BazanEntertainment

BazanEntertainment Truyền thông giải trí

Bazan Entertainment chuyên cung cấp các dịch vụ về truyền thông như: lên chiến lược marketing, quảng cáo, quay MV,..chúng tôi luôn mang đến những dịch vụ chất lượng, giải quyết khó khăn của doanh nghiệp. Với phương châm "Sự hài lòng của bạn là thứ chúng tôi muốn hướng đến", chúng tôi luôn đề cao giá trị và chất lượng của dịch vụ, tối ưu về dịch vụ khách hàng, đảm bảo mang đến sự hài lòng cho khách hàng khi trải nghiệm dịch vụ.

★ 3 THUẬT TOÁN “VỠ LÒNG” CHO CHIẾN LƯỢC TĂNG TRƯỞNG KÊNH TIKTOKViệc nắm rõ kiến thức về cách các thuật toán vận hành trê...
27/04/2023

★ 3 THUẬT TOÁN “VỠ LÒNG” CHO CHIẾN LƯỢC TĂNG TRƯỞNG KÊNH TIKTOK
Việc nắm rõ kiến thức về cách các thuật toán vận hành trên TikTok là vô cùng hữu ích để marketer có thể đi nhanh, tiết kiệm nguồn lực trong việc tiếp cận khán giả, tìm kiếm những cơ hội kinh doanh.
Trong bài viết này sẽ chia sẻ 3 thuật toán cơ bản và trọng yếu trên TikTok, đó là:
1. Cách TikTok phân tích và hiểu nội dung video thông qua các meta data, nội dung video và audio
2. Cách TikTok phân tích hành vi và đề xuất các video phù hợp cho mỗi người dùng
3. Cách TikTok phân tích và phân phối video đến các đối tượng người dùng phù hợp
★ Bài viết được chia sẻ bởi anh Lê Tịnh Minh, Senior Digital Lead @ Toong. Anh có hơn 7 năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực digital, content và chiến lược tăng trưởng. Anh đã từng thành công trong việc xây dựng các kênh TikTok từ con số 0.
Xem chi tiết 👇

★ NETFLIX DẪN ĐẦU TOP 10 ỨNG DỤNG XEM PHIM VÀ GIẢI TRÍ TRỰC TUYẾN NĂM 2023Sôi động và không ngừng cạnh tranh, lượng thảo...
24/04/2023

★ NETFLIX DẪN ĐẦU TOP 10 ỨNG DỤNG XEM PHIM VÀ GIẢI TRÍ TRỰC TUYẾN NĂM 2023

Sôi động và không ngừng cạnh tranh, lượng thảo luận toàn thị trường ứng dụng xem phim và chương trình giải trí đạt 3.108.442 thảo luận chỉ trong 4 tháng đầu năm, cao gấp 1,5 lần so với thời điểm “toàn dân ở nhà” mùa dịch năm 2021.

Đứng giữa vô vàn lựa chọn giải trí qua video: ứng dụng xem bản quyền có trả phí hay website phim lậu miễn phí? Người dùng đang quan tâm điều gì, và phản hồi ra sao trên mạng xã hội (MXH)? Cùng YouNet Media điểm qua những cái tên “ồn ào” nhất khi người dùng băn khoăn “xem gì hôm nay”, lắng nghe những mối quan tâm của người dùng về Top 3 thương hiệu dẫn đầu thị phần thảo luận: Netflix, FPT Play và VTV Giải Trí.

★ PHÂN TÍCH CAMPAIGN | SUNSILK - ĐỂ TÓC KỂ CHUYỆN, SUNSILK THÁI LAN THU VỀ 16 GIẢI THƯỞNG TRONG NĂM 2018Giữa “rừng” thươ...
22/04/2023

★ PHÂN TÍCH CAMPAIGN | SUNSILK - ĐỂ TÓC KỂ CHUYỆN, SUNSILK THÁI LAN THU VỀ 16 GIẢI THƯỞNG TRONG NĂM 2018
Giữa “rừng” thương hiệu quốc tế, nội địa cạnh tranh gay gắt trong ngành hàng dầu gội, Sunsilk đã quyết định chuyển hướng sang khai thác khía cạnh cảm xúc để trở nên nổi bật hơn những quảng cáo tập trung vào tính năng lý tính của sản phẩm - vốn là công thức “bất bại” của ngành hàng này trên đất Thái. Với 1 câu chuyện tròn đầy về mặt cảm xúc, thương hiệu đã giải được 3 thử thách tại thời điểm bấy giờ, thành công bỏ túi 16 giải thưởng lớn nhỏ trong khoảng thời gian 2018-2019 cùng những con số nổi bật về mặt truyền thông.
Đọc phân tích chi tiết 👇

★ PHILIP KOTLER ĐÃ SAI VỀ KHÁC BIỆT THƯƠNG HIỆU?Sự khác biệt thương hiệu không tác động nhiều đến hành vi mua sắm của kh...
21/04/2023

