VNAF & me

VNAF & me All about VNAF, USAF, USAAVN & me.

12/12/2025
12/12/2025

World War 2 Fighter Aircraft : P-47 | P-51 | Spitfire | BF-109 | Zero | Yak-9

12/12/2025

Hazel Ying Lee’s story sits right at the crossroads of courage, timing, and the messy realities of wartime America. She joined the Women Airforce Service Pilots (WASP) at a moment when the U.S. desperately needed pilots but still hesitated to fully accept women and especially women of color, in military roles. Despite that, Hazel pushed her way in with a mix of skill, humor, and absolute fearlessness. Friends described her as someone who could make a room lighter just by walking into it, but who also flew like she had something to prove.

The Kansas incident is one of those moments that captures both the absurdity and the tension of the era. After making an emergency landing in a rural field, Hazel stepped out expecting to deal with a mechanical issue. Instead, she found herself being chased around her own aircraft by a terrified farmer wielding a pitchfork, shouting to his neighbors that the Japanese were invading. It was a snapshot of wartime paranoia colliding with the reality of an Asian‑American woman in a U.S. military uniform, an encounter that was both dangerous and, in hindsight, darkly comic.

What makes Hazel’s legacy so compelling is how she carried herself through these contradictions. She trained male pilots, ferried high‑performance aircraft across the country, and navigated a military system that didn’t quite know what to do with someone like her. She wasn’t just breaking barriers; she was doing it with grace, grit, and a sense of humor sharp enough to cut through the prejudice around her.

12/12/2025

Jesus Villamor’s squadron of six repelled 54 Japanese air raiders in Batangas.

HÔM NAY 11-12-2025, NHÂN NGÀY TƯỞNG NIỆM 81 CHIẾN SĨ NHẢY DÙ VNCH ĐÃ HY SINH TRÊN CHIẾC PHI CƠ C-123 LÂM NẠN TẠI TUY HÒA...
12/12/2025

HÔM NAY 11-12-2025, NHÂN NGÀY TƯỞNG NIỆM 81 CHIẾN SĨ NHẢY DÙ VNCH ĐÃ HY SINH TRÊN CHIẾC PHI CƠ C-123 LÂM NẠN TẠI TUY HÒA.

KỂ LẠI CÂU CHUYỆN CŨ

Năm 1983, trong một lần tìm kiếm xác máy bay để nhặt phế liệu, tôi đã đến nơi chiếc máy bay vận tải rớt nằm trên đỉnh núi Chúa, một nơi hiểm trở cách Tuy Hòa 30km về hướng Tây Nam theo đường chim bay. Lúc đó tôi không hề biết rằng đây là nơi lâm nạn của 4 quân nhân không lực Hoa Kỳ và 81 chiến sĩ VNCH thuộc binh chủng nhảy dù, ngày 11 tháng 12 năm 1965.

VỀ CHIẾC MÁY BAY LÂM NẠN

…Những ức đoán mơ hồ của tôi về tung tích chiếc máy bay và số phận của những người có mặt trên chuyến bay này chỉ sáng tỏ sau gần 40 năm khi tôi đọc được bản tin trên Việt Báo vào ngày 29/10/2019 tường thuật lại buổi lễ truy điệu và an táng 81 chiến sĩ nhảy dù tại nghĩa trang Feek Funerals Home bên cạnh Tượng Đài Thuyền Nhân Việt Nam, Westminter California Hoa Kỳ.

BẢN TIN VIẾT:

“Được biết vào ngày 11 tháng 12,1965, chiếc vận tải cơ C123 của Không Lực Hoa Kỳ có số đuôi 64376 do Thiếu Tá Robert M. Horsky lái, phi công này từng lái pháo đài bay B52 trước khi lái vận tải cơ C123. Chiếc máy bay có phi hành đoàn gồm bốn quân nhân Hòa Kỳ và 81 lính Dù thuộc Đại Đội 72 Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù được không vận từ Pleiku về Tuy Hòa.

