
31/08/2025
PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP 1945
Tuyên ngôn Độc lập 1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh viết là một văn kiện lập quốc ngắn gọn nhưng chứa đựng nghệ thuật diễn ngôn sắc bén. Hãy cùng Page Kinh tế chính trị quốc tế phân tích diễn ngôn đối với Bản Tuyên ngôn độc lập này nhé:
NGÔN NGỮ VÀ LẬP LUẬN
Bản Tuyên ngôn Độc lập 1945 là sự kết hợp hoàn hảo của logos, ethos và pathos để trở nên thuyết phục cả về logic, cảm xúc, và uy tín. Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu bằng việc trích dẫn hai văn kiện kinh điển của cách mạng Mỹ (1776) và Pháp (1791) đã đặt Việt Nam ngang hàng với các dân tộc văn minh. Sau khi dẫn chiếu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở rộng ý nghĩa từ quyền con người sang quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” – đó là “những lẽ phải không ai chối cãi được”. Lập luận này đặt chủ quyền dân tộc vào cùng bối cảnh lý tưởng nhân quyền toàn cầu.
Tuyên ngôn Độc lập 1945 thể hiện hào khí dân tộc và công lý của Việt Nam. Tuyên ngôn 1945 đã liệt kê hàng loạt tội ác của thực dân Pháp – từ “cướp đất nước”, “áp bức đồng bào”, lập “ba chế độ ở Trung, Nam, Bắc” ngăn cản dân tộc đoàn kết, đến việc thẳng tay “chém giết những người yêu nước” . Cách viết ngắn gọn, súc tích “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” đã chỉ ra bối cảnh chính trị trong nước và quốc tế bảo đảm tính chính danh của chế độ chính trị mới.
Về Ethos, Tuyên ngôn Độc lập 1945 nâng cao uy tín của Việt Nam bằng cách đặt Việt Nam ngang hàng với các quốc gia độc lập khác trên thế giới. Lập luận “suy rộng ra” từ quyền cá nhân sang quyền dân tộc của mọi dân tộc chính là một tuyên bố mạnh mẽ: Tính chính danh của Cách mạng Việt Nam, và sự hợp pháp của nền độc lập ở Việt Nam.
Phần Pathos có thể được thấy tiêu biểu trong tuyên bố độc lập đanh thép “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập”, và quyết tâm hy sinh “tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải” để bảo vệ chủ quyền.
SÁNH VỚI TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP MỸ VÀ PHÁP
Về cấu trúc, Tuyên ngôn Độc lập 1945 gồm ba phần chính (cơ sở pháp lý, thực tiễn, lời tuyên bố), tương ứng với mô-tip kiểu mẫu của các tuyên ngôn độc lập phương Tây. Tuy nhiên, Tuyên ngôn Độc lập 1945 cũng có khác biệt căn bản: Tuyên ngôn Mỹ và Pháp ra đời trong bối cảnh cuộc cách mạng dân chủ tại chính quốc (Mỹ ly khai Đế quốc Anh, Pháp lật đổ nền quân chủ), nên tập trung vào nhân quyền của công dân. Trong khi đó, Tuyên ngôn 1945 của Hồ Chí Minh sinh ra trong bối cảnh kháng chiến giải phóng, lại nhắm vào các thế lực thực dân ngoại bang (Nhật, Pháp). Do vậy, phần giữa của Tuyên ngôn Độc lập 1945 chuyển sang lên án “thực tế” về tội ác ngoại bang ở Việt Nam (hơn 80 năm xâm lược, bóc lột, đàn áp).
Về nội dung, điểm tương đồng quan trọng là cả ba văn kiện đều kết luận rằng nhân dân (hoặc dân tộc) có “quyền tự do và độc lập” khi bị áp bức. Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ khẳng định quyền đó ở cấp cá nhân (và cả cấp bang), còn Chủ tịch Hồ Chí Minh mở rộng nó cho tất cả các dân tộc: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
TRÒ CHÍNH TRỊ TRONG BỐI CẢNH QUỐC TẾ 1945
Bản Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945 ra đời ngay sau Thế chiến thứ hai, khi Nhật đầu hàng và Việt Minh hoàn toàn làm chủ tình hình. Trên trường quốc tế, Bản Tuyên ngôn Độc lập 1945 khẳng định nền độc lập của Việt Nam dựa trên các nguyên tắc dân chủ toàn cầu để tranh thủ sự ủng hộ của phe Đồng Minh, Liên Hợp Quốc, và các lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới. Trong Tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn dẫn chứng Hội nghị Tehran và Hội nghị San Francisco 1945 (Liên Hợp Quốc) khi nhấn mạnh “các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”. Bản Tuyên ngôn 1945 nhắc nhở chính những cường quốc lớn phải thực hiện cam kết của họ để bảo đảm các dân tộc thuộc địa cũng được quyền tự do.
Vai trò chính trị của Tuyên ngôn Độc lập 1945 là cực kỳ quan trọng: Chính thức khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và là tuyên bố chủ quyền đầu tiên của chế độ mới. Trong nước, Tuyên ngôn này đã cổ vũ và thống nhất ý chí cả nước. Trên thế giới, dù các cường quốc nhất thời phớt lờ, các ý tưởng mà Hồ Chí Minh nêu ra (dân tộc bình đẳng, tự do) bắt đầu được biết đến rộng rãi – Tuyên ngôn Độc lập 1945 đã trở thành một tuyên ngôn mẫu mực, đóng góp vào diễn ngôn toàn cầu về quyền của các dân tộc bị áp bức .
Về mặt nhận thức xã hội, Tuyên ngôn Độc lập 1945 góp phần định hình ngôn ngữ về chủ quyền và quyền tự nhiên của dân tộc. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ý niệm “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng” vào Tuyên ngôn độc lập đã mở đầu cho một diễn ngôn mới: rằng Việt Nam có đủ tư cách hưởng mọi giá trị tự do như các nước khác.
Tuyên ngôn Độc lập 1945 không chỉ là tuyên bố chấm dứt chế độ thuộc địa mà còn là văn kiện khai sinh “hệ quy chiếu” cho mọi tranh tụng về chủ quyền, chính nghĩa và khát vọng tự do của dân tộc Việt Nam.
Credit ảnh: Báo Nhân Dân