★ PHILIP KOTLER ĐÃ SAI VỀ KHÁC BIỆT THƯƠNG HIỆU?
Sự khác biệt thương hiệu không tác động nhiều đến hành vi mua sắm của khách hàng như ta tưởng.
Trung bình, một siêu thị trưng bày và dự trữ khoảng 30.000-40.000 sản phẩm. Thật khó tin khi nghĩ đến chuyện một khách hàng bình thường sẽ lướt qua số hàng hóa này, lựa chọn đúng món đồ mình cần trong chưa đầy 5 phút, bước đến quầy thanh toán, trả tiền và ra về, mà không cần để ý đến số còn lại.
Trên thực tế, điều này lại hết sức hiển nhiên với đa số người dùng. Chúng ta sẽ đến khu vực nước ngọt, lấy ra vài lon Coca-Cola, và chẳng thèm liếc qua những vỏ lon rực rỡ sắc màu khác đang cố gắng thu hút sự chú ý của ta.
------------------------
1. Làm thế nào để chúng ta làm được điều này?
Với hầu hết mọi người, “kinh nghiệm” là câu trả lời trong những trường hợp như thế. Thay vì so sánh, nghiên cứu, tính toán cẩn thận để tìm ra sản phẩm tốt nhất dành cho mình, chúng ta hài lòng với những gì ta cho là tốt và những gì ta nhớ để mua. Vào một ngày đẹp trời, ta sẽ muốn thử một thương hiệu kem đánh răng mới, nhưng quyết định này đôi khi cũng không cần quá nhiều cân nhắc. Việc thiếu đánh giá giữa các lựa chọn có thể diễn ra ngay cả khi người tiêu dùng đang đứng trước kệ hàng chật kín sản phẩm.
Đây là những gì được Byron Sharp, giáo sư ngành Khoa học Tiếp thị tại Đại học South Australia đúc kết được từ các phân tích của ông. Sharp đã tổng hợp kết quả nghiên cứu của mình trong quyển sách “How Brands Grow” – công trình được nhiều học giả, chuyên gia đánh giá cao bởi sự chặt chẽ trong lập luận, tính khoa học và khám phá sâu sắc.
Trong số những quan điểm Byron Sharp, nổi bật là việc ông kết luận sự khác biệt thương hiệu, thứ vốn được nhiều người nhấn mạnh, lại không tác động nhiều đến hành vi của khách hàng như ta tưởng. Ông cho rằng lý thuyết “khác biệt hóa” và “USP” không phải lúc nào cũng đúng, và phần lớn là sai. Đây là quan điểm có thể gây bất ngờ với nhiều người, thậm chí là khó chịu, nhưng sau khi tìm hiểu chi tiết, chúng ta sẽ thấy Byron Sharp có cơ sở để đưa kết luận trên.
Trong bài viết này, đội ngũ Vũ Digital sẽ phân tích những ý chính giải thích cho lập luận của Byron Sharp. Một điều chắc chắn là với chiến lược thương hiệu, không có quan điểm nào là chính xác tuyệt đối và bạn đọc hãy xem những gì được trình bày dưới đây là góc nhìn mới về một vấn đề vốn đã luôn thay đổi theo thời gian.
------------------------
2. “Khác biệt hay là c.h.ế.t”?
Đối với một sản phẩm, cách giải thích cho quyết định mua sắm của khách hàng là vì những hoạt động truyền thông, quảng cáo đã gán cho thương hiệu một sự khác biệt hoặc ý nghĩa nhất định nào đó.
Từ lâu, các nhà lãnh đạo đã dành sự chú ý đến cách mọi người hiểu biết về thương hiệu của họ. Sự quan tâm này đến từ nhiều lý do thực tiễn. Chẳng hạn, họ sẽ muốn biết có bao nhiêu người nhớ việc cửa hàng hoạt động xuyên suốt cuối tuần, hoặc khám phá các đánh giá giữa nhóm khách hàng nữ và nam giới để xem chúng khác nhau như thế nào. Hoạt động khảo sát, phỏng vấn và nghiên cứu khách hàng xuất phát từ những nhu cầu như thế.
Theo thời gian, thương hiệu bắt đầu đào sâu vào các tầng sâu hơn trong nhận thức của người dùng. Những câu hỏi phức tạp xuất hiện. “Khách hàng nhớ được cửa hàng mở cửa vào thứ Bảy?” – tốt nhưng chưa đủ. Chủ cửa hàng giờ đây sẽ muốn biết liệu người dùng có liên tưởng đến những giá trị như “thân thiện”, “thoải mái”, “chất lượng” khi nghĩ đến món bánh mì của anh ta hay không. Chúng ta xem đây là nền tảng của sự khác biệt thương hiệu.
Lật bất cứ quyển sách nào về tiếp thị hay kinh doanh, chúng ta đều sẽ thấy một luận điểm quen thuộc: Khác biệt là tâm điểm của mọi chiến lược marketing. Nếu thương hiệu thất bại trong việc tạo ra sự khác biệt, khách hàng sẽ chẳng có lý do để lựa chọn nó. Quan điểm này được nhắc đi nhắc lại ở rất nhiều tài liệu học thuật. Một vài tuyên bố nổi bật là:
“Sự khác biệt là nền tảng của tiếp thị thành công” (Philip Kotler).
“Không có thứ gọi là hàng hóa. Nó chỉ đơn giản là một sản phẩm chờ được khác biệt hóa” (Philip Kotler).
“Sự khác biệt hóa phải có ý nghĩa đối với khách hàng… nếu một thương hiệu không tạo được sự khác biệt thì người tiêu dùng không có cơ sở để lựa chọn thương hiệu đó thay vì những thương hiệu khác” (David Aaker).
Có một cuốn sách còn nhấn mạnh tầm quan trọng của nó theo cách thậm xưng hơn “Khác biệt hay là chết” (Jack Trout & Al Ries). Tựu trung lại, những tác giả trên đều hướng đến cùng một ý: Khách hàng lựa chọn thương hiệu vì sự khác biệt của nó.
Trớ trêu thay, đó cũng chính là nỗi khổ tâm lớn nhất của bất kỳ một người làm quảng cáo/ truyền thông/ xây dựng thương hiệu nào. Nỗi khổ khi phải cố gắng tìm ra một đặc điểm thật sự khác biệt cho một sản phẩm… chẳng có điểm gì nổi bật. Giáo sư Byron Sharp đã nhận ra điều phi lý của cách tư duy trên.
Theo ông, mặc dù hầu hết mọi cuốn sách đều nói rằng sự khác biệt thương hiệu là lý do chính để khách hàng mua sản phẩm, các tác giả lại hiếm khi đưa ra dữ liệu thực nghiệm chứng minh tác động của nó đến quá trình mua hàng, cũng như khả năng đóng góp vào sự tăng trưởng chung của công ty.
Chẳng hạn, trong nhiều năm, Mars dẫn đầu thị trường thanh socola ở Úc và hãng sử dụng slogan “A Mars a day helps you work, rest, and play” (tạm dịch: Một thanh Mars mỗi ngày giúp bạn làm việc, nghỉ ngơi và vui chơi). Khi khách hàng được hỏi thanh socola nào giúp bạn làm việc hiệu quả hơn, khách hàng hầu hết đều trả lời là Mars. Vậy nhận thức này hẳn phải là thứ tác động đến hành vi mua hàng, thứ giúp Mars trở thành số 1.
