa sổ xạ thủ đặt đại liên la lớn: “Muốn sống anh em làm theo tôi vất hết đồ đạc súng ống xuống biển”, dứt lời tôi vất đồ đạc cá nhân súng của tôi xuống biển, liền sau đó anh em chuyển nhau tất cả đồ đạc, quân dụng súng ống của tất cả anh em quăng xuống biển !

Và thế là Chiếc Chinook dần lấy được độ cao và đến phi trường Phan Rang an toản, tất cả anh em thở phào nhẹ nhõm dù trên mỗi người anh em chỉ còn duy nhất bộ đồ đang mặc trong người.
Người duy nhất trách yêu tôi là anh copilot mà sau này tôi nghe một anh bạn kể lại “thằng Thái nó quẳng xe tao xuống biển”
Đến phi trường Phan rang chưa bao lâu, máy bay vẫn còn nổ máy, xăng đã được châm đầy. Lại được lệnh di tản về Biên Hoà và thế là máy bay trực chỉ xuôi Nam.

Về Phi trường Biên Hoà đâu được khoảng tuần lễ, vì thặng dư quân số nên cánh Phù cát chúng tôi được ưu ái 2,3 phi hành đoàn được đóng chốt tại TSN Sải Gòn (ngay trạm không lưu).
Những ngày này chúng tôi chứng kiến dòng người có liên hệ mật thiết với Mỹ và thân nhân họ được máy bay Mỹ di tản khỏi VN.
Tôi cũng biết rằng trước sau gì chúng tôi cũng sẽ di tản, vì vậy những ngày sau đó tôi không về nhà (nhà khu chợ Nguyễn Văn Thoại Tân Bình, gần Phi trường TSN) mà ăn ngủ trong Phi trường luôn, đêm đến ngủ ngay trong tàu hoặc dưới bụng chiếc Chinook.

Đúng là số tôi đen đủi, sau mấy ngày không về thăm nhà, chiều ngày 28/04/1975 tôi định chạy về thăm nhà chốc lát rồi sẽ vô lại Phi trường ngay, nhưng về vừa đến ngã 4 Bảy Hiền thì Phi trường bị đánh bom !
Phi trường đóng cửa, tôi không có cách nào vô lại căn cứ , nội bất xuất ngoại bất nhập, và rồi đành xuôi cho số phận !
Chiều 29/04/1975 lại 1 cơ hội khi 1 chiếc Chinook không biết từ đâu đến đáp tại khoảng đất trống (trước kia thuộc Saigon Depot nằm đối diện hẻm Tân Phước đường Nguyễn Văn Thoại, nay là Toyota Lý Thường Kiệt).
Khi chiếc Chinook đáp xuống cũng có nhiều người tìm cách leo qua bức tường rào trong đó có cả Ba, em trai tôi nhưng tất cả đều không thể vượt qua, chỉ duy nhất mình tôi không biết sức mạnh nào mà tôi đã vượt qua và leo lên được chiếc Chinook đó.
Nhưng rồi chiếc Chinook đó đã gặp nạn rớt tại gần kho xăng Nhà Bè (hết xăng), tôi đã thoát nạn khi quyết định không theo tàu (máy bay đáp xuống Nhà Thờ Đồng Tiến đón gia đình Pilot trường phi cơ) vì đoan chắc máy bay sẽ hết xăng khó mà có chỗ tiếp xăng an toàn.
Tôi đã suy đoán chính xác, và rồi những tháng ngày sau 30/04/1975 tôi làm gì, bị gì tôi đã kể trong những mẩu bài viết “Chuyện Giờ Mới Kể”.

Tôi muốn nhấn mạnh trong bài viết này chặng đường di tản từng chặng qua các tỉnh trong tháng 04/1975 của đơn vị chúng tôi và các đơn vị bạn hầu như không có giao tranh thậm chí tiếng súng còn hiểm, sự hỗn loạn chen chúc do chính mình tạo nên qua các chặng đường !
Họ thắng ta nhanh gọn hơn trong mơ họ tưởng, thắng bằng cái miệng tuyên truyền rỉ tai hơn là sức mạnh quân sự của họ.
Tôi nhớ lại thời gian đó khi từ Tây nguyên rút về các tỉnh ven biển Phú yên, Bình Định Qui Nhơn sau đó lại nghe tin chia Đất từ Nha Trang trở vào thế là Quân và Dân lại ùn ùn di tản về Nha Trang, khi về đến Nha Trang lại có tin chia đất từ Phan rang và rồi lại kéo nhau di tản đâu đánh đấm gì.
Và cứ như thế cho đến ngày kéo hết về Sải Gòn, thì số phận đã được an bài !

Kết Luận: Võ miệng vô cùng quan trọng, sức mạnh của cái miệng và truyền thông còn hơn cả sức mạnh quân sự !
Cho đến ngày hôm nay sức mạnh bằng cái miệng vẫn phát huy được tác dụng.

Thái Đoàn.
20/10/2023.

08/08/2025
08/08/2025

Top 11 reasons why I left Islam ~ Fatima Khan

1. Irrational hate of the Christianity
2. Irrational hate of the Jews
3. Irrational hate of the Hindu
4. Quran is badly written, very incoherent and without any sense of spirituality like the religion
5. Prophet was a s*xually depraved warmongering paedo (that became the first top reason the more I uncovered it)
6. Not allowing any dissent or to leave
7. Irrational hate of all polytheists
8. There is no respect for women in Islam.
9. The religion combined with Sharia is not much different to Communism
10. Subjugation and restriction of women to be free, as they want to be
11. In Islam a man can marry 5 times and woman can marry 1 time and you can also do Halala with them?

08/08/2025
08/08/2025

Elon Musk has long bragged that the Tesla Cybertruck is a uniquely impervious vehicle thanks to its stainless steel body and “bulletproof” windows, calling it “an armored personnel carrier from the future.” Now that claim will be put to the test by none other than the US Air Force, which aims to use the Cybertruck for some target practice.

In documents uncovered by a publication called The War Zone (great name, btw), the Air Force says it wants to buy two Cybertrucks for “target vehicle training flight test events.” The reason given is that America’s adversaries could seek to use the Cybertruck for military purposes at some point in the future, and the Air Force wants to see if it can blow them up.

The Cybertrucks were requested as part of a batch of 33 vehicles, including sedans, pickups, SUVs, and bongo trucks, that the Air Force wants to use for target practice at the White Sands Missile Range in New Mexico. The Cybertruck was the brand-specific vehicle to be cited in the documents, which speaks to the military’s concerns about its potential as a enemy vehicle.

Image: Cath Virginia / The Verge

08/08/2025

Address

Fort Rucker, AL

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when VNAF & me posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share