Phi cơ cất cánh lúc 10 giờ 18 phút sáng. Sau đó mọi điện đàm bị mất và màn hình radar cũng không còn dấu vết chiếc vận tải cơ C 123. Ngay sau đó, Hoa Kỳ đã cho máy bay trinh sát để tìm dấu vết phi cơ lâm nạn. Sau ba ngày 11, 12, 13 tháng 12, 1965, liên tiếp tìm kiếm nhưng không kết quả vì sương mù dầy đặc nên phải tạm ngưng tìm kiếm.

Bảy ngày sau, trên phi cơ trinh sát, toán tìm kiếm đã phát hiện chiếc phi cơ lâm nạn bị gẫy nát chỉ còn khoảng 20 bộ nằm trên đỉnh núi về phía Tây Nam Tuy Hòa khoảng 20 dặm. Phi cơ rớt nằm trên độ cao khỏang 4,000 bộ, toán trên phi cơ trinh sát không thấy có sự sống của phi hành đoàn và những người trên phi cơ lâm nạn”.

(Theo một tài liệu lưu trữ về chiếc phi cơ C-123 của không quân Hoa Kỳ lâm nạn ngày 11 thàng 12 năm 1965 tại chiến trường Việt Nam được ghi nhận như sau:
Nguyên nhân phi cơ lâm nạn là do mây mù và mưa rào che khuất tầm nhìn của phi công làm cho phi cơ đụng vào cây trên sườn núi cao độ 4000 FEET, phi cơ rơi xuống một đỉnh núi cao độ 1000 FEET, làm cho tất cả 4 nhân viên phi hành đoàn không quân Hoa Kỳ và 81 quân nhảy dù QLVNCH thiệt mạng)

“Sáu tháng sau đó, cuộc tìm kiếm vẫn tiếp tục nhưng không ai đặt chân vào được vì khu vực do lực lượng Việt Cộng kiểm soát. Phải 8 năm rưỡi sau, vào ngày 16 tháng 6, 1974, một toán tìm kiếm khác gồm hai quân nhân VNCH và 8 người thợ rừng tiến vào khu vực phi cơ lâm nạn để quan sát tình hình trước.

Bảy ngày sau tức là 23 tháng 6, 1974 toán tìm kiếm trên lại vào và thu gom được 17 bao tải những hiện vật và xương cốt rải rác phía ngoài chiếc vận tải cơ. Toán tìm kiếm không vào trong phi cơ được vì còn nhiều lựu đạn và đạn M79 chưa nổ.

Ngày 28 tháng 6, 1974 Hoa Kỳ đưa 17 bao tải hiện vật thu được qua Thái Lan để xác định và phân tích. Hài cốt bốn người Hoa Kỳ trong phi hành đoàn đã được đưa về Hawaii nhận dạng, sau đó đưa về an táng tại nghĩa trang Quốc Gia Arlington Hoa Kỳ.

Riêng 81 quân nhân Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù chuyển quân trên chiếc phi cơ đó, vì không có danh sách nên mãi đến hôm nay, qua sự thông báo của Gia Đình Mũ Đỏ trên các cơ quan truyền thông Việt Ngữ, và căn cứ trên các thẻ bài hay căn cước quân nhân, mới chỉ có 19 thân nhân của các tử sĩ xác nhận người thân của mình đã vĩnh viễn ra đi.”

Số còn lại, đúng như lời ông Jim Webb nói với chính phủ và người dân Hoa Kỳ, “Chúng ta có thể không bao giờ biết những hài cốt này là ai, chỉ biết họ là những đồng minh của chúng ta. Sau buổi lễ, những người lính bị lãng quên này sẽ được yên nghỉ trong một nghĩa trang của người Mỹ gốc Việt lớn nhất trên đất nước chúng ta.”