Tuy nhiên, điểm mấu chốt ở đây là chúng ta không thể biết họ chỉ nhắc lại quảng cáo (thứ được Mars nhắc lại vô số lần) hay thực sự tin rằng các thanh Mars giúp bạn làm việc? Và ngay cả khi họ tin, điều này sẽ ảnh hưởng đến hành vi của họ theo cách nào? Họ có mua nhiều hơn những ai không tin không? Nếu Mars không phải thương hiệu dẫn đầu thị trường, các số liệu có còn đẹp như thế không? Chúng ta đơn giản là không biết.
Có nhiều lý do để chúng ta tin rằng cạnh tranh trong thế giới thực phức tạp hơn, thực dụng hơn những gì được mô tả trong sách giáo khoa và quan trọng nhất, khách hàng không cảm nhận về ý nghĩa của sự khác biệt như chúng ta tưởng. Nói theo kết quả nghiên cứu của giáo sư Byron Sharp:
“Người tiêu dùng đơn giản không nhìn nhận các thương hiệu trong cùng một ngành hàng thật sự khác nhau”.
Luôn tồn tại những công ty cố gắng tách biệt mình khỏi đám đông bằng giá cả hay chất lượng tốt hơn – nhưng chính những thương hiệu cao cấp này cũng phải đối mặt với những cái tên có giá hoặc chất lượng tương tự. Một vài cái tên sẽ phục vụ nhanh hơn một chút, ngọt ngào hơn một chút, quyến rũ hơn một chút, “trending” hơn một chút, thân thiện hơn một chút, nhưng không có nhiều sự khác nhau giữa họ.
GoPro là người tiên phong mở ra một thị trường mới trị giá hàng tỷ USD: camera hành động nhỏ gọn, chống nước, có thể dễ dàng mang đi. Tuy nhiên, sau hơn 20 năm, mảnh đất này không còn “hoang sơ” như trước nữa, mà đã trở nên vô cùng chật chội. Thị trường giờ đây là sự đối đầu giữa GoPro, AKASO, DJI, Insta360…
Trong lĩnh vực thời trang cao cấp, hãy hỏi bất kỳ một khách hàng bất kỳ về cách họ phân biệt sản phẩm của Ralph Lauren, Giorgio Armani, Yves Saint Laurent, Prada, Chanel, Versace, Christian Dior, Louis Vuitton (mà không cần nhìn tên và logo)...
Tất nhiên, kết luận trên không có nghĩa là không có những thương hiệu khác biệt đang phát triển và có lợi nhuận. Có những thương hiệu sở hữu yếu tố đặc biệt đã đồng hành với họ theo thời gian, nhưng những đặc điểm này thường phản ánh khía cạnh chức năng hơn là các yếu tố cảm tính. Ví dụ: Apple với hệ sinh thái sản phẩm, thiết kế đơn giản; Zara với mô hình thời trang nhanh; IKEA với mô hình đóng gói phẳng. Nhưng thực tế chỉ ra rằng, hầu hết các công ty trong cùng lĩnh vực đều có rất nhiều đối thủ rất giống nhau, ngay cả khi họ không bán cùng sản phẩm.
Hãy xem xét ba công ty có sự khác nhau rõ ràng về sản phẩm: McDonald’s, Pizza Hut và KFC. Theo trình tự, McDonald’s kinh doanh bánh mì kẹp thịt, Pizza Hut bán pizza và món chính ở KFC là gà rán.
Chúng ta đáng lẽ nên kỳ vọng rằng McDonald’s chủ yếu cạnh tranh với các cửa hàng bánh mì kẹp thịt (Burger King, In-n-Out); Pizza Hut cạnh tranh với các chuỗi cửa hàng pizza khác (Domino’s, Pizza Company); và KFC cạnh tranh với các cửa hàng gà khác (Lotteria, Popeyes). Theo logic trong sách tiếp thị, ba thương hiệu trên sẽ không cần cạnh tranh với nhau vì họ đã khác nhau ở yếu tố cơ bản nhất là sản phẩm.
Nhưng, kết luận như thế là vô nghĩa. Cả ba, cùng hàng chục thương hiệu khác, là đối thủ và cạnh tranh trực tiếp trong thị trường thức ăn nhanh. Thay vì cố gắng chia nhỏ thị trường, họ ra sức tìm cách giảm sự khác biệt thương hiệu bằng cách thêm những món ăn của những người kia vào thực đơn của mình.
Tóm lại, sự khác biệt thương hiệu vẫn hữu ích, chúng chỉ không tác động nhiều như ta tưởng. Và hành vi khách hàng phức tạp hơn những mô tả trong sách. Tuy nhiên, vì lý thuyết khác biệt hóa đã quá phổ biến nên việc chấp nhận thực tế mới này không hề đơn giản. Để làm rõ, chúng ta cần giải đáp những câu hỏi sau:
Khách hàng của những thương hiệu cạnh tranh trực tiếp có sự khác biệt nào không?
Những khác biệt thương hiệu mang ý nghĩa cảm tính tác động như thế nào đến hành vi mua hàng?
------------------------
3. Khách hàng nhận thức sự khác biệt thương hiệu như thế nào?
Khác biệt thương hiệu là yếu tố mặc định của mọi chiến lược marketing. Những công ty khác biệt được cho là có nhiều khách hàng hơn, nhiều lợi nhuận hơn và tăng trưởng nhanh hơn.
Từ đó, chúng ta cố gắng hướng đến một sự “khác biệt có ý nghĩa” – động lực tinh thần thúc đẩy khách hàng mua sắm và trung thành với thương hiệu. Những startup kém nổi bật hoặc mới tham gia thị trường sẽ bị xem là cầm chắc nguy cơ thất bại, vì khách hàng chẳng có lý do gì để mua hàng từ họ cả.
Vậy thực tế, khách hàng, hay nói cách khác là chính chúng ta, nhận thức sự khác biệt thương hiệu như thế nào? Chúng ta có cần phải biết công ty đại diện cho một ý nghĩa nào đó hay không? Hay ta cần một lý do khác?
Các nghiên cứu của giáo sư Byron Sharp đưa ra hai kết luận sau:
- Khách hàng cảm nhận rất ít sự khác biệt từ thương hiệu, nhưng điều này KHÔNG ngăn họ trở thành khách hàng trung thành.
- Với những công ty hoạt động trong cùng một lĩnh vực, sự khác biệt thương hiệu trong nhận thức của khách hàng là không nhiều.
Ông thực hiện khảo sát dành cho nhóm khách hàng của các thương hiệu nước ngọt có ga (Coca-Cola, Diet Coke, Pepsi, Fanta…) và ngân hàng tại Úc (ANZ, CBA, NAB…) để kiểm tra bao nhiêu người trong số đó cảm nhận sự khác biệt hoặc độc đáo về lựa chọn của mình.
Kết quả, chỉ có trung bình 9-13% người dùng của một thương hiệu bất kỳ nghĩ rằng nó khác biệt. Con số này đi ngược lại với những gì chúng ta được nghe và được dạy. Nó đồng nghĩa rằng khoảng 90% khách hàng chẳng thấy có điểm gì đặc biệt trong sản phẩm mà họ đang dùng, ít nhất là so với các lựa chọn thay thế có cùng chức năng.
Có khả năng là dữ liệu trên phản ánh sự thờ ơ của khách hàng khi trả lời nghiên cứu, nhưng có những dấu hiệu cho thấy chúng ta nên đánh giá nghiêm túc phát hiện này.
Đầu tiên, kết quả cho thấy sự thay đổi trong kỳ vọng ở từng lĩnh vực/ thị trường. Ví dụ, tính khác biệt của những thương hiệu nước ngọt sẽ dễ được cảm nhận hơn là nước suối. Nhưng nhìn chung, khách hàng xem Coca, Pepsi, Fanta… là các lựa chọn có giá trị tương đương nhau.
