14/08/2025
KHI BIỂN CẢ CẤT TIẾNG CA
🐳KHÁM PHÁ VỀ NGHỆ THUẬT BẢ TRẠO CÙNG LÁ ĐA LA ĐÀ!!🐳
🌊Xin chào bà con, hôm nay Lá Đa La Đà sẽ trở lại với loạt bài viết giúp mọi người hiểu rõ hơn về “Hát bảo trạo” - nguồn cảm hứng chính để chúng mình là nên game “Khi biển cả cất tiếng ca”!
🌊Trong phần 3 của series, hãy cùng tìm hiểu về các các vị thần biển của người ngư dân Việt Nam nhé!
🌊🌊🌊
Tín ngưỡng thờ Cá Ông là nét văn hóa tâm linh gắn liền với đời sống biển Việt Nam. Người dân vùng duyên hải tin rằng các loài cá voi, cá heo lớn đều có linh tính. Mỗi khi có thuyền gặp nạn, Cá Ông sẽ hiện thân để cứu hộ, đưa những người đuối nước về bờ.
Cách gọi Cá Ông là để gọi chung các Hải thần mang hình dáng kình ngư, không phải là dùng để phân việt giới tính của họ. Có giả thuyết cho rằng cách gọi "Cá Ông" xuất phát từ cách để gọi Nam Hải Kình Ngư Đại Tướng Quân - Một nam thần trong lốt cá voi. Sau thì tên gọi ấy được gắn với cả các kình ngư khác.
Vì đã mang ân của các Cá Ông nên mỗi khi một Cá Ông lụy (qua đời) và dạt vào bờ biển, ngư dân sẽ tổ chức nghi lễ trang trọng để bày tỏ lòng biết ơn và cầu an cho mùa khơi mới bình yên. Sau đó đưa hài cốt của ngài về các lăng tẩm để họ có thể an nghỉ.
Tín ngưỡng thờ Cá Ông, lễ Cầu Ngư và hát Bả trạo có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ trong nền tảng tín ngưỡng của Việt Nam.
🐳🐳🐳🐳🐳
Sau đây là một số trích dẫn để giúp các bạn hiểu sâu hơn về tín ngưỡng thờ Cá Ông! 🌊
"...Ngư dân Việt Nam thường tôn thờ các lực lượng siêu nhiên và các vị thánh, thần bao gồm các vị thiên thần, nhiên thần và nhân thần. Trong đó, tập tục thờ cá Ông (Voi) là phổ biến nhất. Tài liệu dân tộc học cho thấy, tập tục thờ cá voi tồn tại trong ngư dân dọc theo đôi bờ vùng biển Thái Bình Dương, nhưng không ở đâu đậm đặc như ở Việt Nam, đặc biệt là ở khu vực từ Nam Trung Bộ. Ngư dân hầu khắp dọc theo ven biển ở Việt Nam đều coi cá Ông (Voi) là một vị thần phù hộ độ trì cho họ ngoài biển cả. Khi cá voi chết, ngư dân làm tang lễ như làm tang lễ cho các nhân vật quan trọng của cộng đồng chẳng may tử nạn. Các triều đại trước đây, nhất là các đời vua nhà Nguyễn đều có sắc phong cho nhiều vị cá voi trong rất nhiều đền thờ cá voi, công nhận các vị là linh thần đã có công phù hộ độ trì cho ngư dân và có công với nước...nên các đời vua đã “sắc” cho ngư dân muôn đời thờ tự.Để có không gian nhằm thực hành các nghi lễ, ngư dân, nhất là ngư dân từ Trung Bộ trở vào từ lâu đời đã xây dựng nên những “Lăng ông Nam Hải” đồ sộ. Đối với ngư dân Lăng ông có vai trò như là đình làng. Lăng vừa là nơi thờ cá Ông (như là thành hoàng làng -có sắc phong của các vương triều), vừa là nơi để sinh hoạt cộng đồng. Lăng cũng là nơi để lưu giữ nhiều bộ xương cá Ông (Voi)(có những lăng đến nay còn lưu giữ hàng trăm bộ). Lăng cũng là không gian để thực hành tín ngưỡng và tổ chức lễ hội. Trong các kỳ lễ hội ngư dân đã tổ chức các hình thức sinh hoạt dân gian rất đặc sắc ở đây. Ví dụ hát Bả