Tự Hào MIỀN TRUNG

Tự Hào MIỀN TRUNG Từ xưa đến nay, miền Trung vẫn luôn được biết đến là một vùng đất sở hữu bề dày lịch sử và những cảnh sắc tuyệt đẹp mà hiếm nơi nào có được.

Có lẽ vì vậy mà những người con của miền Trung không chỉ tự hào về quê hương mà còn luôn nỗ lực vì một miền Trung.

KỶ NIỆM 100 NĂM NGÀY BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM (21/6/1925 - 21/6/2025): BÁC HỒ LÀM BÁOBác Hồ chưa bao giờ tự nhận mình ...
20/06/2025

KỶ NIỆM 100 NĂM NGÀY BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM (21/6/1925 - 21/6/2025): BÁC HỒ LÀM BÁO

Bác Hồ chưa bao giờ tự nhận mình là nhà báo chuyên nghiệp, nhưng với hơn 2.000 bài báo Người đã viết và những tờ báo do người sáng lập đã khẳng định Người chính là người đặt nền móng cho nền báo chí cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp làm báo của Bác Hồ có 2 điều nổi bật. Một là, từ chỗ chưa giỏi tiếng Pháp đã tự học để đạt trình độ làm chủ nhiệm, chủ bút của tờ báo tiếng Pháp. Hai là, làm báo tiếng nước ngoài trước rồi mới làm báo tiếng Việt.

Học ngoại ngữ, học viết báo

Nguyễn Tất Thành đến Pháp lần đầu năm 1911, nhưng phải đến cuối năm 1917, Người mới ở nước Pháp liền một mạch tới giữa năm 1923. Nhận thức được vai trò to lớn của báo chí, Người sớm có ý thức học làm báo. Chính Người đã kể về quá trình tập làm báo của mình.

Trước khi ra nước ngoài, Nguyễn Tất Thành đã biết 2 ngoại ngữ là chữ Hán và chữ Pháp. Chữ Hán là do Người học các ông đồ Nho ở quê, còn chữ Pháp học ở trường Pháp với trình độ tốt nghiệp tiểu học. Chưa giỏi tiếng Pháp, Người mạnh dạn làm quen với Tổng biên tập báo Đời sống thợ thuyền (La Vie d'Ouvriers) và đề nghị giúp đỡ. Ông tổng biên tập thông cảm với nguyện vọng của Nguyễn Tất Thành và vui vẻ động viên: “Anh cứ viết 3 đến 5 dòng cũng được. Có thế nào thì viết thế ấy. Nếu có sai mẹo mực thì tôi sửa cho”. Viết rồi, Nguyễn Tất Thành chép làm hai bản, một bản gửi cho báo, một bản giữ lại.

Lần đầu tiên có tin được đăng báo, Người vui sướng đến mức “có thể nói là sướng nhất trong đời người”, đem so sánh với bản gốc xem báo sửa thế nào để rút kinh nghiệm. Viết tin vắn được một thời gian, tổng biên tập nói: “Anh viết tin ngắn được rồi đó, nay kéo dài dần ra, tính theo số dòng, số cột, tổng số chữ”. Viết được dài rồi, tổng biên tập lại yêu cầu rút ngắn bài còn 10 dòng. Anh đáp ứng được. Đến lúc đó tổng biên tập nói: “Viết dài được, viết ngắn được, bây giờ có vấn đề gì thì viết dài hoặc viết ngắn tùy ý anh”.

Sau này, Bác Hồ thường nói, còn một "thầy" dạy viết báo nữa là quần chúng. Bài báo viết xong đưa anh em quen biết đọc góp ý, nghe, sửa lại, khi thấy mọi người hiểu cả, mới gửi đăng.

Giảng bài tại lớp Chỉnh Đảng Trung ương ngày 17.8.1953, Bác nói cuộc đời mình có 3 lần sung sướng. Lần thứ nhất là được đăng một tin trên báo Sinh hoạt công nhân, lần thứ hai là được đăng truyện ngắn trên báo Nhân Đạo và lần thứ 3 là thảo xong bản Tuyên ngôn Độc lập để đọc trong ngày Quốc khánh. So sánh viết Tuyên ngôn Độc lập với 2 lần được đăng báo, thế mới biết Bác coi trọng nghề viết báo như thế nào!

Từ Le Paria…

Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc đã cùng với đại biểu thuộc địa của Pháp đứng ra vận động thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa - một hình thức mặt trận của các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân Pháp thống trị, liên minh với giai cấp vô sản ở chính quốc cùng đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Từ những hoạt động và đóng góp của mình, Người được bầu vào Ban Chấp hành Hội Liên hiệp thuộc địa.

Hội Liên hiệp thuộc địa xuất bản báo Người cùng khổ (Le Paria) làm cơ quan ngôn luận, Nguyễn Ái Quốc được phân công làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút. Le Paria số 1, ngày 1/4/1922, đăng lời kêu gọi, nêu rõ tôn chỉ, mục đích và nhấn mạnh: "Le Paria đã sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu, mục đích của báo chắc chắn sẽ đạt được: đó là giải phóng loài người".

Báo Le Paria ra hằng tháng, 4 năm hoạt động ra được 38 số. Mỗi số báo in từ 2 - 4 trang. Măng-sét báo ghi bằng ba thứ tiếng: Pháp, Arab và chữ Hán (Người Lao động báo). Có vài số báo ra nửa tháng, ba lần ra số kép. Ngoài phát hành ở Pháp, hoặc gửi bí mật về các thuộc địa, báo còn được gửi qua đường bưu điện công khai đến nơi được phép ở châu Âu, châu Phi, châu Mỹ Latin, Moscow. Ở các thuộc địa, có nơi báo bị cấm ngay sau thời gian ngắn phát hành.