Thứ hai, những thương hiệu đạt điểm cao nhất có sự độc đáo về chức năng hoặc mô hình kinh doanh. Ví dụ, chuỗi siêu thị Aldi vốn chỉ kinh doanh những mặt hàng do chính họ phân phối, đã được 67% người tham gia khảo sát đánh giá là “khác biệt”. Tỷ lệ này là 50% đối với Subway, công ty chỉ bán sandwich, khi được so sánh với McDonald’s, Domino Pizza và KFC. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng có chiến lược “ngách” như thế.
Chúng ta được khuyên là phải cố gắng làm cho khách hàng nhận thức được sự khác biệt giữa mình và đối thủ. Tuy nhiên, ngay cả những chiến lược gia đại tài cũng sẽ công nhận đây là nhiệm vụ rất khó. Điều này dẫn đến kết luận rằng sự khác biệt thương hiệu trong nhận thức của khách hàng đóng vai trò rất nhỏ trong thành công của công ty.
Nếu tin theo Jack Trout & Al Ries, “khác biệt hay là chết”, nhiều công ty sẽ phải biến mất. Nhưng chẳng phải hầu hết các hãng điện thoại (trừ iPhone) đều dùng chung một hệ điều hành, cài đặt những ứng dụng giống nhau, đến vẻ ngoài cũng không mấy đa dạng, và họ vẫn sống tốt đấy thôi?
Nhiều thập kỷ qua, nghiên cứu về hành vi của người tiêu dùng chủ yếu tập trung vào nhận thức của họ về khác biệt thương hiệu – và xem chúng như lý do khiến sản phẩm được lựa chọn. Tuy nhiên, từ những gì đã tìm hiểu, ta sẽ nhận ra người mua Xiaomi và Huawei có thể là cùng một người, và chính họ cũng không nghĩ rằng Xiaomi hay Huawei có gì đó đặc biệt hơn hẳn người còn lại.
Có vẻ ngược đời khi kết luận rằng khách hàng không đánh giá cao sự khác biệt thương hiệu, ngoài những so sánh nhất định về chức năng, giá cả và chất lượng MV ca nhạc. Điều này cho thấy mua sắm là một quá trình diễn ra tương đối… bình thường, thậm chí là tẻ nhạt. Như đã chứng minh, sẽ có những người biết một số thông tin về Xiaomi, chẳng biết gì về Huawei và ngược lại.
Khách hàng chỉ tìm hiểu và ghi nhớ một số thông tin nhất định về thương hiệu. Thậm chí, ngay cả những hiểu biết đó là dùng để nhận dạng và củng cố lý do mua hàng, hơn là để đánh giá về các ý nghĩa sâu xa.
Ví dụ, nhiều người biết máy đọc sách Kindle là của Amazon và phần lớn đều chọn mua Kindle (chiếm 67% thị phần năm 2022). Nhưng trong số này, có mấy ai đã tìm hiểu kỹ đến mức hiểu được ý nghĩa của cái tên “Kindle”? Cho những ai chưa biết, cụm từ này mang ý nghĩa “bắt lửa”. Jeff Bezos và đội ngũ tại Amazon chọn nó vì cho rằng “đây là ẩn dụ thích hợp cho việc đọc sách”.
Cái tên rất hay, nhưng đáng tiếc, tác động của nó đến hành vi mua sắm là không nhiều. Chúng ta chọn Kindle trước hết là vì sự phổ biến của thương hiệu, vì đánh giá của người mua trước, vì uy tín của Amazon, không phải vì phép ẩn dụ “bắt lửa”. Theo cách tương tự, hiếm có ai thắc mắc vì sao McDonald’s, một công ty khởi nghiệp và thành danh ở Mỹ, lại có tên gọi theo phong cách Scotland.
Mục tiêu của tất cả những gì được trình bày là để nhấn mạnh việc chúng ta không nhất thiết phải thuyết phục người mua rằng họ nên nhận thức thương hiệu khác biệt như thế nào, trước lẫn sau khi họ sử dụng sản phẩm.
Hiểu được này sẽ giảm bớt gánh nặng đáng kể cho đội ngũ xây dựng thương hiệu. Trừ khi công ty đủ sức tạo ra những “vụ nổ” thật sự như iPhone, TikTok, Chat GPT… còn lại thì hãy hài lòng với những gì mình có và cải thiện dần theo thời gian. Chúng ta cần quan tâm hơn vào việc khiến khách hàng tạm rời xa những giải pháp quen thuộc hàng ngày và chấp nhận một chút rủi ro để khám phá lựa chọn mới – sản phẩm của chúng ta; sau đó là ghi nhớ nó để ra quyết định cho những lần mua sắm tiếp theo.
------------------------
4. Hãy khiến thương hiệu trở nên nổi bật, không phải khác biệt
Nghịch lý thay, việc ít nhấn mạnh vào sự khác biệt thương hiệu lại khiến việc xây dựng hình ảnh thương hiệu trở nên quan trọng hơn. Câu trả lời của Sharp dành cho vấn đề trên là như sau: Be distinctive, not different.
Câu nói trên tạm dịch là: Hãy trở nên nổi bật, không phải khác biệt. Ông cho rằng thương hiệu phải độc đáo để trở nên nổi bật, chứ không chỉ đơn thuần là khác nhau. Nhìn vào hầu hết các lĩnh vực vốn đã bão hòa, ta sẽ thấy quan điểm trên giảm tải được “gánh nặng” cho nhà lãnh đạo như thế nào.
Theo Byron Sharp, thay vì tập trung vào sự khác biệt thương hiệu và “ý nghĩa”, chúng ta cần quan tâm nhiều hơn đến quá trình branding.
Một thương hiệu được xây dựng hiệu quả sẽ sở hữu những đặc điểm mà dựa vào đó, khách hàng sẽ nhận ra, chú ý, nhớ đến và phân biệt được thương hiệu trong những tình huống mua hàng. Các yếu tố này có thể bao gồm:
- Tên gọi
- Logo
- Màu sắc
- Slogan
- Mascot
- Người nổi tiếng
- Phong cách quảng cáo
Những yếu tố nhận diện có thể được sử dụng trên bao bì, poster, quảng cáo, các cửa hàng, hoạt động tài trợ, nói cách khác, là ở mọi điểm chạm trên hành trình trải nghiệm khách hàng.
Mục tiêu là để tạo ra, làm mới và củng cố sự ghi nhớ của khách hàng về thương hiệu, từ đó tăng tần suất và cơ hội được lựa chọn. Ngoài một số trường hợp phản hồi trực tiếp (chẳng hạn như thấy một quảng cáo trên Internet, nhấp vào và mua hàng), còn lại các hoạt động truyền thông, quảng cáo đều nhằm mục tiêu xây dựng ký ức của khách hàng về thương hiệu. Trí nhớ là mối liên kết giữa việc nhận thức và hành vi mua sắm và nó phải được củng cố liên tục.
Điều này giải thích lý do vì sao những thương hiệu lớn không ngừng thực hiện các chiến dịch truyền thông, hoạt động phân phối, cải tiến sản phẩm ngay cả khi họ là những người dẫn đầu thị trường.
Ngược lại, đối với khách hàng, nhận thức có được từ quá trình branding giúp họ không cần phải suy nghĩ, tìm kiếm các giải pháp. Cuộc sống của họ trở nên dễ dàng hơn, ngay cả khi họ thậm chí còn không nhận ra điều đó.
