Bích Hải Huyền Sơn

Bích Hải Huyền Sơn Contact information, map and directions, contact form, opening hours, services, ratings, photos, videos and announcements from Bích Hải Huyền Sơn, Digital creator, Gò Công.

20/08/2025
Vầng trăng cố thổ biệt mù saCuộc lữ bụi vương gót hải hàGió tạc niềm khơi đời lãng tửMây len nỗi nhớ kiếp phong baChén t...
31/07/2025

Vầng trăng cố thổ biệt mù sa
Cuộc lữ bụi vương gót hải hà
Gió tạc niềm khơi đời lãng tử
Mây len nỗi nhớ kiếp phong ba
Chén trà huynh đệ còn ai nhỉ?
Văn bút am tranh vẫn vậy mà?
Viễn xứ hoa rơi bờ mộng trắng
Núi sầu sương đẫm, lạnh tình ta.
Khải Tĩnh

NGỌA TÙNG AM – GỬI GIÓ NGHÌN NĂM SAU Trên nền giấy trầm lặng, bỗng hiện dấu son – sắc đỏ phai như đất núi chiều thu.Ba c...
16/07/2025

NGỌA TÙNG AM – GỬI GIÓ NGHÌN NĂM SAU

Trên nền giấy trầm lặng, bỗng hiện dấu son – sắc đỏ phai như đất núi chiều thu.
Ba chữ triện thanh đạm: “卧松庵 – Ngọa Tùng Am.”

“Ngọa Tùng Am” – không chỉ là tên gọi am xưa của Thầy, mà là biểu tượng cho một nếp thiền vô ngôn:
Ngọa (卧): là nằm, là an trú, là buông lặng giữa chốn trần lao.
Tùng (松): là khí cốt của cây tùng già – gió tuyết không ngã, nắng mưa không sờn.
Am (庵): là cốc nhỏ, khiêm cung – nơi không có gì để khoe, chỉ có Đạo để sống.

Con dấu ấy, không để hiển danh, mà để khắc ghi hình bóng một bậc Thầy khả kính. Ngày ấy, Thầy từng bảo: “Cội tùng đứng hiên ngang giữa trời đất, vững cốt khí giữa sương tuyết chẳng lay.”

Giờ đây, sau bao năm tháng thâm cư thiền địa, Thầy thầm nhận ra chính mình là cội tùng ấy… Cốt già rêu phủ – mà chưa từng cúi đầu trước tuyết sương.

Tuy thân đã cỗi, mà tâm vẫn hư nhiên. Nằm giữa u lâm sơn cốc, tịch mịch sương giăng, vẫn trầm nhiên như cội đá đầu nguồn: Suối cứ chảy, mây cứ trôi… chẳng dấy một niệm phù trần.
Từ một niệm khởi nơi lòng, con phát nguyện làm ấn triện dâng Thầy. Không phải để in lên giấy – mà để ghi vào đá bóng hình của Đạo đã thấm lặng vào hư không.
Để lưu lại điều sâu thẳm, điều lặng thầm mà con từng thâu nhận dưới bóng Thầy: Tựa khói bếp lạc trong mưa, tựa ánh trăng khuya thầm rơi qua rặng tùng.

Từng bước chọn lựa – là một hành trì:
Chọn đá: loại đá thô mộc – không bóng bẩy, nhưng giữ khí.
Chọn chữ: lối triện mềm mại – vừa ẩn, vừa hiện.
Chọn khắc: theo lối hư bạch thư (虛白書) – không tạc chữ theo khuôn lệ, mà chừa khoảng tĩnh cho chữ tự hiển từ trong đá.
Dấu theo lối tùy hình chương (隨形章) – hình thuận thế đá, chữ thuận tâm niệm.
Không theo khuôn thức – mà thuận theo khí mạch vô hình: trong đá, trong tâm.
Và quan trọng nhất: chọn người biết khắc bằng tâm – cầm đao pháp mềm, tiết chế, tàng lực – như người thợ không làm đứt khí mạch của đá.