Việc mỗi số Le Paria in hàng nghìn đến 3 - 4 nghìn bản cho thấy vai trò to lớn của tờ báo trong việc xây đắp và cổ vũ cho tình đoàn kết, hữu nghị, tăng cường sự hiểu biết, đồng cảm lẫn nhau giữa những người bị áp bức ở bản xứ trong cuộc đấu tranh chống xâm lược. Năm 1923, truyền đơn cổ động mua báo Le Paria khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại”, Nguyễn Ái Quốc cho biết ảnh hưởng của báo rất lớn trong xã hội thuộc địa: “Lời hiệu triệu trên báo đã bí mật đến các làng mạc. Nó được chuyển từ vùng này sang vùng khác và đã có sự đồng tình với nhau”.

… đến báo Thanh Niên

Cuối tháng 10/1924, Nguyễn Ái Quốc rời Moscow, đến Quảng Châu ngày 11/11/1924, với tư cách công khai là phiên dịch của phái đoàn cố vấn quân sự của Liên Xô cho Chính phủ Tôn Dật Tiên, phóng viên thường trú tại Quảng Châu của Hãng Thông tấn Nga Rôxta; thẩm quyền thực tế là cán bộ Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, đồng thời là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân, được giao theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước châu Á. Về Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến chuẩn bị thành lập chính đảng vô sản kiểu mới cho giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Trước hết, Người thành lập một tổ chức có tính chất quần chúng rộng rãi nhằm tập hợp những thanh niên yêu nước trong và ngoài nước. Đó là Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, thành lập tháng 6/1925.

Cùng với việc đào tạo đội ngũ cán bộ, Nguyễn Ái Quốc chủ trương xuất bản sách và dùng báo chí làm phương tiện tuyên truyền. Nguyễn Ái Quốc sáng lập báo Thanh Niên, cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và trực tiếp chỉ đạo, đồng thời là cây bút chủ chốt (số đầu tiên ra ngày 21/6/1925). Báo có các chuyên mục: xã hội, bình luận, tin tức, diễn đàn, vấn đáp, phê bình, trả lời bạn đọc... Các đồng chí Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Duy Điếm, Trương Vân Lĩnh tham gia sáng lập và đồng hành cùng tờ báo.

Những bài viết của báo Thanh Niên đều ngắn gọn, lời văn giản dị, trong sáng, dễ hiểu, thường đề cập những vấn đề chính: đế quốc và thuộc địa; cách mạng và cải lương; thực tiễn của cách mạng Việt Nam; đảng cách mạng và Đảng Cộng sản; cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới; cách mạng và mặt trận dân tộc thống nhất; học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin... Thông qua báo Thanh Niên, tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã thống nhất về phương hướng và nội dung tuyên truyền giáo dục ở trong và ngoài hội.

Báo Thanh Niên bằng tiếng Việt, từ tháng 6/1925 - 4/1927 ra được 88 số. Báo được viết tay bằng bút thép trên trang giấy sáp, in mỗi kỳ trên 100 bản tại cơ sở bí mật ở Quảng Châu, Trung Quốc. Thời gian đầu, báo ra hàng tuần, về sau do điều kiện khó khăn nên số sau cách số trước có khi 3 tuần, khi 5 tuần. Măng sét báo viết hai chữ Thanh Niên bằng tiếng Hán và tiếng Việt. Góc trái mỗi tờ báo là ngôi sao 5 cánh, trong đó ghi số báo. Phần lớn mỗi số có 2 trang, một số ít ra 4 trang, khổ giấy trung bình 13cm x 19cm.

Sau khi báo phát hành, số lớn được đóng gói theo đường dây bí mật của Đảng, từ Quảng Châu chuyển về trong nước và sang Xiêm, Nhật để tuyên truyền đường lối cách mạng. Báo Thanh Niên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tuyên truyền, cổ động tập thể, vạch trần tội ác của thực dân Pháp và chế độ phong kiến suy tàn, khích lệ tinh thần yêu nước và khí phách hào hùng của dân tộc Việt Nam; góp phần quan trọng truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp vô sản vào đầu năm 1930.

Từ báo Le Paria tới báo Thanh Niên chỉ cách nhau 3 năm. Hai tờ báo đều là tiếng nói, là cơ quan ngôn luận của tổ chức chính trị, đều có vai trò cổ động, tổ chức, tập hợp quần chúng. Chỉ khác Le Paria là tờ báo tranh đấu cho những người cùng khổ khắp 5 châu, còn Thanh Niên hướng về tương lai thế hệ trẻ của nước Việt Nam còn đang sống trong vòng nô lệ. Tuy nhiên, hai tờ báo đều thống nhất ở mục đích tuyên truyền, đó là khẳng định cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường cách mạng vô sản thì mới giành được thắng lợi, như báo Thanh Niên số 61 ra ngày 18/9/1926 có bài viết: “Chỉ có Đảng Cộng sản mới có thể đem lại cho nhân dân Việt Nam tự do, hạnh phúc”!

Tiếp theo tờ Thanh Niên, Nguyễn Ái Quốc cùng các bạn chiến đấu còn xuất bản ba tờ báo định kỳ khác là: Công nông (từ tháng 12/1926 đến đầu năm 1928), Lính cách mệnh (từ đầu năm 1927 đến đầu năm 1928) và Việt Nam tiền phong cho những đối tượng hẹp hơn.

Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ đạo và tổ chức ra các tờ Tranh đấu và tạp chí Đỏ. Tháng 1/1941 Nguyễn Ái Quốc về nước chủ trì Hội nghị Trung ương 8 thành lập Mặt trận Việt Minh, cho xuất bản tờ báo Việt Nam độc lập năm 1941 và báo Cứu quốc năm 1942. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II tháng 2/1951, Hồ Chí Minh chỉ đạo thành lập báo Nhân Dân - cơ quan ngôn luận của Đảng Lao động Việt Nam.

Đại biểu Nhân dân
St

NỮ BIỆT ĐỘNG "CẢM TỬ“Trong lịch sử 75 năm chiến đấu và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh ...
19/06/2025

NỮ BIỆT ĐỘNG "CẢM TỬ“

Trong lịch sử 75 năm chiến đấu và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập đã lập nhiều chiến công vang dội, bảo bệ vững chắc nền độc lập của nước ta. Trong thành quả chung đó, có sự đóng góp không nhỏ của những người chiến sỹ dũng cảm, kiên trung trong chiến đấu cũng như trong hòa bình.