Khi tổ chức một buổi tiệc, chúng ta không cần cất công nghĩ xem nên chọn loại nước giải khát nào. Ta chỉ đơn giản là đến cửa hàng và đặt hàng Coca-Cola hoặc Pepsi. Quá trình mua hàng kết thúc tại đó, thực tế là nó đã kết thúc khi chúng ta nghĩ đến Coca-Cola hoặc Pepsi rồi. Đây là kết quả cuối cùng mà mọi thương hiệu đều hướng đến – trở thành giải pháp tức thời trong suy nghĩ của khách hàng.
Ngoài ra, không giống như sự khác biệt thương hiệu mang tính trừu tượng, các yếu tố như tên gọi, logo hay màu sắc có thể được đăng ký nhãn hiệu thương mại và được bảo vệ hợp pháp. Một thương hiệu cạnh tranh với Chanel có thể làm mọi cách để thể hiện tinh thần “sang trọng”, nhưng không thể nào sử dụng logo của Chanel được. Đối thủ của Nike sẽ trở nên lố bịch nếu sử dụng slogan “Just Do It” hoặc dấu swoosh độc quyền của thương hiệu này.
------------------------
5. Làm sao để bộ nhận diện thương hiệu trở nên giá trị hơn?
Có hai tiêu chí làm nên thành công của một bộ nhận diện thương hiệu:
- Mức độ phổ biến: Có bao nhiêu người liên kết thương hiệu với yếu tố đó?
- Tính độc đáo: Trong số những người đó, có bao nhiêu người chỉ liên kết duy nhất thương hiệu với yếu tố đó?
Để đạt được cả hai điều kiện trên, thương hiệu cần thời gian và sự nhất quán trong triển khai. Cho đến khi các mối liên kết giữa thương hiệu và yếu tố nhận diện được khách hàng tìm hiểu, ghi nhớ và nhận biết, chúng không thể hoạt động như một sự thay thế. Quá trình này đòi hỏi sự cam kết trong nhiều năm, thậm chí là nhiều thập kỷ.
Ví dụ, logo swoosh của Nike lần đầu được giới thiệu vào khoảng thập niên 1970. Trong một thời gian rất dài, nó được hiển thị cùng tên thương hiệu, trước khi được sử dụng riêng lẻ như một thành phần đại diện chính thức. Ngày nay, chúng ta nhớ đến Nike khi nhìn thấy biểu tượng swoosh quen thuộc đó. Kết quả này đến từ sự đầu tư nhất quán của Nike trong nhiều thập kỷ. Một thương hiệu không thể khác biệt trừ khi nó nhất quán.
Ngoài ra, thương hiệu phải truyền đạt các yếu tố nhận diện một cách nhất quán đến khách hàng trên tất cả các phương tiện truyền thông và theo thời gian. Tầm quan trọng của tính nhất quán đã được nhiều chuyên gia nhấn mạnh, nhưng không phải ai cũng hiểu được nó.
Khi một chiến dịch truyền thông được thảo luận, phần lớn sự chú ý được đặt vào những gì mới mẻ, hơn là quan tâm đến những gì mà khách hàng ghi nhớ về thương hiệu. Chúng ta cần chú ý nhiều hơn đến việc đảm bảo các yếu tố xây dựng thương hiệu sẽ nhất quán. Một ai đó đã xem các TVC trước đây cần hiểu rằng thứ họ đang xem cũng đến từ cùng một công ty.
Sự không nhất quán sẽ dẫn đến những mối nghi ngờ của khách hàng, thứ rất dễ khiến họ từ bỏ thương hiệu và chuyển sang những đối thủ khác. Làm sao bạn tin tưởng được một thương hiệu mà mỗi chiến dịch truyền thông lại sử dụng một màu sắc, một kiểu chữ, một slogan khác nhau? Những thương hiệu đó muốn khách hàng nhớ gì về họ đây? Tệ hơn hết là khách hàng sẽ không nhớ gì về chúng ta cả.
Giá trị nằm ở chỗ nếu một thương hiệu luôn sử dụng màu đỏ trong thiết kế của mình, và đó là thương hiệu duy nhất trong lĩnh vực sử dụng màu đỏ, thì người tiêu dùng sẽ nhanh chóng và dễ dàng xác định màu đỏ này đại diện cho thương hiệu. Lợi thế trên đồng nghĩa rằng trong tương lai, màu đỏ có thể thay thế thương hiệu trong một số trường hợp nhất định, chúng ta không cần phải đề cập đến tên gọi hoặc logo nữa. Đây chính xác là những gì McDonald’s đã thể hiện trong quảng cáo dưới đây:
Hãy nhất quán. Đừng cố chạy theo xu hướng. Xây dựng thương hiệu là một quá trình chứ không phải mục tiêu. Quả táo Apple, chú chim xanh Twitter… không thể nào phổ biến toàn thế giới ngay từ khi mới ra mắt. Mọi thứ đều cần thời gian, và thương hiệu của bạn cũng không phải ngoại lệ.
------------------------
6. Lời kết
Trong cuốn sách “Sự an ủi của Triết học”, tác giả Alain De Botton đã viết về Socrates, một triết gia có ảnh hưởng lớn nhất đến triết học phương Tây. Theo “Phương pháp đánh giá lẽ thường” của Socrates, tính đúng đắn của một phát biểu không thể được xác định bằng việc liệu nó có được số đông tin theo, hoặc từ lâu đã trở thành niềm tin phổ biến của những người quan trọng hay không. Thay vào đó, một phát biểu đúng là một phát biểu không thể phủ định bằng lập luận, một phát biểu là đúng nếu nó không thể chứng minh là sai.
Trong một lĩnh vực luôn chuyển động như kinh doanh, chúng ta không thể khẳng định quan điểm nào là chính xác tuyệt đối, ngay cả khi nó được công nhận bởi các chuyên gia hay được đưa vào giáo trình đại học suốt hàng chục năm qua. Một lý thuyết bất kỳ đều cần dựa trên các đánh giá thực nghiệm, dữ liệu thực tế và góc nhìn khách quan.
Bài viết này được thực hiện với cơ sở là các nghiên cứu được Byron Sharp thực hiện cùng đội ngũ của ông. Sharp không hề kết luận sự khác biệt thương hiệu không tồn tại, nhưng theo quan điểm của ông và dựa trên những gì có được từ dữ liệu, nó ít quan trọng hơn những gì chúng ta hình dung.
Trong khi Pizza Hut, McDonald’s và KFC bán các sản phẩm khác nhau, họ vẫn cạnh tranh với tư cách là các thương hiệu thức ăn nhanh. Cả ba phục vụ nhóm khách hàng tương tự, đồng nghĩa khách hàng xem sản phẩm của họ là sản phẩm thay thế trực tiếp. Ba thương hiệu này dành nguồn lực đáng kể để nhắc nhở chúng ta về những điểm tương đồng của họ, hơn là nhấn mạnh vào các khác biệt thương hiệu rõ rệt.
Trước vấn đề này, giải pháp được giáo sư Sharp đưa ra là xây dựng những liên kết thông qua các yếu tố đại diện cho thương hiệu, như màu sắc, logo, bao bì, phông chữ… Những liên kết này rất quan trọng vì chúng giúp người tiêu dùng nhận ra một thương hiệu. Các thành phần nhận diện nhất quán sẽ xây dựng liên kết, cho phép thương hiệu được chú ý và nhớ lại trong một loạt các tình huống mua hàng sau này.
★ Bài viết được sẻ bởi anh Quyền Vũ, Founder @ Vũ Digital.
Đọc chi tiết 👇👇