Nguyện con dấu nhỏ này phản chiếu được phần nào nếp sống thanh cao của Thầy – Một nhân cách lớn, hiếm hoi giữa cõi đời. Một đời thầm lặng gửi trao vào thế gian cái Chân – Thiện – Mỹ.
Qua từng lời thơ, từng giọt mực thấm đạo tình – lan tỏa như sương khói qua bao kiếp sống. Con kính nguyện dâng lên Thầy, với một lòng tri kính không bờ bến.

Và cuối cùng – khi con hoàn thành tâm nguyện nhỏ bé này, cũng là lúc nhẹ cúi đầu trước bóng Thầy – Như cúi mình dưới một đại thụ tùng xanh giữa trời đất bao la, đã đứng vững qua bao mùa tuyết sương, mà chẳng đổi dời cốt khí.

Dấu đã khắc. Mực đã khô.
Nhưng điều con muốn lưu lại – chẳng nằm trong hình sắc hay đường nét, mà là tinh phong lặng lẽ của một bậc Thầy: Người ẩn tu nơi thâm sơn, sống một đời cao khiết thâm viễn, để tuệ giác tỏa như hương mai đầu núi.

Từ am tranh năm ấy – “Ngọa Tùng Am” – Trải bao mùa sương tuyết, vẫn lặng ngát bóng thiền giữa non sâu tịch mịch.

Giữa lặng tĩnh vô thinh, bỗng loé lên bài thơ thuở nào dâng Thầy – Như tiếng đạo vọng về từ gió núi Huyền Không…

“Đại thụ Ngọa Tùng, điểm tuyết sương
Trăng soi đạo nghiệp, tỏa mười phương
Trường mi tuệ nhãn, thâu kinh sử
Khoái nhĩ triều âm, nhiếp luật chương
Thế ngoại ly trần, ngời diện mục
Tâm trung ẩn ngọc, rạng nhiên hương
Không môn tỉnh thượng, đàm duy giác
Cổ nguyệt sơ nguyên, pháp hiển tường.”


Con trở về qua bao nẻo trần ai, mang theo chút hương xưa – từ một am nhỏ giữa núi rừng sơn thượng. Dẫu giữa phương trời xa, con vẫn lặng thầm gìn giữ nếp xưa Thầy từng in dấu.

Bích Hải Huyền Sơn
Kính bút
Con Khải Tĩnh

“Rong chơi ba cõi mười phương bụiĐể thấy hư vô đạo có tình…”( MĐTTA)
08/07/2025

“Rong chơi ba cõi mười phương bụi
Để thấy hư vô đạo có tình…”
( MĐTTA)

MỘT MÌNH VỚI LẶNG THINHĐêm khuya, nơi tịch cốc lạnh vắng bao năm, lòng chợt dấy lên một câu hỏi tưởng chừng đã cũ:– Đời ...
02/07/2025

MỘT MÌNH VỚI LẶNG THINH

Đêm khuya, nơi tịch cốc lạnh vắng bao năm, lòng chợt dấy lên một câu hỏi tưởng chừng đã cũ:

– Đời tu, đến bao giờ mới có thể làm chủ được buồn – vui – sướng – khổ, giữa những được – mất, thăng trầm – dâu bể của kiếp người…?

Một tiếng thì thầm, như từ cõi sâu lắng nhất trong lòng, khẽ đáp:

– Là khi khổ đau đến, ta không còn tìm cách tránh né hay gạt bỏ, mà bình thản nhìn nó như một người bạn cũ ghé thăm – hiểu rằng: khổ là một phần của cuộc sống, không phải kẻ thù.

– Là khi niềm vui hiện ra, ta không vội vàng níu giữ hay đắm chìm, mà chỉ lặng lẽ mỉm cười, như ngắm một đóa hoa sớm nở chiều tàn – đẹp, nhưng không thuộc về ta.