Người ta gọi bà là nữ biệt động “cảm tử” vì 3 lần dũng cảm đột nhập tận sào huyệt đặt bom tiêu diệt kẻ thù. Bà cũng từng được biết đến là người không khuất phục trước đòn roi tra tấn của kẻ thù, là nữ tù Côn Đảo “cứng đầu” thường xuyên chống lệnh nhà tù. Bà là thành viên đội biệt động thành Sài Gòn - Gia Định N10 lừng lẫy một thời, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Trần Thị Mai.
Ba lần đánh bom sào huyệt địch
Xuất thân trong một gia đình có truyền thống cách mạng, từ nhỏ Trần Thị Mai đã nung nấu ý định nối tiếp cha anh mình. Năm 1964, cô gái 16 tuổi Trần Thị Mai mạnh dạn tham gia lực lượng Biệt động Sài Gòn. Bà được phân về Đội biệt động N10, chiến đấu dưới sự chỉ đạo của Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Đỗ Tấn Phong (hay còn gọi Ba Phong). Cũng từ đó, bà nhận nhiệm vụ đưa thư từ, đưa cán bộ từ nội thành ra ngoại thành và ngược lại.
Đến năm 1969, nhờ thông thạo địa hình nội đô thành phố, Trần Thị Mai được giao nhiệm vụ “tìm địch mà diệt”. Để thực hiện nhiệm vụ của mình, bà đã vận động thêm bạn bè và thành lập tổ nữ biệt động gồm 3 người là Trần Thị Mai, Hoàng Thị Khanh (hay còn gọi là Bê) và Nguyễn Thị Dung. “Nhiệm vụ đầu tiên mà tôi lên kế hoạch là tấn công doanh trại lính Mỹ bên cạnh rạp chiếu phim Đại Nam (trên đường Trần Hưng Đạo ngày nay). Do không thể đột nhập vào doanh trại của chúng nên tôi quyết định sẽ đặt thuốc nổ ở rạp chiếu phim”, anh hùng Trần Thị Mai nhớ lại trận đánh đầu tiên của mình.
Sau khi nắm rõ lịch chiếu phim của rạp cũng như lịch sinh hoạt, nghỉ ngơi của lính Mỹ, 20 giờ ngày 20/1/1970, bà Mai cùng bà Hoàng Thị Khanh dùng 4 kg thuốc nổ mạnh C4 ngụy trang trong 2 lon sữa gui-gô đột nhập vào rạp Đại Nam. “Dù chúng tôi ngụy trang rất kỹ nhưng đến cổng rạp vẫn bị bọn lính chặn lại. Chúng nó hỏi chị em chúng tôi đi xem hát sao lại mang theo lon sữa. Tôi bình tĩnh trả lời: Được mẹ giao đi mua sữa nhưng sợ sau khi xem phim tạp hóa đóng cửa mất nên mua trước. Thấy tôi nói hợp lý nên tụi lính không nghi ngờ và qua cửa trót lọt”, bà Mai kể.
Nhằm hạn chế thương vong cho đồng bào mình, bà Mai canh rất kỹ thời điểm rạp chiếu phim kết thúc suất chiếu để kích hoạt kíp nổ. Sau khi đã đặt thuốc nổ thành công, bà Mai và bà Khanh lấy xe ra về nhưng không may chiếc xe bị bể bánh (thủng săm), hai bà đành phải dắt bộ tháo chạy khỏi rạp chiếu phim. “Lúc phát hiện xe hư, chúng tôi rất quýnh quáng và lo sợ vì nguy cơ bị bắt rất cao, hai chị em dắt xe chạy như bay về đến chợ Bến Thành thì một tiếng nổ lớn vang lên. Rất may không bị bắt lại”, bà Mai cho hay.
Ngày hôm sau, thông tin 70 tên lính Mỹ thương vong trong vụ nổ được công bố. Với chiến công vang dội này, cá nhân bà Trần Thị Mai được tặng Huân chương chiến công hạng Ba, còn tổ nữ biệt động được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Nhất. Quan trọng hơn, trận đánh này có ý nghĩa lớn trong việc củng cố tinh thần chiến đấu của lực lượng Biệt động thành.
Thừa thắng xông lên, ngày 7/2/1970, bà Mai quyết định một mình ném lựu đạn vào Trụ sở Nhân dân tự vệ của lính ngụy trên đường Cô Bắc. “Sở dĩ tôi chọn trụ sở này để ném lựu đạn bởi ở đây có nhiều tên địch rất “ác ôn”, thường xuyên truy bắt anh em cách mạng ẩn mình trong nhà dân. Nhiều anh em, cán bộ cách mạng, đồng đội của tôi đã bị bắt trong những đợt sục sạo, vây ráp của bọn chúng nên tôi quyết định ném lựu đạn dằn mặt, thị uy chúng ”, bà Mai chia sẻ. Lợi dụng đêm khuya, bà Mai ném lựu đạn vào đồn địch và tẩu thoát nhanh chóng, tiêu diệt được 12 tên địch.
Ngày 14/3, anh hùng Trần Thị Mai lại lập chiến công lớn khi cùng đồng đội Nguyễn Thị Dung cải trang thành những cô gái Sài Gòn đi quán bar, tấn công khách sạn kế rạp Eden, đường Nguyễn Huệ– tụ điểm ăn chơi của nhiều lính Mỹ, ngụy lúc bấy giờ. Lần này, bà dùng 3 kg thuốc nổ C4 ngụy trang trong một hộp bánh để địch không phát hiện và nhiệm vụ thành công khi hơn 10 lính Mỹ, ngụy bị thương và chết sau vụ nổ.
Không khuất phục trước đòn roi kẻ thù
Đảm trách 3 vụ tấn công gây tiếng vang lớn nhưng có lẽ trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Anh hùng Trần Thị Mai, đáng nhớ nhất vẫn là 2 lần bị địch bắt với những ngón đòn tra tấn dã man. “Lần đầu tiên tôi bị bắt khi đang làm nhiệm vụ giao liên đưa cán bộ từ Tây Ninh vào nội thành Sài Gòn đúng vào Tết Mậu Thân năm 1968. Dù giặc dùng nhiều hình thức tra tấn khác nhau như treo người lên cao, chích điện, đánh đập bằng dùi cui… thế nhưng tôi vẫn không khai, quyết tâm bảo vệ căn cứ, bảo vệ đồng đội đến cùng”, bà Trần Thị Mai kể lại.
Sau khi bị giam lỏng 5 tháng, thấy không khai thác được gì từ bà, giặc thả bà tự do. Trở lại căn cứ Suối Sâu (Trảng Bàng, Tây Ninh) sau khi ra tù, bà được cho đi học bồi dưỡng chính trị, quân sự. Đến năm 1969, bà được đưa trở lại nội thành Sài Gòn và đầu năm 1970 hoàn thành xuất sắc 3 nhiệm vụ gây tiếng vang lớn lúc bấy giờ.
Sau 3 vụ việc đặt bom liên tiếp gây tổn thất lực lượng, chính quyền Việt Nam Cộng hòa lúc bấy giờ kiểm soát, truy lùng gắt gao lực lượng Biệt động Sài Gòn. Ngày 30/3/1970 là một ngày đáng nhớ, bà Trần Thị Mai bị bắt một lần nữa khi đang từ Tây Ninh về Sài Gòn tìm mục tiêu mới. Tại ngã 3 Bình Triệu (Thủ Đức) bà bị giữ lại do dùng thẻ căn cước giả. Ở một nhánh khác, đồng đội của bà là Hoàng Thị Khanh đã không chịu nổi đòn roi tra tấn khai ra tên bà. Bà buộc phải nhận trách nhiệm một mình gây ra 3 vụ nổ rúng động trước đó.
Ngay lập tức bà bị đưa về Tổng nha cảnh sát và cũng là từ đây bắt đầu chuỗi ngày sống trong ngục tù khủng khiếp nhất cuộc đời. “Chúng tra tấn tôi rất dã man, bắt tôi khai ra người lãnh đạo trực tiếp nhưng tôi quyết tâm bảo vệ đồng đội, bảo vệ căn cứ đến cùng, không khai báo điều gì. Chúng hết chích điện lại bịt mũi tống nước vào miệng. Khi tôi đau đớn đến ngất đi, chúng lại tạt nước để tỉnh lại và tra tấn tiếp”, bà Trần Thị Mai kể lại những ngón đòn tra tấn dã man của địch.
Thấy bà “cứng đầu”, địch đã biệt giam bà trong phòng tối, mỗi ngày chỉ được ăn một bát cơm nhỏ, nhưng bà vẫn nhất quyết không khai báo thêm điều gì. Không khai thác được thông tin từ bà, địch chuyển bà về trại giam Biên Hòa. Tại đây, bà cùng các nữ tù chính trị liên tục phản đối chào cờ, đấu tranh các quyền dân sinh dân chủ như đòi cấp thêm quần áo, đòi mở cửa nhà tù 2 lần mỗi ngày…. Sau đó, địch đày bà ra Côn Đảo. Trong những tháng ngày tại Côn Đảo, bà cùng các anh chị em tù chính trị tiếp tục “khuấy đảo” nhà tù bằng các hoạt động phản đối quy định hà khắc ở đây.
Năm 1975, sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cũng như các tù nhân chính trị khác, bà Trần Thị Mai được trả tự do. Sống trong hòa bình, bà đảm nhận nhiều vị trí công tác trong lực lượng Công an đến khi nghỉ hưu vào năm 2002 với cấp bậc Thượng tá.
Năm 1978, cùng với các đồng đội trong lực lượng Biệt động Sài Gòn - Gia Định, bà Trần Thị Mai được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trở về đời thường sau những thăng trầm của cuộc đời, nữ Anh hùng Trần Thị Mai vui vầy tuổi già với con cháu. Bình dị, chân chất và vô cùng gần gũi là ấn tượng của chúng tôi khi trò chuyện với Anh hùng Trần Thị Mai. Bà không thích được gọi là Anh hùng, bởi với nữ chiến sĩ Biệt động thành năm xưa, nhiệm vụ tối thượng của mình là chiến đấu vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do của nhân dân./.