★ 5 YẾU TỐ ĐỂ BẠN SỐNG TỐT TRONG MÔI TRƯỜNG BRANDING AGENCYNếu yêu thích những trải nghiệm mới mỗi ngày và sẵn sàng tìm ...
19/04/2023

★ 5 YẾU TỐ ĐỂ BẠN SỐNG TỐT TRONG MÔI TRƯỜNG BRANDING AGENCY
Nếu yêu thích những trải nghiệm mới mỗi ngày và sẵn sàng tìm tòi không ngừng nghỉ thì bạn đã có hơn 50% tố chất của nhân sự Branding agency.
Môi trường làm việc agency luôn gắn liền với những câu chuyện “drama” giữa các bộ phận, những dự án “không nói trước được ngày mai” với ngàn lẻ một các tình huống có thể xảy ra. Tuy nhiên, đây cũng là môi trường được đánh giá là giàu tiềm năng, cũng như có nhiều cơ hội phát triển sự nghiệp bản thân dành cho nhiều thế hệ trẻ.
Có cơ hội tiếp xúc, chiêm nghiệm và trực tiếp giải quyết vấn đề với nhiều khách hàng đến từ các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau chính là đặc tính của môi trường làm việc agency. Vì lẽ đó mà các bạn trẻ thuộc thế hệ Gen Z hay Gen Y, với nhiệt huyết ngút trời cùng tinh thần sẵn sàng “quăng mình” vào nhiều thử thách khó, luôn muốn bắt đầu và phát triển sự nghiệp của mình trong môi trường làm việc năng động này.
Ở thời điểm hiện tại, đã có đến hàng chục mô hình kinh doanh và agency cung cấp dịch vụ khác nhau. Nhưng các mô hình phổ biến hàng đầu tại Việt Nam vẫn là Digital agency, Creative agency, Media agency, Branding agency và Production house. Đừng quá lo lắng nếu như bạn chưa tìm kiếm và hiểu biết tường tận về từng mô hình agency kể trên, bởi bài chia sẻ lần này sẽ giải đáp một cách đầy đủ nhất.
Bên cạnh đó, với vai trò của một đội ngũ tư vấn chiến lược, xây dựng bản sắc thương hiệu rồi truyền tải chúng bằng chữ viết và nghệ thuật thị giác, đội ngũ tại Vũ muốn chia sẻ đến các bạn chi tiết nhiệm vụ cũng như tầm quan trọng của một Branding agency. Cùng với đó là 5 yếu tố giúp bạn sống tốt ở môi trường này, trong trường hợp bạn chuẩn bị ứng tuyển và quyết tâm thử sức mình tại một Branding agency bất kì.
★ Bài viết được sẻ bởi anh Quyền Vũ, Founder @ Vũ Digital

