360 trẻ

360 trẻ Tin tức trong ngày, cùng chia sẻ ngay

🇻🇳 Thủ tướng: tập trung hoàn thành việc sửa chữa 34.352 ngôi nhà bị hư hỏng, xây mới 1.628 nhà bị sập đổ cho người dân b...
06/12/2025

🇻🇳 Thủ tướng: tập trung hoàn thành việc sửa chữa 34.352 ngôi nhà bị hư hỏng, xây mới 1.628 nhà bị sập đổ cho người dân bị thiên tai, đến 31/12/2025 phải xong nhà sửa chữa và đến 31/01/2026 phải xong nhà xây mới.

Để "mọi người đều có nhà, mọi gia đình đều có Tết, mọi cháu thiếu nhi có niềm vui, không để ai bị bỏ lại phía sau"

HAI TỪ VỪA THIÊNG LIÊNG, VỪA GẦN GŨI: “ĐẢNG TA”Hiếm có một Đảng Cộng sản nào được gọi bằng hai từ vừa thiêng liêng, vừa ...
06/12/2025

HAI TỪ VỪA THIÊNG LIÊNG, VỪA GẦN GŨI: “ĐẢNG TA”

Hiếm có một Đảng Cộng sản nào được gọi bằng hai từ vừa thiêng liêng, vừa gần gũi: “Đảng ta” như Đảng cộng sản Việt Nam. Chỉ có một Đảng sinh ra từ nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, phấn đấu không vì lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân, của dân tộc, được nhân dân tin yêu mới có được vinh dự ấy.

Giữa thế kỷ XIX, sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế đã thúc đẩy các nước tư bản phương Tây mở những cuộc chiến tranh giành giật thuộc địa. Các quốc gia phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng đã trở thành nạn nhân trực tiếp của cuộc chiến tranh đó.

Lợi dụng các mối quan hệ đã có từ thời chúa Nguyễn Ánh và sự suy yếu của chế độ phong kiến Việt Nam, Pháp và Tây Ban Nha đã viện cớ Nhà Nguyễn cấm đạo Thiên Chúa và bắt bớ, giết hại nhiều giáo sĩ, giáo dân để tiến hành cuộc chiếm cứ nước Việt. Ngày 31.8.1858, Liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng, mở màn cho cuộc xâm lăng Việt Nam của Pháp và sau khi đánh chiếm thành Hà Nội lần thứ hai (năm 1883), về cơ bản, thực dân Pháp đã chiếm xong Việt Nam và chuẩn bị bắt tay vào cuộc khai thác thuộc địa ở Đông Dương lần thứ nhất (1885-1905).

Như vậy, tính từ khi nổ súng tấn công Đà Nẵng năm 1858, thực dân Pháp phải mất 1/4 thế kỷ mới có thể tạm gọi là “bình định” xong Việt Nam. Xem thế đủ thấy: Mặc dù triều đình Nhà Nguyễn hèn nhát và bất lực, song suốt 1/4 thế kỷ ấy, thực dân Pháp đã vấp phải sức kháng cự vô cùng mãnh liệt của nhân dân ta, một dân tộc nồng nàn yêu nước, quyết không chịu khuất phục ngoại bang, không chịu làm tay sai, nô lệ.

Chính sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn dân tộc diễn ra hết sức gay gắt, hàng loạt phong trào yêu nước theo các khuynh hướng khác nhau liên tiếp nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn chủ yếu đó. Tiêu biểu là phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng; phong trào Đông Du của Phan Bội Châu; phong trào cải cách của Phan Chu Trinh, khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo... Các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tuy diễn ra quyết liệt, song cuối cùng đều bị thất bại, vì thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả năng tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc. Trong bối cảnh đó, tháng 6.1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc ra đi tìm con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Năm 1920 Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin; đây không chỉ là bước ngoặt đối với cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, mà còn là bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã soi rọi cho Nguyễn Ái Quốc:

Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì trước hết phải có “Đảng cách mệnh” để “trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Từ nhận thức đó Nguyễn Ái Quốc ra sức chuẩn bị mọi mặt cho việc thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam, Người từng bước truyền bá có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước, đưa phong trào công nhân chuyển dần từ trình độ tự phát lên tự giác; đưa phong trào yêu nước chuyển dần sang lập trường cộng sản.