Đinh Hằng /TTXVN
Thành Đô - biên tập

1. Anh hùng Trần Thị Mai xem lại những bức ảnh kỷ niệm bên các đồng đội.

2. Anh hùng Trần Thị Mai (ở giữa, đầu quấn khăn) cùng các đồng đội tập trung tại Bà Rịa - Vũng Tàu khi rời nhà tù Côn Đảo năm 1975. Ảnh: Đinh Hằng - TTXVN (ảnh chụp lại).

3.Anh hùng LLVT ND Trần Thị Mai, nguyên nữ biệt động thành Sài Gòn - Gia Định, cán bộ Công an Quận Phú Nhuận (đứng bên trái) thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chuyến thăm Hà Nội, năm 2002.

"Nhờ các đồng chí báo cáo với Đảng, chúng tôi đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng. Hãy trả thù cho ...
19/06/2025

"Nhờ các đồng chí báo cáo với Đảng, chúng tôi đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng. Hãy trả thù cho chúng tôi. Vĩnh biệt các đồng chí!”.

"Năm 1978, bầu trời sáng lóa, chớp giật bởi hàng loạt tiếng nổ rền vang, mặt đất rung chuyển dữ dội bởi hàng vạn quả cối 82, 60 & pháo 105, 130mm cùng hàng ngàn khẩu AK, B40, B41, M79, thủ pháo, lựu đạn... Đồn biên phòng Hoa Lư (đồn 717) nằm trên Quốc Lộ 13 giáp ranh Bình Phước – Krochie bị tấn công.