★ "GIẢI MÃ" NHỮNG ĐỘNG LỰC VÀ RÀO CẢN PHỔ BIẾN KHI KHÁCH HÀNG GIA NHẬP THỊ TRƯỜNGĐể có thể điều chỉnh chiến lược phù hợp...
17/04/2023

★ "GIẢI MÃ" NHỮNG ĐỘNG LỰC VÀ RÀO CẢN PHỔ BIẾN KHI KHÁCH HÀNG GIA NHẬP THỊ TRƯỜNG
Để có thể điều chỉnh chiến lược phù hợp nhằm thu hút và giữ chân khách hàng trong thị trường đầy cạnh tranh và nhiều biến động, thương hiệu cần trang bị một “lăng kính” đa chiều để có góc nhìn thấu đáo về động lực và trở lực gia nhập ngành hàng của khách hàng.
★ Chia sẻ bởi Anh Nguyễn Quang Hiệp, Brand Trainer & Consultant, là giảng viên kỳ cựu tại Brand Camp với hơn 20 khóa học và nhiều năm kinh nghiệm làm Brand Marketing tại nhiều tập đoàn lớn trong và ngoài nước như: Unilever, Masan Consumer, Wilmar và CJ Hàn Quốc.

★ TĂNG NĂNG LỰC SÁNG TẠO BẰNG THUYẾT PHÂN KỲ VÀ TÍCH HỢPPhân kỳ và Tích hợp là hai lý thuyết trái ngược nhau, nhưng chún...
15/04/2023