trạo là loại hình văn nghệ dân gian khá phổ biến của ngư dân miền Trung cho tới nay vẫn được trình diễn trong các lễ hội nghinh Ông của ngư dân ven biển miền Trung, làm cho lễ hội ngư nghiệp đậm đặc sắc màu biển cả...Tín ngưỡng và tập tục thực hành tín ngưỡng thờ cá Ông (Voi) của ngư dân Việt Nam đã tạo nên một hệ thống các giá trị vật thể và phi vật thể to lớn và quý báu. Lăng của vạn Thủy Tú (Bình Thuận), lăng thờ cá Ông đã được công nhận là Di sản văn hóa -lịch sử cấp quốc gia và Lễ hội Nghinh ông Khánh Hòa (với các hoạt động chính là rước sắc, nghinh Ông, trình diễn Bả trạo...) cũng đã được xếp hạng là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Dọc theo ven biển miền Trung có hàng trăm lăng cá Ông như lăng của vạn Thủy Tú, và lễ hội nghinh ông cũng rất phổ biến ở khu vực này. Có thể nói tín ngưỡng thờ cá ông ở Việt Nam xứng đáng là di sản văn hóa phi vật thể tầm nhân loại."
- Theo Nguyễn Duy Thiệu, (Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(96) -2015) - "Nhận diện văn hóa biển -đảo Việt Nam"
🐳🐳
"Quốc sử ghi rõ dưới thời nhà Nguyễn, khi Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng Đế, niên hiệu Gia Long, nhà vua có ban sắc phong cho cá Ông là “Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Thượng Đẳng Thần”. Đây cũng là dịp nhà vua bày tỏ lòng biết ơn cá Ông đã giúp vua thoát nạn trong trận thất bại trước quân Tây Sơn, phải bôn tẩu vượt trùng dương nhằm lúc bão tố kinh hoàng, suýt phải gởi thây giữa biển.
Các vạn, các làng làm nghề đánh cá biển các nơi đều làm lễ thỉnh sắc phong này, đưa về đặt tại chánh điện của miếu hoặc lăng thờ ông ở địa phương mình và cắt đặt người chịu trách nhiệm trông nom hương khói.
Cùng với sự tôn trọng của triều đình, ngư dân rất tin vào truyền thuyết: Ngày xưa, có lần Đức Phật Quan Âm tuần du đại hải, Phật ngậm ngùi xót xa số phận nhân sinh bị chết chìm ngoài biển khơi, nên xé chiếc áo cà sa đang mặc ra muôn mảnh, thả trên mặt biển rồi làm pháp biến thành cá Ông, lấy bộ xương voi ban cho để cá Ông có thân hình to lớn, lại ban phép “thâu đường” để lội thật mau, hầu làm tròn trách nhiệm cứu vớt người lâm nạn.
Cũng vì thế mà xương cá Ông còn gọi là “ngọc cốt” cứng chắc, màu vàng, để lâu không hư mục, hôi thối và khi thả xuống nước thì nổi.
Ngư dân vẫn tin tưởng ngọc cốt linh thiêng như Ông còn sống và theo thường lệ ngư dân gặp phải khi Ông “lụy” thì làm gì cũng có một ông khác cùng cỡ kê lưng dìu vào bờ (như Ông thường kê lưng dìu thuyền bị đắm), đồng thời lên vòi nước thật cao (xịt nước qua lỗ đạo trên lưng) để cho ngư dân trông thấy mà rước xác về chôn.
Cá Ông chết luôn luôn nằm ngửa bụng, ngư phủ cho rằng ông muốn giữ bộ đồ lòng khỏi bị cá khác ăn và đặc biệt quanh xác ông luôn luôn có cặp cá đao, một cặp tôm và cặp mực thật lớn - đó là chư vị Tướng quân theo phò ông Nam Hải lúc sống và giữ gìn thi thể khi chết cho đến lúc được ngư phủ thấy xác vớt về chôn mới hết nhiệm vụ, trở lại ngoài khơi.