Gần 2.000 tên lính Polpot thiện chiến dồn dập đột kích vào đồn biên phòng bé nhỏ heo hút chỉ có 90 tay súng trấn giữ. Trận đánh dai dẳng từ 4 giờ sáng đến tối mịt, cách chục cây số mà vẫn nghe văng vẳng tiếng hô xung phong của bọn Polpot, tiếng súng chống cự yếu ớt dần, thưa dần cho tới khuya hôm sau.

Trên đoạn biên giới Lộc Ninh khi đó có các trung đoàn 88, 205, 174, Q16.. cùng 3 đơn vị pháo binh & 1 lữ đoàn tăng thiết giáp. Hơn 20.000 người lính ko ăn ko ngủ suốt 2 ngày đó. Tất cả nai nịt gọn gàng, súng ống lăm lăm trong tay, mắt quắc lên rực lửa. Tất cả các nòng pháo của pháo binh, xe tăng đều lấy sẵn tọa độ bắn, các pháo thủ ôm đạn đứng chờ mệnh lệnh. Tất cả chỉ chờ đợi mệnh lệnh xuất kích, các máy bộ đàm đều mở kênh liên lạc với đồn 717, từ trong đó vang lên tiếng gọi thống thiết của vị đồn trưởng:

“Các đồng chí hãy tập trung hỏa lực pháo bắn vào mục tiêu là chỉ huy sở của đồn. Chúng tôi sắp hết đạn, địch đang tràn vào sân đồn, anh em đang đánh giáp lá cà, tình thế nguy ngập rồi, làm ơn bắn đi!…”

- Mười phút sau, cũng tiếng nói ấy:

“Nhờ các đồng chí báo cáo với Đảng, chúng tôi đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng. Hãy trả thù cho chúng tôi. Vĩnh biệt các đồng chí!”.

Tất cả chúng tôi mắt nhòe lệ, những người lính già nghiến răng trèo trẹo, quai hàm bạnh ra, mắt trừng trừng như muốn nổ con ngươi. Nhưng là người lính, chúng tôi phải phục tùng mệnh lệnh cấp trên. Có lẽ chỉ có những người có hiểu biết và có trách nhiệm trước Tổ Quốc cao hơn chúng tôi mới hiểu và tin rằng họ cũng đau lòng như chúng tôi. Từ hôm đó những người lính trẻ ko còn bông đùa nghịch ngợm nữa, tất cả như già đi dăm tuổi. Chúng tôi ngồi lặng lẽ lau súng, chuốt lại lưỡi lê, thủ thỉ trò chuyện với những viên đạn. Ko ai bảo ai, trên vành mũ cối xuất hiện những khẩu hiệu:

“Ôi Tổ Quốc mà ta yêu quý nhất
Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi, Việt Nam ơi!”
Hoặc: “Hãy yên nghỉ, hỡi những người anh hùng. Chúng tôi sẽ trả thù!”..

Ngày tấn công được mòn mỏi trông chờ rồi cũng tới. Chúng tôi ào ạt xông lên tấn công vỗ mặt tiền duyên, thọc sâu – dùi xuyên hông, xẻ sườn phòng tuyến địch, vu hồi chặn đường chi viện/tháo chạy của chúng. Thê đội 1 tổn thất nặng thì thê đội 2 tràn lên như thác lũ, chúng tôi như dòng thép nung chảy tưới vào kẻ thù.

Tiếng chính trị viên sang sảng: “Đánh cho chúng biết thế nào là khí phách Việt Nam!”.
Chưa đầy 3 giờ, 2.000 tên đồ tể khát máu Polpot bị đẩy xuống địa ngục. Trận đánh đó ko hề có tù binh! Gần 1/3 trung đoàn tôi hy sinh trong trận đánh mở màn, có nghĩa hơn 800 chàng trai ưu tú của nước Việt nằm xuống ở tuổi đôi mươi..."

(Trích "Giấc mơ cao cả" - CCB Lê Văn Lực).

Ngày 19/6 - Phạm Hồng Thái giữa lòng Quảng ChâuNgày 19/6/1924, giữa tiếng ồn ào của một bữa tiệc tại khách sạn Victoria,...
19/06/2025

Ngày 19/6 - Phạm Hồng Thái giữa lòng Quảng Châu
Ngày 19/6/1924, giữa tiếng ồn ào của một bữa tiệc tại khách sạn Victoria, một quả bom vang lên xé toang bầu không khí. Người ném nó không ai khác là Phạm Hồng Thái, một thanh niên Việt Nam cải trang thành ký giả, mang theo lòng căm thù giặc Pháp và khát vọng cứu nước cháy bỏng. Ông đã viết bản cáo trạng tố cáo tội ác thực dân rồi một mình thực hiện cuộc mưu sát Toàn quyền Méclanh để thức tỉnh dân tộc. Dù kẻ thù thoát chết nhưng tiếng bom của Phạm Hồng Thái đã làm rúng động cả Hương Cảng.

Trong đêm tối sau vụ nổ, Phạm Hồng Thái bị địch truy đuổi gắt gao. Kế hoạch thoát thân bị rối loạn, ông chạy nhầm hướng rồi quyết định lao mình xuống sông Châu Giang để không rơi vào tay giặc, anh dũng hy sinh ở tuổi 29. Tiếng bom hôm ấy không chỉ là bản án dành cho kẻ thù mà còn là hồi chuông thức tỉnh cả dân tộc. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về ông bằng những câu thơ xúc động:

Sống chết được như anh,
Thù giặc thương nước mình.
Sống, làm quả bom nổ,
Chết, như dòng nước xanh.

Mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái nằm trong nghĩa trang Hoàng Hoa Cương ở Quảng Châu, nơi yên nghỉ của 72 liệt sĩ cách mạng Trung Quốc. Ngôi mộ được xây bằng đá hoa cương, phía trước có dựng tấm bia hình lăng trụ, chân rộng, thân thu nhỏ dần về phía trên và chia thành ba tầng rõ rệt.