Tháng 3.1929, Chi bộ Cộng sản đầu tiên được thành lập ở số nhà 5D, phố Hàm Long, Hà Nội, gồm có: Trần Văn Cung, Trịnh Đình Cửu, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Văn Tuân và Dương Hạc Đính. Ngày 1.5.1929, tại Đại hội toàn quốc của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Hương Cảng (Trung Quốc), đoàn đại biểu Bắc Kỳ đưa ra đề nghị thành lập Đảng Cộng sản. Đề nghị đó không được chấp nhận, trở về nước, ngày 17.6.1929, những đảng viên trong Chi bộ Cộng sản 5D Hàm Long đã tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngày 25.7.1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ. Tháng 9-1929 Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ. Như vậy là, chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam. Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo.

Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: Thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.

Từ ngày 3 đến ngày 7.2.1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Tham gia Hội nghị có các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh (đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng); Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm (đại biểu An Nam Cộng sản Đảng). Đại biểu Đông Dương Cộng sản Liên đoàn không đến kịp. Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Ngày 3.2.1930 trở thành Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm. Sự ra đời của Đảng Cộng sản VN gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta.

Trải qua 95 năm hình thành và phát triển, Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua bao thác ghềnh và khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, không một thế lực nào ngăn cản nổi.

Thật vậy, trong thế kỷ XX, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã lập nên những kỳ tích vẻ vang, mà đỉnh cao là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945; lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; rồi Đảng ta lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 9 năm gian khổ, làm nên chiến thắng Điện Biên phủ năm 1954 “lừng lẫy 5 châu chấn động địa cầu”.

Tiếp theo Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giành thắng lợi hoàn toàn, thu non sông về một mối (ngày 30.4.1975). Những năm tháng sau chiến tranh gian khổ, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tộc vừa xây dựng lại đất nước, vừa phải tiến hành các cuộc chiến tranh với thế lực thù địch ở biên giới phía Tây Nam và phía Bắc tổ quốc; rồi sau đó những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 (thế kỷ XX), với “bão táp phong ba” trên thế giới, đó là sự kiện sụp đổ của hệ thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu; Đảng ta vẫn đứng vững và kiên định với ngọn cờ “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, tiếp tục đường lối đổi mới toàn diện, vững chắc (có vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam) để đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đi tới thành công.

Đặc biệt, hơn 1/3 thế kỷ trở lại đây (1986-2023), dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã lập nên nhiều kỳ tích và những thắng lợi to lớn, toàn diện về mọi lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, anh ninh - quốc phòng và đối ngoại v.v... Nhờ đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo và hiệu quả, mà sức sản xuất, nhiều năng lượng tích cực trong xã hội Việt Nam được giải phóng, hàng hóa sản xuất ra ngày càng nhiều; đời sống vật chất và tinh thần của người dân trong xã hội ngày càng được nâng cao (công bằng mà nói hiện nay đa số người dân trong xã hội ta không chỉ bằng lòng với “ăn no, mặc ấm” như ngày xưa thời bao cấp, mà đang tiến tới “ăn ngon, mặc đẹp, xài sang”).

Trong các Nghị quyết của Đảng những thập kỷ gần đây, Đảng ta đã xác định với phương châm chủ đạo (như ba chân kiềng, ba trụ cột quan trọng để phát triển đất nước), đó là: ”Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần, là động lực để phát triển kinh tế - xã hội”; Chính phủ ta đã triển khai mạnh mẽ nhiều chương trình, hành động mang tầm quốc gia, mang lại những thành tựu to lớn cho công cuộc CNH-HĐH đất nước. Mấy năm gần đây, tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn ở mức cao trên thế giới (từ 6,5 đến trên 8%/năm); thu nhập bình quân đầu người từ 2.500 USD đến trên 4.000 USD/năm. An ninh, chính trị, quốc phòng được giữ vững, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao v.v....