★ TĂNG NĂNG LỰC SÁNG TẠO BẰNG THUYẾT PHÂN KỲ VÀ TÍCH HỢP
Phân kỳ và Tích hợp là hai lý thuyết trái ngược nhau, nhưng chúng đều đã được áp dụng để sáng tạo ra những sản phẩm xuất sắc, cũng như tạo thành những thương hiệu hàng đầu trên thế giới. Vậy rốt cuộc, marketer nên tăng năng lực sáng tạo bằng cách nào?
-----------------------------
1. Hai nguyên lý của sáng tạo
Mình là người thích sáng tạo. Ngày trước, mình đọc khá nhiều sách văn chương, về sau mới bắt đầu học và đọc nhiều hơn về marketing. Nhưng những điều cuốn hút mình nhất ở marketing chính là các ý tưởng sáng tạo. Nhờ đọc nhiều về các ý tưởng lớn và kết hợp nghiên cứu, sau này, mình mạnh về mảng sáng tạo các sản phẩm “hút trend”, trong đó có Pizza Khổng Lồ, Pizza Thanh Long, Burger Corona…
Nhưng, mình thấy đôi khi nó bị phức tạp hóa một cách quá mức. Thành ra nhiều lúc đọc xong, thấy phức tạp quá nên không dám làm.
Sau nhiều năm, mình đúc rút ra 2 nguyên lý gốc để tạo ra sản phẩm sáng tạo, đó là Phân kỳ và Tích hợp. Điều đáng nói là hai nguyên lý này tuy trái ngược nhau nhưng chúng đều đã được áp dụng để tạo ra những sản phẩm xuất sắc và tạo thành những thương hiệu hàng đầu trên thế giới.
Nói to tát vậy thôi, chứ nếu ứng dụng nó cùng với Lean Startup (phương pháp khởi nghiệp tinh gọn), bạn hoàn toàn có thể tạo ra những sản phẩm, dù có thể không lớn lao nhưng cũng nhiều khả năng tạo sự thu hút, như mình đã từng làm.
-----------------------------
2. Phân kỳ và Tích hợp
Phân kỳ (divergence) và Tích hợp (convergence) là hai khái niệm gây nên nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu sáng tạo sản phẩm trên thế giới khoảng hai thập kỷ trở lại đây.
Lý thuyết Phân kỳ bắt nguồn từ ý tưởng tất cả những sản phẩm/ dịch vụ cần thiết phải được chuyên biệt hóa. Ví dụ như ngành vận chuyển sẽ có sự phân kỳ thành máy bay, tàu hỏa, ô tô, xe máy, xe đạp... Trong từng nhánh nhỏ lại có sự phân kỳ tiếp theo, như xe máy phân chia thành xe phân khối lớn, xe ga… Thuyết Phân kỳ cũng là nền tảng để giới doanh nhân phân tích thị trường, tìm ra những ngách nhỏ trên thị trường rồi từ đó tung ra những sản phẩm ngách mang tính chuyên biệt.
Ngược lại, lý thuyết Tích hợp đi theo hướng tạo nên những sản phẩm có khả năng tích hợp nhiều tính năng của những sản phẩm khác nhau. Ví dụ, máy bay và tàu thủy tích hợp thành thủy phi cơ hoặc TV kết hợp với máy tính thành Internet TV...
-----------------------------
3. Cuộc chiến Phân kỳ và Tích hợp
Tham gia cuộc chiến giữa Phân kỳ và Tích hợp là những tên tuổi lừng lẫy về nghiên cứu kinh doanh. Nhắc đến phe Phân kỳ, ta có thể kể đến cái tên huyền thoại – Al Ries.
Tư tưởng Phân kỳ của ông xuất hiện trong những cuốn sách best-seller về marketing như “22 Immutable Laws of Marketing” (22 Quy luật tất yếu trong Marketing), “Positioning: Battle for your mind” (Định vị: Cuộc chiến tâm trí). Al Ries còn có sự cổ vũ của Jack Trout, một nhà chiến lược marketing danh tiếng và là đồng tác giả với ông trong nhiều đầu sách marketing khác.
Laura Ries, con gái của Al Ries – ngôi sao mới nổi sáng chói bậc nhất của làng marketing thế giới, cũng là một tín đồ của lý thuyết Phân kỳ. Là người đứng đầu phe Phân kỳ, Al Ries còn được những người trong giới marketing đặt cho biệt hiệu “Ông vua định vị”.
Thực tế, mình rất thích đọc sách của Al Ries và Jack Trout vì tính ứng dụng rất cao của hai tác giả này. Duy chỉ một điểm mình không thích lắm, đó là hai ngài hơn “ăn gian” một chút. Nghĩa là hai ngài ủng hộ các sản phẩm phân kỳ, và sau đó, trong sách toàn lấy ví dụ các sản phẩm phân kỳ thành công để củng cố cho luận điểm của mình.
Trong khi đó, dường như phe Tích hợp còn thiếu một nhà lãnh đạo tầm cỡ. Lý thuyết Tích hợp có sự tham gia gián tiếp của “cha đẻ marketing hiện đại” – Philip Kotler. Sở dĩ, mình nói là “gián tiếp” bởi vì Kotler chỉ đề cập đến những ý tưởng về tích hợp sản phẩm trong cuốn sách “Winning at Innovation: The A-to-F Model” (Chiến thắng với Cải tiến: Mô hình A-F) và rải rác trong cuốn “Marketing Insights From A to Z” (Thấu hiểu tiếp thị từ A đến Z).
Mặt khác, phải thừa nhận rằng trên nhiều phương diện, những tác gia khác theo phe Tích hợp đều không có được sự sắc sảo và thông minh của Al Ries, khả năng hùng biện của Jack Trout, sự mới mẻ của Laura Ries… để có thể biểu dương lý thuyết Tích hợp một cách mạnh mẽ.
Tuy nhiên, về mặt sản phẩm thì phe Tích hợp lại có rất nhiều sản phẩm hay ho, thuộc vào hàng Top 1 thế giới.
Những cú va đập giữa Phân kỳ và Tích hợp đã tạo nên hàng loạt cuộc tranh luận lớn. Và tranh luận này hóa ra lại rất tốt, vì nó kích thích sự sáng tạo. Mỗi phe đều có những dẫn chứng, những lập luận nhằm củng cố cho niềm tin của mình, tạo nên hàng loạt ý tưởng mang tính cách mạng trong lĩnh vực kinh doanh. Kết quả là những sản phẩm thành công lớn trên thị trường, mang về vinh quang những ai biết nhặt lấy kiến thức mà sáng tạo.
-----------------------------
4. Sáng tạo theo phương pháp phân kỳ
Sáng tạo theo phương pháp Phân Kỳ rất giống với quan điểm phát triển sản phẩm của lý thuyết Lean Startup, nghĩa là gạt bỏ những thứ thừa thãi để tạo thành một sản phẩm tối giản: Phục vụ một mục tiêu với một tính năng và tính năng đó phải thực sự nổi trội, kiểu như máy đọc sách Kindle chẳng hạn…
Lợi thế về mặt lý thuyết trong cuộc chiến “Phân kỳ – Tích hợp” những năm gần đây có vẻ nghiêng về phe Phân kỳ. Thứ nhất, Al Ries đã có hàng loạt bài viết đanh thép cho ý tưởng Phân kỳ trên tờ tạp chí marketing hàng đầu thế giới – Advertising Age. Trong khi đó, Philip Kotler ít có những bài viết mang tính báo chí hơn. Vả lại, khi viết bài đăng báo, mối quan tâm của Kotler thường rộng và ít có tính trực diện như các bài viết của Al Ries.
Thứ hai, Al Ries và Laura Ries là những người sáng lập ra công ty Ries & Ries, một trong những công ty tư vấn về chiến lược marketing hàng đầu trên thế giới. Trong khi đó, Philip Kotler dù được coi là “nhà hiền triết của marketing hiện đại” nhưng ông thường được nhìn nhận với vai trò là một nhà lý thuyết marketing hơn. Đương nhiên, những người có đầu óc thực tế sẽ có phần nghiêng về những ý tưởng của Al Ries nhiều hơn.
Quan điểm của mình là những bạn mới học marketing hay mới làm kinh doanh, mình khuyến nghị nên đọc và ứng dụng từ sách của Al Ries trước cho đơn giản và dễ hiểu, đừng vội đọc những cuốn sách dày cộm của Philips Kotlers hay Michael Potter để rồi “đơ” luôn, không dám hành động.
Thực tế đã cho thấy, phe Phân kỳ liên tục giành được ưu thế lớn. Sự phản kháng của những người theo phe Tích hợp là khá yếu ớt. Trong một bài viết nổi tiếng có tên: “Darwin’s Theories applied to Marketing” (Lý thuyết Darwin áp dụng vào Marketing), Al Ries đã thực sự nâng tầm Phân kỳ trở thành một lý thuyết đầy tin cậy trong lĩnh vực marketing.
Ông lập luận: “Thuyết tiến hóa cho thấy luôn luôn có sự phân nhánh và điều này cũng đúng trong kinh doanh”. Kèm theo bài viết, ông đưa ra hàng loạt những dẫn chứng đanh thép cho lý thuyết của mình.
Tuy nhiên, khi Al Ries áp dụng “thuyết tiến hóa” của Darwin vào lý thuyết marketing của mình, có lẽ ông đã quên đi một khía cạnh: Đó là “thuyết tiến hóa” là một lý thuyết không hoàn thiện với vô số lỗ hổng không thể nào lấp đầy được. Chính vì thế, lý thuyết Phân kỳ của Al Ries cũng mang trong mình nhiều mâu thuẫn. Trên thực tế, rất nhiều sản phẩm không hề phân kỳ như lý thuyết của Al Ries mà đi ngược lại theo hướng tích hợp. Điều đáng nói, những sản phẩm đó vẫn gặt hái những thành công vang dội.
-----------------------------
5. Sáng tạo theo phương pháp tích hợp
Phương pháp sáng tạo sản phẩm Tích hợp đi ngược lại với Phân kỳ, đó là kết nối nhiều thứ lại với nhau để tạo nên một sản phẩm hoàn toàn mới. Đúng như lời nói của Steve Jobs: “Sáng tạo là kết nối các thứ lại với nhau”.
Phe Phân kỳ đã từng có một tiên đoán “sai đến ngượng người”. Một trong những tiên đoán nổi tiếng nhất của Al Ries chính là bài viết: “Why the iPhone Will Fail?” (Tại sao iPhone sẽ thất bại?) viết năm 2007.
Với viện dẫn của hàng loạt sản phẩm tích hợp đã thất bại ra sao, Al Ries khẳng định: “Tôi nghĩ iPhone sẽ là một nỗi thất vọng lớn. iPhone là một sản phẩm tích hợp, và trong lĩnh vực công nghệ, sản phẩm tích hợp luôn đi kèm cùng những thất bại vĩ đại như máy tính – điện thoại của AT&T, TV Internet của Microsoft… Bạn biết đấy: Ý tưởng tích hợp luôn nghe có vẻ hợp lý nhưng chúng không thành công trong cuộc sống thực”.
Nhưng thực tế lại cho thấy điều ngược lại. Thành công của những sản phẩm tích hợp như iPhone và iPad đã đưa Apple trở thành công ty có giá trị vốn hóa thị trường lớn nhất trong lịch sử nhân loại, đồng thời, cổ phiếu Apple cũng đã trở thành một trong những cổ phiếu có mức giá lớn nhất trong lịch sử chứng khoán Mỹ.
Một ví dụ khác dễ thấy nữa, đó chính là điện thoại di động. Ban đầu, điện thoại di động chỉ dùng để nghe, gọi. Sau đó được tích hợp thêm tính năng nhắn tin của máy nhắn tin, rồi lại tích hợp thêm tính năng chụp ảnh, nghe nhạc, quay phim, gửi email... Có lẽ chẳng sản phẩm nào có thể mang tính tích hợp lớn đến vậy. Và nó đã thất bại? Không hề!
Ngược lại, điện thoại tích hợp nhiều tính năng đang ngày càng phát triển và nó đã trở thành một xu thế lớn bậc nhất trên thế giới trong thập kỷ qua. Xu hướng tích hợp không chỉ nằm trong ngành công nghệ cao. Trong lĩnh vực dịch vụ, xu hướng này cũng đang phát triển mạnh, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ du lịch – nhà hàng – khách sạn. Để đáp ứng nhu cầu của con người, những sản phẩm mang đậm tính tích hợp trong ngành này đã ra đời: resort kết hợp với casino, khu resort kết hợp với các công viên chủ đề (theme park) như khu Sentosa tại Singapore, The Palm Jumeirah tại Dubai...
-----------------------------
6. Đừng “This or That”, hãy “This and That”
Một số sản phẩm tích hợp không thành công không có nghĩa là nhu cầu về những sản phẩm mang tính tích hợp của con người không tồn tại. Điều quan trọng trong bất cứ lý thuyết marketing nào, đó là sản phẩm nào đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, sản phẩm đó sẽ có khả năng phát triển, dù đó là sản phẩm phân kỳ hay tích hợp.
Nếu như trước đây, máy ảnh là máy ảnh, máy quay phim là máy quay phim, thì ngày nay sản phẩm máy ảnh có tính năng quay phim là một điều hết sức hiển nhiên trong đời sống hiện đại.
Nói chung là lý thuyết thì cứ đọc, nhưng bạn hãy nhặt cái hay ra mà ứng dụng. Khi sản phẩm trên thị trường quá phức tạp mà muốn tạo sản phẩm mới, ta có thể sáng tạo theo cách Phân kỳ. Còn lại khi có năng lực kết nối các thứ tương thích lại với nhau, hãy sáng tạo theo cách Tích hợp.
Hãy cứ nhặt những cái tốt nhất ra mà dùng, đừng cố chấp bám vào bất cứ lý thuyết nào, vì mọi thứ chỉ là tương đối.
-----------------------------
7. Hãy như “Pi”
Trong bộ phim “Life of Pi”, một trong những câu nói mà mình rất thích, đó là: “Đức tin như tòa nhà và tôn giáo như những căn phòng trong tòa nhà đó”. Quan điểm của mình về kinh doanh hay sáng tạo cũng giống vậy. Lý thuyết là để đọc, để ngấm và để tùy vào từng trường hợp trên thực tế mà ứng dụng sao cho phù hợp. Với mình, không có cái nào là đúng hay sai tuyệt đối, chỉ có phù hợp hay không phù hợp.
Phân kỳ và Tích hợp đều có những sản phẩm sáng tạo thành công. Nhưng Phân kỳ và Tích hợp cũng đồng thời là hai cách tư duy đối lập, có thể tạo mâu thuẫn lớn về mặt nhận thức của những người làm sáng tạo và kinh doanh hiện đại.
Trong khi những nhà lý thuyết lục tìm những trào lưu trong quá khứ, soi xét thành bại của từng thương hiệu để củng cố cho lập luận của mình thì những sản phẩm mang tính phân kỳ hay tích hợp đều tự tìm được chỗ đứng riêng trên thị trường. Đơn giản vì những sản phẩm đó đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng.
Thế nên hãy như cậu bé Pi, đặt niềm tin vào lý thuyết, nhưng khi thực hành hãy cứ nhặt những cái tốt nhất ra mà dùng, đừng cố chấp bám vào bất cứ lý thuyết nào, vì mọi thứ chỉ là tương đối.

Address

Buôn Ma Thuột
Đắc Lắk

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when BazanEntertainment posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Business

Send a message to BazanEntertainment:

Share