– Là khi thất bại hay trái ngang xảy đến, ta không còn cuống quýt phân bua, không đổ lỗi hay oán hờn, mà chỉ nhẹ nhàng chấp nhận: “Pháp như thị. Như vậy thôi.” – mọi sự đều đang là chính nó.

– Là khi hiểu ra rằng: chẳng có gì cần phải làm chủ nữa – bởi không còn “cái tôi” nào để bị chi phối, để cố níu, để sợ mất.

– Và là khi cơn gió vô thường thổi ngang lòng, ta không lay động, không hoảng hốt, không đuổi theo hay lẩn tránh – chỉ lặng lẽ ngồi yên như đỉnh núi, nhìn mây bay ngang trời…

Khải Tĩnh

ĐẠO CÓ TÌNHPháp huynh ĐT kính mến,        Sáng nay, sương bảng lảng phủ thềm rêu phong, bước chân huynh nhẹ như mây trắn...
01/07/2025

ĐẠO CÓ TÌNH

Pháp huynh ĐT kính mến,


Sáng nay, sương bảng lảng phủ thềm rêu phong, bước chân huynh nhẹ như mây trắng, khiến Bích Hải Huyền Sơn như bừng tỉnh sau bao ngày tịch mịch. Đệ đảnh lễ, tiếp trà, mà trong lòng rưng lên một mạch sống xưa: cái tình đạo vị giữa rừng thiêng suối vắng, giữa những người con cùng Thầy, cùng chung chí nguyện, cùng chung một nẻo tâm linh hướng về.

Người ta thường nói: “Đạo vô sự, pháp vô ngôn.” Nhưng trong bước chân Thầy qua thung mây cổ độ, chúng ta chợt nhận ra một điều lặng lẽ mà sâu xa: “Đạo có tình”. Cái tình ấy không phải ái nhiễm thế gian, mà chính là tinh thần Huyền Không Thầy lặng lẽ truyền trao suốt bao năm tháng: vắng lặng mà chan chứa, tịch nhiên mà thấm lòng người. Tình trong vô ngã, thương trong lặng thinh, sẻ chia trong cái không cần gọi tên.

Thầy không chỉ dạy bằng lời, mà còn bằng cả một nếp sống thân giáo hữu vi vô sự, bằng bóng dáng âm thầm của người đi qua thế gian mà không để lại dấu.

Nhớ lại những tháng ngày “gạo châu củi quế”, huynh đệ bát cháo chia đôi, chén chè chuyền tay, lòng bỗng ấm lạ. Không ấm vì đủ đầy, mà vì có nhau giữa cái không đủ. Có tình trong điều chẳng cần gọi tên, có thương trong lặng mà sâu.

Hôm nay, dưới hiên thất Bích Hải Huyền Sơn, huynh về từ cao nguyên gió núi sương ngàn, đệ ở xó nhỏ miền cát trắng mù khơi. Ngồi bên nhau, chúng ta kể chuyện xưa như gạn sương đầu lá. Nhắc lại thuở Huyền Không, huynh đệ theo Thầy tu học, những ngày đào ao, dựng đá, chẻ củi nấu cơm, rồi tối về thắp đèn, vịnh cảnh, hoạ thơ, đàm kinh luận nghĩa bên núi rừng tịch lặng.

Rồi huynh kể về ngôi Tam Bảo dựng xây nơi miền đất đỏ từ buổi đầu huynh mới đặt chân đến, từng viên gạch, mái ngói đều kết tinh từ tâm nguyện và giọt mồ hôi. Nhờ đó, dân làng biết quay về nương tựa Tam Bảo, biết trì kinh học đạo, biết nở nụ cười giữa bao nỗi nhọc nhằn cõi thế.