Phát biểu trong dịp này, NS Jim Webb nói, “Tôi mới biết được trường hợp này hai năm trước đây. Sau nhiều tháng thương lượng khó khăn về mặt ngoại giao và mặt luật pháp, giờ đây sự kiện này mới có thể xảy ra.
“Những mảng xương và những món đồ cá nhân của họ đã được thu thập, tất cả hài cốt đã trộn lẫn vào nhau để có thể đưa vào trong một quan tài và được chuyển đến Bankok, Thái Lan. Những quân nhân Mỹ đã được xác định danh tính bằng phương pháp thử nghiệm DNA và được chôn cất chu đáo.

“Thế nhưng đối với những người lính VNCH vì họ không có bản kê khai trên chuyến bay nên vào năm 1986 hài cốt của họ được gửi tới phòng thí nghiệm POW/MIA ở Hawaii và đã được cất giữ tại đó trong suốt 33 năm qua.

“ Đã hai lần nhà cầm quyền Hà Nội từ chối nhận những hài cốt này để an táng tại Việt Nam, và vì họ cũng không phải là công dân hay quân nhân Hoa Kỳ nên cũng không có cách nào khác để vinh danh và chôn cất họ tại Hoa Kỳ.

“Họ là những người lính vô danh và thực sự là những người vô tổ quốc sau khi họ đã chiến đấu và hy sinh cho một đất nước mà hiện nay đã không còn.”

Ông Jim Webb cũng phát biểu ca ngợi sự hy sinh của 81 tử sĩ Nhảy Dù và sự can trường của người Việt trong cuộc trốn chạy chế độ Cộng Sản vào cuối tháng Tư 1975.

Ông Jim Webb nói, “Đây sẽ là nơi an nghỉ cuối cùng của cuộc hành trình phức tạp dài 54 năm, bắt đầu trong một cuộc chiến ác liệt, xé nát đất nước chúng ta để lại 58,000 quân nhân Hoa Kỳ và hàng triệu người dân Việt Nam phải bỏ mạng. Những người lính này sẽ được an táng tại một nơi ghi nhớ sự can đảm và sự đóng góp của hàng trăm ngàn người tỵ nạn Việt Nam. Những người đã liều mạng ra khơi trong giai đoạn nguy hiểm nhất, hy sinh tất cả để có thể đến được đất nước Hoa Kỳ này.”

Để vinh danh 81 Tử Sĩ Nhảy Dù, thịt nát xương tan 9 năm nằm trên sườn núi, rồi 45 năm lưu vong từ Việt Nam qua Thái Lan, Hawaii đến California Hoa Kỳ, nhà thơ Đằng Phương đã viết:

“Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật
Nhưng máu họ đã loang vào mạch đất
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông
Và anh hồn chung với tấm trinh trung
Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt”

12/06/2025
A-10 Thunderbolt with pilot KCNgày 7 tháng 4 năm 2003, bầu trời Baghdad bùng lên một quầng sáng cam khi đại úy Kim “KC” ...
12/06/2025

A-10 Thunderbolt with pilot KC

Ngày 7 tháng 4 năm 2003, bầu trời Baghdad bùng lên một quầng sáng cam khi đại úy Kim “KC” Campbell cảm nhận vụ nổ xé toạc chiếc A-10 Thunderbolt II của mình. Chỉ trong tích tắc, khi các cần điều khiển trở nên mềm oặt và chiếc máy bay lao thẳng xuống mặt đất, cô buộc phải đưa ra một quyết định sẽ định nghĩa cả cuộc đời mình.

Campbell là một trong chỉ 50 phụ nữ lúc ấy được phép lái máy bay chiến đấu của Không quân Hoa Kỳ. Cô vào Học viện Không quân năm 1993 — năm đầu tiên phụ nữ được phép trở thành phi công tiêm kích. Và năm 2003, cô đang sống đúng giấc mơ tuổi nhỏ của mình — giấc mơ nảy sinh vào năm lớp 5, trong khoảnh khắc cô nhìn thấy tàu con thoi Challenger cất cánh… rồi nổ tung trước mắt. Bi kịch ấy không làm cô sợ. Nó khiến cô quyết tâm hơn.