Bia cao 3,27 mét, đặt trên nền diện tích 12,96 mét vuông. Trên mặt bia khắc bằng chữ Hán dòng chữ trang trọng: “Việt Nam Phạm Hồng Thái liệt sĩ chi mộ” ghi nhận sự hy sinh cao cả của một người con đất Việt vì lý tưởng tự do, độc lập.

St

NHÀ BÁO VÕ NGUYÊN GIÁP: LÀM MỘT SỐ BÁO CŨNG GIỐNG NHƯ TỔ CHỨC MỘT TRẬN ĐÁNH HIỆP ĐỒNGNăm 1991, phát biểu nhân dịp được t...
18/06/2025

NHÀ BÁO VÕ NGUYÊN GIÁP: LÀM MỘT SỐ BÁO CŨNG GIỐNG NHƯ TỔ CHỨC MỘT TRẬN ĐÁNH HIỆP ĐỒNG

Năm 1991, phát biểu nhân dịp được trao tặng Huy chương Vì sự nghiệp Báo chí Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: “Nghề báo là một nghệ thuật đầy hứng thú. Sau này khi đã chuyển qua công tác quân sự, tôi thấy làm một số báo cũng giống như tổ chức một trận đánh hiệp đồng. Đó là công việc tôi luôn luôn khẩn trương. Phải phát hiện kịp thời mưu đồ, thủ đoạn của giai cấp thống trị; yêu cầu, tâm lý đa dạng và thường xuyên thay đổi của bạn đọc, nguyện vọng sâu xa của nhân dân, để biết phải làm gì”.

Đó là lời chia sẻ chân thành của một con người tài hoa, cả cuộc đời gắn bó với hai lĩnh vực tưởng như không liên quan gì đến nhau, nhưng ở cả hai, ông đều để lại dấu ấn sâu đậm: Một nhà quân sự lẫy lừng và một nhà báo kiệt xuất.

16 tuổi, cậu học trò Trường Quốc học Huế Võ Nguyên Giáp đã viết bài báo đầu tiên. Năm 1925, Võ Nguyên Giáp thi đỗ trường Quốc học Huế. Trong thời gian học tại đây, ông kết thân với Nguyễn Chí Diểu và nhiều học sinh yêu nước, tích cực tham gia phong trào vận động đòi ân xá cho Phan Bội Châu, để tang Phan Chu Trinh. Tháng 4-1927, ông tham gia tổ chức bãi khoá để phản đối nhà trường đuổi học Nguyễn Chí Diểu với lý do là “phần tử gây rối”. Sau bãi khoá, Võ Nguyên Giáp và một số người khác cũng bị đuổi học.

Trong bài viết “Mười lăm năm làm báo trước Cách mạng Tháng Tám” đăng trên Tạp chí Nhà báo và Công luận số tháng 8-1991, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại: Tôi nảy ra ý định viết một bài báo với tiêu đề “Đả đảo tên bạo chúa ở trường Quốc học”. Phải viết bằng tiếng Pháp để gửi cho tờ L’Annam xuất bản ở Sài Gòn, do luật sư Phan Văn Trường làm chủ nhiệm. Đây là tờ báo dám công khai đả kích thực dân Pháp. Bài báo có tiếng vang ở Huế và nhiều nơi. Mối duyên nợ với báo chí bắt đầu từ đây. Ngay sau khi đọc bài báo, Luật sư Phan Văn Trường khi đó làm chủ bút đã phải thốt lên: “Một cây bút mới xuất hiện lần đầu ở bản xứ này, mà có giọng văn sắc sảo như giọng văn Nguyễn Ái Quốc bên Paris”.

Rời trường Quốc học, anh được giới thiệu vào làm việc tại nhà xuất bản Quan hải tùng thư do Đào Duy Anh sáng lập và làm việc tại Báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Anh bắt đầu học nghề làm báo và đã mạnh dạn viết nhiều thể loại, về các vấn đề chính trị - xã hội, nghiên cứu, bình luận quốc tế, trực tiếp phụ trách chuyên mục “Thế giới thời đàm” với bút danh Vân Đình.

“Hồi đó, ở Huế có báo Tiếng dân do cụ Huỳnh Thúc Kháng làm chủ bút. Đây là tờ báo lớn đầu tiên ở Trung Kỳ có tư tưởng tiến bộ. Tôi được giới thiệu vào làm biên tập ở báo Tiếng dân. Tôi viết nhiều bài với nhiều bút danh như Vân Đình, Hải Thanh - đây là dịp tốt để làm quen với mọi thể loại, từ bình luận tình hình thế giới, nghiên cứu những vấn đề chính trị, xã hội trong nước, tới điều tra, phóng sự. Cụ Huỳnh không tán thành những quan điểm “bôn-sơ-vic”, nhưng vẫn đồng ý để tôi viết một loạt bài giới thiệu chủ nghĩa Mác dưới dạng phổ thông. Những bài viết của tôi lời lẽ phải cân nhắc, nói chung đều được đăng. Nhưng cũng nhiều lần bị kiểm duyệt cắt trắng cả mấy cột báo”.

Ngay sau Mặt trận Bình dân giành thắng lợi trong cuộc Tổng tuyển cử ở Pháp, tình hình có nhiều thuận lợi, Võ Nguyên Giáp cùng một số đồng chí đã góp tiền mua lại một tờ báo sắp phá sản.

Đại tướng kể: Theo luật pháp của chính quyền thực dân, muốn ra báo bằng tiếng Pháp, chỉ cần nộp trước tờ khai tên báo, chủ nhiệm, quản lý, nếu vi phạm pháp luật, những người này sẽ bị đưa ra tòa xét xử. Nhưng muốn xuất bản một tờ báo tiếng Việt thì phải xin phép, thể lệ rất phiền phức và thường phải chờ đợi lâu.