Còn nơi này, đệ ở xó núi tĩnh cư, dựng một lều hoa nhỏ bên bờ suối vắng. Sớm chiều trồng rau, trỉa đậu, vui cùng tuế nguyệt mây trời. Lấy thiền vị làm tri kỷ, lấy lặng thinh làm đạo lữ, đệ tùy duyên hóa độ những khách trần lỡ bước, như thắp một ngọn đèn nhỏ giữa màn sương nhân thế. Dẫu ngày tháng qua đi, gió sương phủ mờ dấu chân năm cũ, nhưng đạo tình huynh đệ vẫn lặng lẽ thấm sâu. Vì đạo có tình, nên dẫu huynh và đệ cách nhau ngàn trùng, lòng vẫn hướng về nhau như thuở còn chung bóng Thầy dưới núi rừng Huyền Không.

Bên chén trà cùng huynh dưới hiên thất sương bay, đệ lại nhớ lời Thầy năm xưa từng dạy:

“Sa môn đi trên băng mỏng,

Hành trang lặng lẽ cô phương.”

Lời ấy nhẹ như mây, mà thâm sâu như vực thẳm. Người xuất gia, một niệm sai là rơi vào vực thẳm, như kẻ bước giữa tầng băng mỏng, chỉ một niệm thiếu tỉnh thức, là chìm trong dòng nghiệp lũ. Con đường phía trước nào phải trải gấm lót hoa, mà toàn sỏi đá, mù sương, vực sâu và dốc dựng. Chọn kiếp tu, là chọn một lối về cô liêu, không hứa hẹn, không danh vọng … nhưng có ánh đạo dịu dàng như trăng núi, chẳng rực rỡ mà soi suốt lòng người:

“Người khôn chết chốn lợi quyền,

Ta khờ, ta dại chơi miền tiêu dao…”

Đệ cũng mơ hồ nhận ra, cái “khờ dại” ấy thật ra là một sự tỉnh thức giữa cơn mê trần thế. Còn cái “tiêu dao” mà người đời lầm tưởng là buông lung, kỳ thực lại là sự tự do giữa ràng buộc, là bước thong d**g qua bụi hồng mà tâm vẫn an nhiên.

Giống như một câu thơ tĩnh lặng mà thấu suốt của Ngài Viên Minh:

“Tự do là ung dung trong ràng buộc,

Hạnh phúc là tự tại giữa khổ đau.”

( Thiền Sư Viên Minh)

Ngẫm kỹ, mới thấy: người tu chẳng phải lánh đời, mà là đi xuyên qua cõi đời, Sống giữa bụi hồng mà không nhiễm bụi, như đoá sen âm thầm nở giữa bùn nhơ mà thanh khiết lạ thường.

Chúng ta mỗi người một phương, nhưng cùng chung một chí nguyện. Vì đạo, ta rời núi rừng Huyền Không, xa Thầy, xa đệ huynh, xa chén trà sương núi bên am mây mỗi sớm. Nhưng càng xa càng nhớ, càng tĩnh lại càng thấm. Như vầng trăng trên đỉnh núi, tuy xa mà soi khắp, lặng mà tròn đầy. Đệ nguyện lòng: “Giữ một niệm thanh giữa chốn bụi hồng, dốc chí học tu, đem chút niệm nguyện nhỏ bé, đền đáp phần nào ân Thầy sâu nặng, cùng tình Huynh, nghĩa Đệ lặng lẽ mà khắc sâu”.

Rồi huynh khoác lại tấm y màu sương gió, lặng lẽ đứng dậy. Đệ muốn níu thêm một trống canh, nhưng biết huynh còn bao Phật sự: còn lời kinh giữa núi đồi; còn hương pháp cần thắp sáng. Chỉ biết cúi đầu đảnh lễ, xem như lời tiễn biệt trong lặng thinh.