Điều đáng nói là những năm gần đây, một số tổ chức, cá nhân do không giữ được phẩm chất cách mạng của người Đảng viên, tư cách của người cán bộ - công chức - viên chức trong bộ máy của Đảng, Nhà nước, vì thế đã có không ít cán bộ - đảng viên (kể cả một số cán bộ lãnh đạo) tha hóa, biến chất, tham nhũng, lãng phí của công, lợi ích nhóm để trục lợi công quỹ, làm thất thoát lớn tài sản của nhà nước, của nhân dân (có vụ việc lên tới hàng chục triệu USD). Đây là điều thật đau xót, vì có cả quan tham là những là Ủy viên Bộ chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng, bộ trưởng, chủ tịch tỉnh, nhiều vị chức sắc ở Trung ương và địa phương đã tham ô, tham nhũng nhiều tiền của của nhân dân, lấy làm của riêng, họ đã “vinh thân phì gia” trên những đồng tiền thuế của người dân Việt Nam! Rất mừng là mấy năm qua, Đảng ta, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã quyết tâm và đẩy mạnh việc “chống tham nhũng” (như một cuộc chống giặc nội xâm quyết liệt nhất, cam go và toàn diện nhất) trong Đảng và trong các hệ thống chính trị của đất nước. Vì thế, người dân Việt Nam vui mừng, chứng kiến và ủng hộ cao độ “Lò chống tham nhũng của Đảng” đã thiêu trụi nhiều vụ việc tham nhũng lớn, như với các vụ việc: Đinh La Thăng (Dầu khí); Trịnh Xuân Thanh (PVC), Phan Văn Vĩnh (đánh bạc trên mạng), Hà Văn Thắm (Oceanbank); Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn (AVG) và các vụ việc tham ô/tham nhũng, hoặc vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng và Nhà nước trong thời gian qua đã và đang bị xem xét, xử lý, như vụ: Công ty Việt Á, vụ chuyến bay giải cứu, vụ Công ty AIC v.v... Điều đó cho thấy, Đảng ta luôn nghiêm khắc với những sai lầm, vi phạm, khuyết điểm của tổ chức và cá nhân đi ngược lại lợi ích của Đảng, của dân tộc Việt Nam; để Đảng lấy lại được uy tín và niềm tin/lòng tin của nhân dân ta trong bối cảnh, tình hình hiện nay.

Nhìn lại chặng đường đấu tranh oanh liệt của Đảng ta, thấy được những khó khăn, gian khổ, sự hy sinh vô bờ bến cùng những thắng lợi vẻ vang mà nhân dân ta đã giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta càng thấm thía và biết ơn công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tự hào về Đảng ta - Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh. Hiếm có một Đảng Cộng sản nào được gọi bằng hai từ vừa thiêng liêng, vừa gần gũi: “Đảng ta” như Đảng cộng sản Việt Nam. Chỉ có một Đảng sinh ra từ nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, phấn đấu không vì lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân, của dân tộc, được nhân dân tin yêu mới có được vinh dự ấy./.

NGUYỄN HỮU GIỚI

TRUY NÃ LÊ TRUNG KHOA về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nướ...
06/12/2025

TRUY NÃ LÊ TRUNG KHOA về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”

Ngày 05/12/2025, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã ra Quyết định truy nã đối với bị can Lê Trung Khoa về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” quy định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật Hình sự.

Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đang điều tra vụ án “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã ra Quyết định khởi tố bị can số 296/QĐ-ANĐT-P3 ngày 17/11/2025 và Quyết định truy nã số 1642/QĐTN-ANĐT-P3 ngày 05/12/2025 đối với:

Họ và tên: Lê Trung Khoa Giới tính: Nam

Sinh ngày 23 tháng 9 năm 1971 tại Thanh Hóa

Quốc tịch: Việt Nam Dân tộc: Kinh

Hộ chiếu số N1263389, cấp ngày 23/12/2008, nơi cấp: Đại sứ quán Việt Nam tại Cộng hòa Liên bang Đức.