Sáng hôm đó, Campbell và trưởng biên đội, trung tá Rick Turner, rời Kuwait đến Baghdad với nhiệm vụ đơn giản: phá hủy xe tăng và trận địa pháo của lực lượng Vệ binh Cộng hòa Iraq. Nhưng khi tới gần thành phố, mọi thứ thay đổi.

Một tín hiệu radio tuyệt vọng vang lên: lính Mỹ dưới mặt đất đang bị kẹt dưới hỏa lực dữ dội ngay trung tâm Baghdad. Họ cần hỗ trợ ngay lập tức.

Người phát tín hiệu ấy chính là người của đơn vị Campbell.
Đồng đội cô đang cần cô.

Không do dự, Campbell và Turner chuyển hướng vào thẳng trung tâm thành phố. Điều kiện cực kỳ nguy hiểm: mây dày, tầm nhìn kém, tên lửa phòng không rình rập, dân thường chạy tán loạn trên những con phố biến thành chiến trường. Mỗi quyết định là một cửa tử: bay cao quá thì không nhìn thấy quân ta; bay thấp quá thì thành bia sống.

Campbell lao vào nhiều lượt tấn công, bắn phá các vị trí địch đang uy hiếp quân Mỹ. Tình hình dần chuyển biến: người đồng đội dưới đất cuối cùng cũng nhận được sự hỗ trợ sống còn.

Rồi đến lượt tấn công cuối cùng.

Một quả tên lửa đất đối không đánh trúng bộ ổn định đuôi bên phải chiếc A-10.
Sức công phá khủng khiếp.
Các mảnh vỡ xuyên thủng thân máy bay để lại hàng trăm lỗ.
Cả hai hệ thống thủy lực đều bị cắt đứt.

Vụ nổ rung chuyển toàn thân máy bay. Campbell cảm nhận rõ các điều khiển hoàn toàn chết cứng, trong khi máy bay lật mạnh sang trái và chúi thẳng xuống Baghdad.

Trong khoảnh khắc dài như vô tận, cô rơi thẳng xuống một thành phố với hàng triệu dân, chiếc máy bay trị giá hàng triệu đô của cô biến thành một cỗ quan tài rơi tự do.

Mọi bản năng gào lên: kéo tay ghế phóng.

Nhưng phóng ra đồng nghĩa gần như chắc chắn bị bắt sống giữa khu vực thù địch — và chiếc máy bay mất lái sẽ rơi vào những khu dân cư đông đúc.

Campbell lựa chọn:

Cô chiến đấu.

Giữa lưới lửa phòng không từ mọi hướng, cô chuyển máy bay sang chế độ điều khiển cơ khí dự phòng (manual reversion) — chế độ mà tài liệu huấn luyện Không quân luôn cảnh báo:

“Chỉ sử dụng trong điều kiện lý tưởng.”

Chế độ này bỏ toàn bộ hỗ trợ thủy lực. Campbell phải điều khiển các cáp, ròng rọc và bề mặt điều khiển… chỉ bằng sức của hai cánh tay.

Chiếc máy bay phản hồi — chậm, nặng nề — nhưng nó ngóc lên.

Hành trình gian khổ của cô mới chỉ bắt đầu.

Cô còn phải vượt 500 km để quay lại căn cứ ở Kuwait.
Mỗi động tác cần một sức lực khủng khiếp.
Cần điều khiển nặng như đúc bê tông.

Cô không có phanh.
Không có điều hướng.
Không có bộ ổn định hoạt động.
Chỉ còn ý chí.

Turner bay sát cánh bên cạnh, hướng dẫn từng bước, giữ cô sống sót suốt chặng đường.

Trong một giờ liền, Campbell vật lộn với chiếc máy bay thương tích đầy mình, hai cánh tay bỏng rát vì căng sức, trong khi hỏa lực địch vẫn găm vào bầu trời.

Thống kê thật đáng sợ:

chỉ có 3 phi công từng thử hạ cánh bằng chế độ manual reversion;

1 người tử nạn;

2 người rơi và phá hủy máy bay.