Huynh về cao nguyên nắng gió, đệ ở lều hoa xó nhỏ miền biển lặng. Xa cách đôi miền, nhưng cùng chung một nẻo tâm: nẻo của hy hiến, của bi nguyện thâm trầm nhuộm cả cõi nhân sinh.

“Rong chơi ba cõi mười phương bụi,

Để thấy hư vô Đạo có tình.”
(Thơ Thầy)

Nhìn bóng y vàng khuất dần trong nắng, lòng chợt se thắt lại. Hoàng hôn chạm đỉnh núi, mây bay về cõi vắng. Đạo lữ tuy cô liêu, nhưng không cô độc. Chén trà chưa vơi, mà tình đã đầy. Và giữa tịch mịch ấy, đệ mới thật sự hiểu: “Đạo có tình”.

Tịnh thất Bích Hải Huyền Sơn

Miền Vô Sự, mùa ổi chín…

Pháp đệ Khải Tĩnh

Đạo tình trăng nước dệt vầnBa ngàn tục niệm một lần thả trôi.Khải Tĩnh
03/06/2025

Đạo tình trăng nước dệt vần
Ba ngàn tục niệm một lần thả trôi.

Khải Tĩnh

DƯỚI BÓNG HUYỀN KHÔNG Có một bài thơ xưa Thầy từng viết,mỗi chữ nhẹ như làn gió thoảng,mà âm vang thì sâu như tiếng chuô...
02/06/2025

DƯỚI BÓNG HUYỀN KHÔNG

Có một bài thơ xưa Thầy từng viết,
mỗi chữ nhẹ như làn gió thoảng,
mà âm vang thì sâu như tiếng chuông chiều vọng giữa Huyền Không.

Những câu thơ ấy theo con suốt những năm tháng lưu lạc,
như một ánh nắng ấm,
mà mỗi khi nghĩ về, lòng lại rưng rưng:

một kiếp làm người,
không đi cũng mỏi
chữ nhân thường viết mãi vẫn run tay
môi bập bẹ,
sợ lời mình lầm lỗi
làm sao đương những đại sự cao dày…
(Thơ Thầy)

Từ những câu thơ ấy,
con xin được cúi lòng viết lại đôi điều –
không phải để kể, cũng không dám tán dương,
chỉ mong được lắng mình dưới bóng Thầy một lần nữa.

Ngày con rời Huế,
chỉ mang theo vài quyển sách mỏng, vài dòng thư pháp cũ,
và rất nhiều dư âm –
dư âm của những sớm mai khói sương,
của bước chân ai thong d**g trên lối nhỏ,
chầm chậm in từng bước thiền lên thềm đá cổ…

Nay, nơi một góc rừng vắng,
tịnh thất con đang dựng chưa vững nếp tranh,
nhưng trong lòng vẫn giữ một khoảng lặng –
nơi mỗi sáng có ánh hương khói lan ra,
mỗi sáng có một nỗi tĩnh mịch quen thuộc,
như thể một ngày xưa chưa từng tắt đi.

Người ta thường gọi thơ Thầy là thơ thiền.
Con nghĩ, ấy là tiếng Đạo đang nói trong im lặng.
Không cần trau chuốt, không cần ngợi ca –
chỉ cần ngồi lặng một buổi chiều,
gió qua tay áo,
lá rơi nhẹ trên sân,
là thấy thơ ấy còn đang thở trong cõi này.
Thơ ấy không viết để được nhớ,
mà để người dừng lại lắng sâu,
rồi tự thấy chính mình.

Con không viết để tán dương,
vì có những điều về Thầy,
chỉ ai từng lặng lẽ kính yêu mới hiểu.
Con chỉ là một học trò phương xa,
đã từng theo bước chân Thầy qua những buổi sớm mù sương,
đã từng im lặng đứng sau cửa thiền,
nhìn một đời tu nhẹ như khói.