Tang lễ cá Ông lụy: Ở các làng, vạn chài làm nghề biển, có một quy ước phải thực hiện khi có cá Ông lụy dạt vào bờ. Họ rất tin làng nào, vạn nào thấy ông lụy vào địa phận mình thì cả làng, cả vạn mình sẽ gặp may mắn về nghề nghiệp thả lưới buông câu và yên lành hạnh phúc cũng đến với các gia đình trong làng, trong vạn.
Họ đặt ra lệ:
- Người đầu tiên phát hiện được Ông lụy được xem như là người Ông đã tín nhiệm, được dân làng tôn là “trưởng nam” đóng vai là người trai cả trong gia đình với trách nhiệm và bổn phận như người trưởng nam được quy định trong sách Thọ Mai Gia Lễ (nhưng có chước bớt một số). Việc để tang của trưởng Nam tùy nơi, như ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Định chỉ để tang 3 tháng 10 ngày (100 ngày), còn từ Khánh Hòa trở vào thì để tang Ông tròn 3 năm.
- Khi có tang báo về làng (vạn) thì làng (vạn) triệu tập ngay cuộc họp bầu Hội đồng hộ tế, gồm nhiều bộ phận: bộ phận lo di chuyển Ông lên bờ chuyển về miếu (lăng). Trường hợp Ông quá đồ sộ không thể di chuyển nổi, thì cứ để ngay dưới nước, mé biển và dùng đăng quày lại, cho người canh gác ngày đêm cho đến khi rã thịt (họ tin rằng là khi thịt ông rã, không có mùi hôi thối như các loại cá khác và cũng không bao giờ xác Ông bị ruồi bu), bấy giờ sẽ giao cho các vị già làng tự tay rửa thật sạch sẽ với rượu trắng rồi lau khô xương cho vào các thùng, cẩn thận đặt vào trong lăng, miếu.
- Trường hợp có thể di hài cốt về lăng, miếu, thì làm lễ rồi đem chôn sau khi xác ông được liệm bằng vải đỏ. Trưởng nam mặc sắc phục như trưởng nam trong sách “Thọ Mai Gia Lễ” (nhưng có phần chước giảm), chít khăn đỏ, chống gậy trúc đi sau xác Ông, với thời gian phục tang như đã nói trên.
- Đồng thời chức sắc của làng, vạn làm báo cáo trình quan huyện hay phủ sở tại để quan cho lính về khám định, thực hiện chế độ cấp tiền tuất, hương đèn, vải đỏ quấn đủ 7 vòng trong lúc khâm liệm Ông, kể cả những chi phí thiết linh sàng, minh tinh, thành phục, hương đèn và có thể cấp đất xây lăng, cấp ruộng hương hỏa.
- Sau ngày mãn tang, trưởng nam không còn một trách nhiệm nào đối với Ông mà lúc đó trách nhiệm thuộc về làng, vạn với các chức sắc lo việc phụng tự lăng, miếu dưới sự điều hành của Lý trưởng, Vạn trưởng.
- Trong tất cả những lễ di chuyển Ông về nơi nhập quan, thành phục, lễ đưa ông ra huyệt đều có sử dụng đến Hát Bả trạo, Chèo Đưa linh với lời ca nói lên lòng biết ơn của ngư dân đối với ơn cứu tử của ông trong những lúc gió to sóng lớn…
Cũng có tài liệu cho rằng việc thờ cúng cá Ông của dân Việt suốt dọc bờ biển miền Trung đến Nam bộ phần nào đã có sự giao lưu với tục thờ cá Ông của người Chiêm Thành. Điều này chẳng có gì là nghi ngờ, bởi lẽ văn hóa Chiêm Thành từng giao thoa với văn hóa Việt trong nhiều lĩnh vực, do hai dân tộc đã có nhiều thời sống chung, khiến việc giao lưu hai dòng văn hóa rồi tác động vào cuộc sống tâm linh là điều đương nhiên."..