Không quân Mỹ thậm chí không cho luyện tập kiểu hạ cánh này — quá nguy hiểm.

Campbell biết tất cả điều đó khi đưa máy bay vào trục hạ cánh.

Không phanh.
Không điều hướng.
Không hệ thống ổn định.

Chiếc máy bay trông như vừa đi qua một cái máy nghiền kim loại.

Nhưng cô có 1.800 giờ bay trên A-10 — loại máy bay nổi tiếng vì khả năng chịu đòn phi thường.
Cô có kinh nghiệm.
Cô có tiếng của Turner trong tai nghe.
Cô có giấc mơ tuổi nhỏ từng đẩy cô vào con đường này.

Đội cứu hộ chờ cuối đường băng, tin chắc họ sắp chứng kiến thảm họa.

Campbell đã hạ cánh — bằng sự kiên trì của từng centimet.

Và cô hạ cánh hoàn hảo.

Trung tá Mike Millen, trưởng bộ phận an toàn, chết lặng. Sau này ông nói:

“Kim hạ chiếc A-10 không thủy lực còn tốt hơn tôi hạ một chiếc A-10 hoàn chỉnh.”

Sáng hôm sau, Campbell lại lên buồng lái, thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm cứu hộ cho một phi công A-10 khác vừa bị bắn rơi gần Baghdad.

Không có thời gian để suy nghĩ.
Đơn vị cần cô.
Đó là điều phi công A-10 luôn làm.

Vì hành động của mình, cô được trao Distinguished Flying Cross, một trong những huân chương cao quý nhất của Không quân.

Tướng Richard Myers, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, nhận xét:

“Cô là một trong số rất ít phi công từng hạ cánh A-10 bằng chế độ điều khiển cơ khí.”

Nhưng Campbell chưa bao giờ tự xem mình là đặc biệt. Khi được hỏi cảm giác làm “nữ phi công tiêm kích”, cô chỉ nói:

“Tôi chẳng nghĩ về điều đó. Điều quan trọng là làm việc chăm chỉ và làm tốt. Khi bạn giỏi, chẳng ai quan tâm bạn thuộc giới nào. Tôi không phải nữ phi công tiêm kích. Tôi là phi công tiêm kích — và tôi yêu công việc này.”

Trong 24 năm sự nghiệp, đại tá Kim Campbell thực hiện hơn 100 nhiệm vụ chiến đấu ở Iraq và Afghanistan. Cô chỉ huy hàng trăm quân nhân, điều hành nhiều tổ chức lớn, và cuối cùng trở thành giám đốc Trung tâm Phát triển Nhân cách và Lãnh đạo tại Học viện Không quân — nơi khởi đầu hành trình của cô.

Chiếc A-10 bị bắn nát của cô, số hiệu 81-987, được đánh giá không thể sửa chữa.
Ngày nay, nó được trưng bày tại căn cứ Seymour Johnson ở Bắc Carolina — một minh chứng sống động cho lòng can đảm, kỹ năng và ý chí sinh tồn phi thường.

Câu chuyện của Campbell không chỉ là một cú hạ cánh thần kỳ.
Nó là câu chuyện về một đứa bé lớp 5 nhìn thấy bi kịch và vẫn chọn con đường bay lên bầu trời.
Câu chuyện của một trong những phụ nữ đầu tiên phá vỡ một pháo đài nam giới, chứng minh rằng xuất sắc không có giới tính.
Câu chuyện của một con người đối mặt với điều bất khả, và quyết định không bỏ cuộc.

Ngày 7 tháng 4 năm 2003, trên bầu trời Baghdad, Kim Campbell không chỉ cứu mạng mình.
Cô cho cả thế giới thấy ý nghĩa thật sự của việc phục vụ, lãnh đạo và không bao giờ bỏ rơi đồng đội — hay chính mình.

Đó không chỉ là chủ nghĩa anh hùng.
Đó là phần đẹp nhất của con người.

- Internet

Address

Fort Rucker, AL

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when VNAF & me posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share