Nơi thường trú trước khi xuất cảnh: Số 1, ngõ 81, đường Láng, phường Đống Đa, thành phố Hà Nội.

Tội danh bị khởi tố: “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” quy định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật Hình sự.

Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an yêu cầu bị can Lê Trung Khoa ra đầu thú để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử và được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật.

Nếu phát hiện bị can Lê Trung Khoa đang ở đâu, bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan Công an, Viện Kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất.

Sau khi bắt hoặc tiếp nhận bị can Lê Trung Khoa phải báo ngay cho Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an, địa chỉ: số 10 phố Trần Kim Xuyến, phường Yên Hòa, thành phố Hà Nội, điện thoại: 069.220.9109/069.220.9138.

BÁC HỒ VỚI CÔNG TÁC NHÂN SỰ CỦA ĐẢNGCông tác nhân sự luôn là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong và phát triể...
06/12/2025

BÁC HỒ VỚI CÔNG TÁC NHÂN SỰ CỦA ĐẢNG

Công tác nhân sự luôn là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong và phát triển của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam - suốt cuộc đời luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ đảng viên. Trong Hồ Chí Minh Toàn tập, tư tưởng của Người về nhân sự được thể hiện xuyên suốt, nhất quán và mang ý nghĩa phương pháp luận sâu sắc cho công tác xây dựng Đảng hiện nay.

1. Quan điểm xuyên suốt của Hồ Chí Minh về vai trò của cán bộ

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ là “cái gốc của mọi công việc”. Người khẳng định rằng mọi đường lối, chủ trương của Đảng nếu muốn đi vào cuộc sống thì phải thông qua đội ngũ cán bộ. Vì vậy, chuẩn bị cán bộ là chuẩn bị cho sự phát triển lâu dài của cách mạng. Trong nhiều bài viết, bài nói được tập hợp trong Hồ Chí Minh Toàn tập, Người nhấn mạnh: muốn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém mà ra. Đây không chỉ là nhận định mà là kết luận rút ra từ thực tiễn Người quan sát và lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Quan điểm đó đặt nền tảng cho yêu cầu Đảng phải chăm lo, chọn lựa, đào tạo, sử dụng và kiểm soát đội ngũ cán bộ một cách khoa học, khách quan và trong sáng.

2. Tiêu chuẩn cán bộ: Đức là gốc, tài là quan trọng

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, việc xác định tiêu chuẩn cán bộ luôn được đề cập một cách toàn diện. Người căn dặn cán bộ phải có phẩm chất chính trị vững vàng, lòng trung thành tuyệt đối với mục tiêu của Đảng; phải cần, kiệm, liêm, chính; chí công vô tư; gương mẫu trong lối sống; đồng thời phải có năng lực thực hành công việc.

Nhiều bài nói của Người vào các năm 1947, 1958, 1961 (in trong Hồ Chí Minh Toàn tập) đều nhấn mạnh:
•Đức là gốc của người cán bộ, bởi nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài mấy cũng dễ bị cám dỗ, dẫn đến sai lầm.
•Tài là điều cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ, bởi cách mạng cần những người “vừa hồng, vừa chuyên”, vừa có đạo đức, vừa có năng lực.

Người coi sự kết hợp giữa đức và tài là nền tảng của đánh giá cán bộ. Đây là tư tưởng có giá trị định hướng lâu dài cho công tác nhân sự của Đảng.

3. Quy trình lựa chọn, bố trí và sử dụng cán bộ

Trong Hồ Chí Minh Toàn tập, Người dành nhiều bài viết và thư gửi các cấp ủy để nói về cách lựa chọn cán bộ. Tư tưởng quan trọng mà Người đề xuất gồm:

(1) Lựa chọn đúng người, đúng việc
Hồ Chí Minh cho rằng một cán bộ phù hợp phải được đặt vào công việc phù hợp. Nếu bố trí sai người, “dùng nhầm cán bộ” thì sẽ ảnh hưởng cả tập thể, thậm chí gây thiệt hại cho nhân dân. Vì thế, khâu xác định nhiệm vụ, đánh giá năng lực và phẩm chất phải được làm nghiêm túc, tránh chủ quan, cảm tính.