"Tuy có nhiều địa điểm dựng miếu, dựng lăng thờ ông như đã nói trên, nhưng ngày húy kỵ Ông từng năm thì mỗi nơi một khác. Cụ thể:
- Ở Nhật Lệ - Quảng Bình gọi là lễ rước cốt Ông kết hợp với lễ Cầu Ngư, tổ chức vào ngày 14.4 âm lịch
- Ở Cửa Đại - Hội An và vùng lân cận, lễ Tế cá Ông kết hợp với lễ Cầu mưa, cầu an, tổ chức vào trung tuần tháng 3 âm lịch.
- Ở Bình Định, cúng cá Ông thường tổ chức vào giữa tháng 3 hoặc đầu tháng 4 âm lịch.
- Phú Yên, tổ chức vào tháng 10
- Khánh Hòa tổ chức vào trung tuần tháng 4 âm lịch.
Vào những ngày lễ trên, các làng, các vạn tập hợp các đoàn Hát Bả trạo, tập hát hò, múa chèo nhịp nhàng, càng về sau màu sắc trang phục càng rực rỡ làm tăng phần trang nghiêm cho buổi lễ.
Bình thường thì đến ngày thứ 7 gọi là làm tuần thứ nhất, đến 21 ngày làm tuần thứ 3 và đến 49 ngày làm tuần chung thất, rồi 100 ngày làm lễ Đại Tường. Trước đó 10 ngày làm lễ gọi là Đàm Tế (mãn tang cho trưởng nam), bấy giờ mới đọc văn tế.
Rồi chờ đến 3 năm, nếu xác ông trước đó được chôn dưới đất thì cải táng, xương được lau rửa bằng rượu sạch sẽ, xếp vào thùng đặt ở miếu ở lăng. (Miếu thờ ông ở biển Cửa Đại - Hội An trước 1945 rất rộng, chất rất nhiều bộ xương cá ông lán ra bên ngoài cao vọi, phải che cót, lợp tranh để giữ cốt!) Tất nhiên hầu hết các buổi lễ có liên hệ đến cá Ông vừa trình bày đều có sử dụng Hát Bả trạo, Chèo Đưa linh.
Tu Thực tế, nhiều nơi thờ cá Ông nhưng cũng thờ thêm - theo tưởng tượng của ngư dân - những vị:
• Ngũ vị Long Vương (tức gồm Bạch, Hắc, Thanh, Huỳnh, Xích Long) tức rồng làm vua dưới biển.
• Hà Bá hay Lệnh Bà Nhất và Đồng Đình Thủy tộc là tướng tá của Long Vương.
• Bà Chúa Xứ, một vị thần linh cai quản một vùng.
• Bà Chúa Đảo cai quản một hòn đảo.
• Các Bác là những người khuất mặt, chết ngoài biển hoặc trên đảo (bất đắc kỳ tử)
• Các vị thần linh vô hình và hữu hình này có tên gọi là Hội Đồng.
Đơn cử một trường hợp cụ thể, tại Cù Lao Chàm cách Cửa Đại Hội An khoảng 20 cây số về hướng Đông, ngư dân có thờ Long Thần (thần Rồng mà theo trí tưởng tượng của dân gian là vị thần cai quản biển Đông, nên có đặt khúc ca gọi là “Long Thần Bả Trạo Ca”.
Để trình bày “Long Thần Bả Trạo Ca”, đoàn Bả trạo chuẩn bị một Tổng Lái, một Tổng Mũi, một Tổng Thương và 16 trạo công tham gia trình diễn với trang phục đặc biệt, đạo cụ giản dị gần gũi với đời sống biển cả, sóng nước với một chiếc thuyền bằng khung tre lợp vải, không đáy... được nghệ thuật hóa hợp với cảnh trí chèo thuyền đưa linh. Bài “Long Thần Bả Trạo Ca” này được ngư dân địa phương bảo lưu rất cẩn trọng nên dễ dàng phiên âm, dịch nghĩa không mất một từ, một đoạn nào."
- Theo Trương Đình Quang, (NXB Văn Hóa Dân Tộc 2011) “Hát Bả Trạo - Hò Đưa Linh”