Nay mỗi khi lặng lòng,
con lại lặng lẽ quay về một phương trời cũ –
nơi có Thầy, có đệ huynh,
có vầng trăng muôn thuở chưa từng lịm tắt,
và có phiến đá bên hiên,
vẫn trầm mặc giữ hơi ấm năm nào từ dấu chân Thầy,
như thể chưa bao giờ rời bước.

Kính bút,
Con Khải Tĩnh

Giữa phương xa,
vẫn lặng thầm gìn giữ nếp xưa Thầy từng in dấu.

Có những đêm, giữa thinh không khuya vắng và ánh trăng lẻ bóng, lòng người lại lặng lẽ trở về chốn cũ, nơi hương trầm cò...
04/05/2025

Có những đêm, giữa thinh không khuya vắng và ánh trăng lẻ bóng, lòng người lại lặng lẽ trở về chốn cũ, nơi hương trầm còn vương trên tay áo, và bóng lều hoa mờ khuất sau sương khói năm nào…

Tình Thầy trò thuở ấy, như đốm lửa đạo âm thầm cháy trong miền tịch chiếu: không rực rỡ, nhưng chưa từng lịm tắt. Bài thơ là một khúc độc thoại cô liêu, vọng lên từ bao mùa tràng kinh gió lật, từ những duyên văn thi đan dệt trong sương mỏng, và chí nguyện xuất trần vẫn bền như nguyệt ảnh tâm linh giữa ba đào tục hải.

Dẫu có ẩn thân nơi thạch thất tịch liêu, hay hạ hóa giữa phồn trần hoa mộng, ngọn lửa ấy vẫn âm thầm cháy đỏ, chẳng vì nắng mưa tục thế mà khuất lối thiêng tâm. Một khúc cảm hoài, trang nghiêm, tịch lặng như một nén gió vô thanh, thắp lại tâm đăng giữa đêm dài phù thế, nơi ánh lửa tu hành chưa từng tàn úa…

Có những đêm buồn nhớ ánh trăng
Nơi lều hoa nhỏ khói sương giăng
Tình Thầy kinh pháp, ân vô lượng
Nghĩa đệ văn thi, lửa hữu hằng
Lý đạo thượng cầu, duyên ẩn sĩ
Nhân tâm hạ hóa, chí sơn tăng
Xuất trần đâu ngại đời dâu bể
Đại nguyện sá gì trắc trở ngăn.

Khải Tĩnh

BÍCH HẢI HUYỀN SƠNMiền vô sự giữa lòng trần thế    Trong muôn trùng non nước, giữa cõi nhân gian mịt mờ gió bụi, tôi – m...
25/04/2025

BÍCH HẢI HUYỀN SƠN
Miền vô sự giữa lòng trần thế

Trong muôn trùng non nước, giữa cõi nhân gian mịt mờ gió bụi, tôi – một lữ khách phong trần – vô tình lạc bước về một nơi tưởng chừng ngoài thế cuộc: Bích Hải Huyền Sơn – một tịnh thất nhỏ, khép mình lặng lẽ giữa rừng dừa bát ngát miền Mỹ Thanh.
Nơi đây không bảng tên phô trương, chẳng lối đi trải thảm, cũng không tường son ngói đỏ. Chỉ có gió biển thì thầm trong kẽ lá dừa, tiếng chim non vọng giữa mùi cỏ dại, và ánh nắng vỡ tan trên phiến đá rêu phong. Tất cả như kể lại một câu chuyện cổ tích quên tên – mà người kể chính là cảnh sắc và thời gian.
Bước qua chiếc cổng gỗ mộc mạc dựng nghiêng giữa triền cát trắng, tôi thấy một mái lều nhỏ ẩn mình dưới tán thông – đơn sơ mà ấm cúng – như một bến dừng cho tâm hồn phiêu lãng.
Không chuông vàng, không tiếng mõ vọng. Chỉ ánh nắng xuyên qua vườn thiền, lặng lẽ đậu lên giò lan, chum nước, khóm trúc…Tất cả nơi đây đều dị giản, mà hữu tình.
Ở một góc sân nhỏ, một trụ đá cũ đề câu thi kệ:
“Hoa tàn cội cũ đã quên tên.”
Không phải để nhớ. Cũng không để quên. Chỉ là hơi thở của vô thường khắc nhẹ vào đá – nơi không cần ai đọc, mà đất trời vẫn lặng lẽ cảm thông. Tên gọi, chỉ là chiếc áo mỏng của vạn pháp. Khi áo ấy rơi, hình hài trở về cội: lặng mà còn, tan mà đầy.
Hoa tàn – không vì hết sắc, mà vì đã trọn duyên cùng gió. Cội già – chẳng vì khô héo, mà vì đang nuôi dưỡng tầng sâu tịch lặng.Tên quên – không do vô tâm, mà vì đã vượt khỏi cái biết,trở thành cái không: không ngôn, không ngữ, không vướng bận.
Chữ ấy – như bóng trăng: không soi vào vách, mà rọi thẳng vào lòng người. Chẳng cần hiểu mới thấm. Chẳng cần nói mới hay.Chỉ hiện hữu, lặng như ánh trăng rơi trên mặt nước, không lay động, mà lặng cả lòng sông.