(2) Trọng dụng người tài, chống “cất nhắc vì quen biết”
Nhiều bài viết của Người phê phán thói cục bộ, nể nang, đề bạt người thân quen, “ưu ái” theo cảm tính. Người yêu cầu cấp ủy phải “có con mắt sáng suốt”, dựa vào tiêu chuẩn, dựa vào quần chúng để lựa chọn cán bộ.

(3) Khiêm tốn dùng người, biết tin và giao việc
Người dặn: đã giao việc thì phải tin cán bộ, tạo điều kiện để cán bộ phát huy sở trường, đồng thời có cơ chế kiểm tra, giúp đỡ để họ không mắc sai lầm.

4. Công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ

Với Hồ Chí Minh, công tác đào tạo cán bộ là nhiệm vụ chiến lược. Trong nhiều bài phát biểu về “huấn luyện cán bộ” (được ghi lại trong Hồ Chí Minh Toàn tập), Người cho rằng cán bộ dù giỏi đến đâu cũng phải học tập suốt đời, không được tự mãn.

Người yêu cầu:
•Huấn luyện phải thiết thực, phù hợp thực tiễn.
•Học lý luận gắn với hành động.
•Học đi đôi với làm.
•Học để phục vụ nhân dân tốt hơn.

Đặc biệt, Người nhấn mạnh việc rèn luyện cán bộ qua thực tiễn công tác. Cán bộ phải “lăn lộn với phong trào”, “ở trong nhân dân”, để từ đó trưởng thành.

5. Kiểm tra, giám sát cán bộ: một khâu cốt yếu

Hồ Chí Minh coi kiểm tra là một trong những biện pháp quan trọng để bảo vệ uy tín của Đảng và giữ cho đội ngũ cán bộ luôn trong sạch, vững mạnh. Người nói rõ rằng: nếu Đảng không kiểm tra cán bộ, cán bộ dễ sa vào chủ quan, quan liêu, xa dân, dẫn đến những sai phạm khó sửa chữa.

Trong các bài nói chuyện với các cấp ủy địa phương, Người nhấn mạnh: kiểm tra để phát hiện sai sót, hỗ trợ cán bộ sửa chữa; không kiểm tra nhằm “bới móc”, mà để bảo đảm mọi việc “đi đúng hướng”.

6. Xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận

Hồ Chí Minh từ rất sớm đã quan tâm đặc biệt tới việc chuẩn bị thế hệ kế thừa. Nhiều thư và chỉ đạo của Người (được lưu lại trong các tập 10–15 của Hồ Chí Minh Toàn tập) khẳng định: phải đào tạo cán bộ trẻ, tin tưởng giao việc cho họ; lớp trước có trách nhiệm dìu dắt lớp sau; coi đào tạo thế hệ kế cận là nhiệm vụ bắt buộc của mỗi cấp ủy.

Theo Người, một Đảng mạnh là Đảng có sự chuyển giao liên tục, ổn định và chuẩn bị đầy đủ đội ngũ kế cận.

7. Nêu gương: yếu tố quyết định trong công tác cán bộ
Hồ Chí Minh thường nhắc: cán bộ muốn được dân tin, Đảng tin thì phải gương mẫu. Nêu gương là một nguyên tắc lãnh đạo. Người khẳng định: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Nội dung này được ghi lại trong các bài nói và bài viết từ năm 1950–1960.
Người yêu cầu cán bộ không chỉ nói hay, mà phải làm tốt; không chỉ dạy người khác, mà bản thân phải trong sạch, liêm khiết.