May sao có tờ Hồn trẻ của Hướng đạo sinh, vì thua lỗ phải tạm ngừng xuất bản, chủ nhiệm báo sẵn sàng nhượng lại bản quyền. Tôi bàn với một số giáo sư tiến bộ ở trường Thăng Long cùng nhau góp tiền để làm cho tờ báo sống lại với một nội dung hoàn toàn mới. Chỉ 2 ngày sau khi Léon Blum tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng Chính phủ Pháp, ngày 6-6-1936 tờ Hồn trẻ tập mới ra đời. Có thể nói đây là tờ báo tiếng Việt đầu tiên công khai cổ động đấu tranh cho các khẩu hiệu dân sinh, dân chủ, đòi đại xá chính trị phạm, ủng hộ Mặt trận Bình dân Pháp và tập hợp nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân Việt Nam nhằm phản ánh với phái đoàn điều tra của Chính phủ Bình dân do Goda cầm đầu, sẽ sang Đông Dương. Báo rất được bạn đọc hoan nghênh, in ra không đủ bán. Ra đến số 5 thì nhà cầm quyền ra lệnh đóng cửa.

Biết ra báo tiếng Việt sẽ bị o ép song ra báo tiếng Pháp dễ hơn nhiều nên Võ Nguyên Giáp chuyển sang làm báo tiếng Pháp. Ông cộng tác với Nguyễn Thế Rục, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, sinh viên Trường đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, xuất bản tờ Le Travail (Lao Động). Ngày 16-9-1936, Báo Le Travail do Võ Nguyên Giáp vừa là chủ bút, vừa là biên tập viên chính ra đời. Báo ra được 30 số đến 16-4-1937 tiếp tục bị đóng cửa.

Lúc này, nhiều tờ báo tiếng Pháp và tiếng Việt được Đảng chỉ đạo xuất bản công khai. Báo tiếng Pháp có các tờ Rassemblement (Tập hợp), En Avant (Tiến lên), Notre Voix (Tiếng nói của chúng ta); báo tiếng Việt có Thế giới, Đời nay, Tin tức, Ngày mới… Võ Nguyên Giáp hăng say làm báo dù hầu như không có nhuận bút và phụ cấp.

Sau này Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại: “Suốt những năm đó, nghề chính của tôi là dạy học ở trường Thăng Long, tôi cũng đã nộp đơn học trường luật nhưng phần lớn thời gian dành cho báo chí. Tôi làm hết các chân của nghề báo, từ viết xã luận, thời đàm, nghị luận, điều tra, phóng sự, biên tập, duyệt bài, sắp xếp nội dung... cho tới viết bố cục, lên trang, trình bày, đưa nhà in, sửa bản bông và không ít khi làm cả việc phát hành báo”.

Trung tướng Hồng Cư, người em cọc chèo với Đại tướng có lần viết trên Báo Quân đội nhân dân: Thời gian này, anh Giáp làm việc rất hào hứng, mặc dù sức khỏe của anh không tốt cho lắm. Nghe tin có cuộc bãi công lớn của công nhân vùng mỏ, Võ Nguyên Giáp đã đạp xe đạp 200km từ Hà Nội về tới Cẩm Phả để viết bài đăng báo. Cuộc bãi công nổ ra ngày 13-11-1936 lúc đầu tại Cẩm Phả, với trên một vạn thợ mỏ tham gia, sau một tuần lan ra khắp vùng mỏ với trên năm vạn người tham gia. Chính quyền thực dân Pháp điều động lính lê dương về vùng mỏ, uy hiếp tinh thần thợ bãi công. Anh Giáp viết bài tố cáo đăng liên tiếp mấy số báo Le Travail. Những bài báo này đã gây được sự chú ý của dư luận trong nước và cả ở Pháp, tạo ra sự ủng hộ đối với cuộc đấu tranh của thợ mỏ.

Có lần cùng một lúc, các anh Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Hoàng Hữu Nam đều bận việc đột xuất, không kịp viết bài, anh Giáp ngồi từ 6 giờ chiều đến 6 giờ sáng hôm sau, viết kín một thếp giấy 48 trang và bố cục, trình bày xong cả một số báo cho kịp đưa xuống nhà in, sau khi ăn điểm tâm, lại tới trường Thăng Long dạy học.

Hội nghị lần thứ nhất của báo giới Bắc Kỳ họp ngày 24-4-1937 tại Hội quán CSA số 1 phố Charles Coulier (nay là Câu lạc bộ Thể dục thể thao Khúc Hạo) đã bầu Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch và Trần Huy Liệu làm Phó Chủ tịch Ủy ban báo chí Bắc Kỳ.

Tháng 5-1940, Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng được Xứ ủy Bắc kỳ cử sang Vân Nam (Trung Quốc) hoạt động. Trong hồi ký Từ nhân dân mà ra, ông kể: "Thời gian ở Tĩnh Tây, chúng tôi cũng ra báo. Cũng chỉ là báo in thạch, nhưng giấy sẵn, khuôn khổ tờ báo rộng, bài viết thoải mái chứ không hạn chế…”

Sau hội nghị Trung ương 8 năm 1941, Trung ương thành lập Mặt trận Việt Minh, Bác Hồ chỉ đạo ra tờ báo Việt Nam độc lập, gọi tắt là Việt lập và phân công Võ Nguyên Giáp viết một số bài quan trọng. Đã làm báo, viết báo rất nhiều nhưng chưa bao giờ Võ Nguyên Giáp thấy viết báo khó khăn như thời gian làm báo Việt Nam độc lập cùng Hồ Chí Minh.

Đại tướng kể lại trong Tổng tập hồi ký: Có lần Bác phân công viết một bài về phong trào phụ nữ, nhưng chỉ được viết 100 chữ. Thấy tôi ngồi viết khó khăn, Bác cười bảo: Báo các chú văn hay, nhiều chữ, nhưng khó đọc, và có đọc được cũng không mấy ai hiểu. Đây là một bài học về làm báo phục vụ nhân dân mà Võ Nguyên Giáp vô cùng thấm thía và không bao giờ quên.