Xa xa trên đồi, chánh điện bằng gỗ thông hướng về phía biển.Vào những ngày nắng đẹp, có thể đứng đó mà nhìn ra cả một góc trời nước xanh lơ, mây trắng trôi chậm, núi non trùng điệp như bước ra từ cổ họa. Cảnh vật tịch lặng, không cố mời gọi, mà lòng tôi tự khép nép trước một vẻ đẹp không thể nắm giữ.

Có lúc, tôi gặp vị sư đang ẩn tu nơi đây. Người không nói nhiều, nhưng có ánh nhìn ấm như ánh lửa mỏng sau làn khói chiều.
Trên phiến đá bên thềm, ai đó – có lẽ là Người – từng viết:
“Đạo có tình.”
Một chữ tình không phải để ràng buộc, mà để mở lối. Giữa đời sống vốn đầy chia cách, chữ ấy vang như tiếng chuông nhỏ:
Đạo không phải là lánh đời, mà là yêu đời sâu sắc đến mức không còn mong cầu chiếm hữu. Là thương mà không đắm. Là hiểu mà không bám.

Chiếc cầu gỗ nhỏ bắc qua hồ sen biếc, như một nhịp nối giữa hai bờ mộng thực. Lối đá ong lấm tấm rêu, chum sành cổ kính, gió nhẹ đưa tiếng nước chảy qua hòn giả sơn…Tất cả quyện lại một giai điệu trầm tĩnh, thầm thì như nhịp tim của núi, và rõ nét như hơi thở của miền vô sự.
Giữa không gian ấy, tôi – một lữ khách không danh, không nghiệp – bỗng thấy mình như một chiếc lá rụng đúng mùa. Không tiếc… không vui… chỉ là một sự trở về đúng lúc.

Bích Hải Huyền Sơn không thuộc về một nơi chốn nào, mà thuộc về một cõi rất riêng, nơi chỉ lòng tĩnh mới khẽ khàng nhận thấy. Ở đây, thơ không cần gieo vần, vì cỏ đá đã biết ngân nga. Khói nhang không để tôn nghiêm, mà để thấm mềm một nỗi nhớ không tên trong mỗi người.
Lặng nhìn một cụm mây trôi qua mái lá…Có khi ấy, đạo đã thong d**g hiển lộ như chưa từng khuất mặt.

Và tôi, một lãng khách phong trần, chẳng mang gì ngoài một chút lòng hoài niệm. Chỉ tình cờ dừng chân, để nói với mình đôi điều chưa từng thốt.Tôi bước đi, nhẹ như chưa từng đến…
Vậy mà trong lòng, vẫn còn vương một vệt nắng mỏng ngủ yên trên bậc thềm rêu cũ Bích Hải Huyền Sơn.