Ngay sau khi Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra đời ngày 22-12-1944, Võ Nguyên Giáp đã cho ra đời tờ báo viết tay với tên gọi là Tiếng súng reo. Sang năm 1945, Võ Nguyên Giáp còn tiếp tục làm chủ bút, chỉ đạo biên tập 5 số đầu tiên (từ 20-6 đến 5-8-1945) của báo Nước Nam mới. Ông cũng chủ trì việc thành lập Báo Quân Giải phóng của Việt Nam Giải phóng quân. Số 1 của Báo Quân Giải phóng số ra ngày 5-8-1945 đăng bài quan trọng của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp với bút danh là Trí Dũng biểu dương, phê bình rút kinh nghiệm một số trận chiến đấu.

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Võ Nguyên Giáp được Đảng, Bác Hồ giao nhiều trọng trách mới. Giữa bộn bề công việc, ông vẫn tích cực tham gia hoạt động báo chí với nhiều bài viết quan trọng, mang tầm định hướng chiến lược.

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng hết sức coi trọng mặt trận tuyên truyền, báo chí. Đặc biệt, Báo Quân đội nhân dân đã tổ chức tòa soạn tiền phương trong rừng Mường Phăng nằm ngay cận kề hầm Đại tướng. Đại tướng thường xuyên chỉ đạo và là tác giả (bút danh Chính Nghĩa) của những bài xã luận, bình luận sắc bén trên 33 số báo Quân đội nhân dân tại mặt trận.

Ông Hoàng Xuân Tùy, Chủ nhiệm Báo Quân đội nhân dân (chức vụ tương đương Tổng biên tập ngày nay) khi đó kiêm thư ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, kiêm Trưởng ban Tuyên huấn Mặt trận Điện Biên Phủ đã luôn nắm bắt kịp thời mọi chỉ đạo để có những bài viết sắc bén. Bộ đội thường đón đọc những bài Chính Nghĩa viết và có khi trong bài của Chính Nghĩa còn cài chi tiết để đánh lạc hướng quân địch. “Những bài ấy được phát trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam để cho đối phương nghe”, nhà báo Trần Cư – nguyên Thư ký tòa soạn tiền phương sau này tiết lộ. Những bài của Đại tướng viết trong thời gian này, như: “Kế hoạch Nava đã gặp những thất bại nặng nề” (báo Quân đội nhân dân số 117, ngày 3-11-1953, tức là số 2 của báo Quân đội nhân dân xuất bản tại mặt trận); “Chúc mừng thắng lợi đầu năm của nhân dân Pathét Lào” (số 123, ngày 18-2-1954); “Từ Hòa Bình, Nà Sản tới Điện Biên Phủ và Luang Prabang hay là: Tài thao lược của Nava!” (số 127, ngày 3-3-1954); “Những lục đục nội bộ trong phe địch, ngụy sau những thất bại quân sự vừa qua” (số 129, ngày 9-3-1954); “Hoan hô chiến công của hai đoàn dũng sĩ diệt 78 phi cơ địch ở Gia Lâm và Cát Bi” (số 131, ngày 1-4-1954), được bộ đội truyền tay nhau đọc ngay trong chiến hào, củng cố thêm niềm tin vào chiến thắng của chiến dịch, động viên, cổ vũ tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ ta.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, do trọng trách nặng nề với công việc Đảng giao, ông không trực tiếp tham gia lãnh đạo một cơ quan báo chí nào, nhưng ông vẫn tiếp tục viết nhiều bài báo quan trọng. Theo nghiên cứu của GS, TS Tạ Ngọc Tấn: Những bài viết của ông trong thời kỳ này có thể chia thành 3 nhóm: Nhóm thứ nhất là hồi ức về những chặng đường cách mạng đã qua; nhóm thứ hai là các bài có tính chất tổng kết về đường lối quân sự của Đảng, quá trình xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân và chiến tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng; nhóm thứ ba là các bài có tính chỉ đạo, phân tích, đánh giá tình hình, định hướng tư tưởng và hành động cho quân đội và nhân dân ta.

Theo nghiên cứu của GS, TS Tạ Ngọc Tấn: Những bài viết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong thời kỳ này có thể chia thành 3 nhóm: Nhóm thứ nhất là hồi ức về những chặng đường cách mạng đã qua; nhóm thứ hai là các bài có tính chất tổng kết về đường lối quân sự của Đảng, quá trình xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân và chiến tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng; nhóm thứ ba là các bài có tính chỉ đạo, phân tích, đánh giá tình hình, định hướng tư tưởng và hành động cho quân đội và nhân dân ta.

Thời kỳ từ sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đại tướng vẫn tiếp tục viết báo khá nhiều và với những chủ đề đa dạng. Ngoài những vấn đề quen thuộc như quân sự - quốc phòng, thời sự chính trị, ông có nhiều bài viết về các vấn đề khoa học, kỹ thuật, văn hóa, lịch sử. Đặc biệt, với các công trình nghiên cứu và các bài báo về tư tưởng Hồ Chí Minh, ông trở thành một trong những người đi đầu nghiên cứu và có những đóng góp có ý nghĩa quan trọng về chủ đề mới mẻ này.

Như vậy, từ khi mới là cậu học trò 16 tuổi đến khi đã trở thành một vị đại tướng, chính trị gia lừng danh, với cuộc đời hơn một thế kỷ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có hơn 80 năm viết báo. Các tác phẩm ông đã bổ sung vào kho tàng lý luận và thực tiễn nghệ thuật quân sự Việt Nam cũng như nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Trong một lần tiếp các nhà báo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tâm sự: “Báo chí là một lực lượng mạnh, có thể tạo nên sự chuyển biến con người. Báo chí phải tích cực tham gia vào công tác tư tưởng, xây dựng Đảng, đào tạo cán bộ, phổ biến kiến thức mới trong nhân dân, trên cơ sở đó xây dựng một nước Việt Nam anh hùng nhưng giàu có”./.

Báo QĐND
St

Address

Da Nang

Telephone

+84868515994

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Tự Hào MIỀN TRUNG posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share