Lãng Khách Phong Trần
Mặc Vân Tử

Vầng trăng cố thổ biệt mù saCuộc lữ bụi vương gót hải hàGió tạc niềm khơi đời lãng tửMây len nỗi nhớ kiếp phong baChén t...
20/02/2025

Vầng trăng cố thổ biệt mù sa
Cuộc lữ bụi vương gót hải hà
Gió tạc niềm khơi đời lãng tử
Mây len nỗi nhớ kiếp phong ba
Chén trà huynh đệ còn ai nhỉ?
Văn bút am tranh vẫn vậy mà?
Viễn xứ hoa rơi bờ mộng trắng
Núi sầu sương đẫm, lạnh tình ta.

Khải Tĩnh

Lá Thư Tiền KiếpNgày chờ, tháng đợi năm tương ngộ…Gửi Cố Nhân   Trong vô lượng kiếp ta với người đã từng là tri kỷ, dưới...
18/02/2025

Lá Thư Tiền Kiếp

Ngày chờ, tháng đợi năm tương ngộ…
Gửi Cố Nhân

Trong vô lượng kiếp ta với người đã từng là tri kỷ, dưới ánh trăng trong vườn đào cách hoàng thành hoa lệ ba dặm, ngồi bên nhau ta không ngần ngại bộc bạch hết tâm tư sâu kín nhất từ đáy con tim
mình.

Trong vộ lương kiếp ta với người đã từng là tri âm, trong cơn gió thu giữa rừng trúc, ngồi bên nhau ta ngẫu hứng tấu khúc Từ Bi Âm, lúc trầm hùng như ngọa tùng cao sơn, lúc nhẹ nhàng như tuyết liên lưu thủy, cầm âm tuyệt sắc u nhã cô liêu tận cùng khiến người phải rơi lệ.

Trong vô lượng kiếp ta với người đã từng là tri ẩm, trong vườn sen mùa hạ, hứng từng giọt sương khuya đọng lại trên lá, pha một bình trà cổ nguyệt hoa tình, ngồi bên nhau vịnh cảnh đối thơ thưởng trà, chẳng màng đến nhân ngã thị phi thế trần.

Trong vô lượng kiếp ta với người đã từng là tri đạo, có lần hữu duyên nghe được lời kinh xưa làm châu thân rúng động, suốt bao ngày tháng ròng rã, ta với người trở trăn tầm lý đạo, đâu là nguyên nhân dẫn đến khổ, đâu là con đường diệt khổ. Ngờ đâu ngữ ngôn sương trắng dặc dày, tri kiến chập trùng tưởng vọng lênh đênh, kiếp người hạn định, vô thường hiện hữu rồi ta và người thất lạc nhau trong vòng sinh tử.

Trong vô lượng kiếp chắc hiếm khi ta cùng người tương ngộ. Có lúc vì đắm chìm trong ngũ dục bất thiện, ta đọa lạc trong vòng ác đạo; có lúc nhờ thiện nghiệp tích lũy, trổ quả phúc lạc nhân thiên, rồi chấp thủ cuồng mê lạc lầm nẻo cũ, cứ như thế mà mãi trôi lăn trong vòng sinh tử.

Trong vô lượng kiếp cứ luân hồi luẩn quẩn, ta ngán ngẫm sinh tử, đời này góc núi am tranh, ẩn mình trong rừng phong cách hoàng thành ba dặm, nếu hữu duyên mong ngày tương ngộ, ta với người cạn chén trà tri tình, ngồi ôn lại lời kinh xưa mà vô lượng kiếp còn bỏ ngỏ.

Tình vạn hữu gửi mười phương mây trắng...
Bích Hải Huyền Sơn
Khải Tĩnh

Address

Gò Công

Telephone

+84963844462

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Bích Hải Huyền Sơn posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share