8. Ý nghĩa thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác nhân sự
Trong bối cảnh hiện nay, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng đứng trước nhiều yêu cầu mới. Tuy nhiên, những tư tưởng của Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên giá trị:
•Lấy đức làm gốc.
•Kiểm tra, giám sát chặt chẽ.
•Trọng dụng người tài, chống chạy chức chạy quyền.
•Xây dựng đội ngũ kế cận.
•Nêu gương của cán bộ lãnh đạo.

Đó là kim chỉ nam để Đảng giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu./.

TT-ST.

KHẲNG ĐỊNH TÍNH CHÍNH DANH, CHÍNH NGHĨA CỦA QUỐC KỲ VIỆT NAM VÀ BÁC BỎ LUẬN ĐIỆU HẠ THẤP GIÁ TRỊ QUỐC KỲ        Quốc kỳ ...
02/12/2025

KHẲNG ĐỊNH TÍNH CHÍNH DANH, CHÍNH NGHĨA CỦA QUỐC KỲ VIỆT NAM VÀ BÁC BỎ LUẬN ĐIỆU HẠ THẤP GIÁ TRỊ QUỐC KỲ

Quốc kỳ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là biểu tượng thiêng liêng nhất của quốc gia, kết tinh đầy đủ lịch sử đấu tranh, bản lĩnh và khát vọng độc lập - tự do - hạnh phúc của dân tộc Việt Nam. Lá cờ đỏ sao vàng không chỉ xuất hiện trong những thời khắc hào hùng nhất của cách mạng, mà còn gắn chặt với từng bước trưởng thành của đất nước suốt gần một thế kỷ qua. Mọi nỗ lực bôi nhọ, xuyên tạc hoặc hạ thấp giá trị của Quốc kỳ đều là hành động đi ngược lại chân lý lịch sử và xúc phạm tình cảm thiêng liêng của hàng triệu người Việt Nam.

Trước hết, Quốc kỳ Việt Nam có tính chính danh tuyệt đối, được xác lập bởi lịch sử đấu tranh cách mạng của toàn dân tộc và được Hiến pháp quy định rõ ràng. Lá cờ đỏ sao vàng ra đời từ phong trào đấu tranh của nhân dân, trở thành biểu tượng tập hợp lực lượng, là ngọn cờ dẫn dắt toàn dân đứng lên giành độc lập. Đó không phải là biểu tượng của một nhóm người, một chế độ hay một thời kỳ ngắn ngủi, mà là biểu tượng của chính nghĩa, của quyền tự quyết, của khát vọng xây dựng một đất nước độc lập, thống nhất và phát triển.

Các luận điệu cổ xúy “cờ vàng ba sọc” như một “giá trị văn hoá” hay “biểu tượng tự do” thực chất nhằm đối lập với Quốc kỳ Việt Nam, qua đó phủ nhận chính nghĩa của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử. Bằng cách ca ngợi một biểu tượng của chế độ cũ đã sụp đổ, họ cố tình gieo vào dư luận cảm giác rằng Quốc kỳ hiện nay “không bao trùm được tất cả người Việt”, từ đó từng bước hạ thấp uy tín và tính thiêng liêng của biểu tượng quốc gia.

Không chỉ xuyên tạc lịch sử, các luận điệu này còn tác động tinh vi đến tâm lý cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Bằng việc khơi gợi những câu chuyện cảm xúc, tô hồng quá khứ dưới góc nhìn chủ quan, họ đánh tráo bản chất của một biểu tượng chính trị thành “di sản văn hóa”, từ đó tạo ra những đối lập vô hình trong tâm thức, khiến một số người lầm tưởng rằng việc tôn vinh “cờ vàng” là biểu hiện của bản sắc cộng đồng. Đây là sự ngụy biện nguy hiểm, bởi văn hóa dân tộc không thể được xây dựng trên một biểu tượng không gắn bó với tiến trình chính nghĩa của đất nước.

Quan trọng hơn, tấn công vào Quốc kỳ Việt Nam là tấn công trực tiếp vào nền tảng tư tưởng, vào niềm tin và sự thống nhất dân tộc. Khi lòng tôn kính với Quốc kỳ bị làm suy giảm, hệ giá trị chung vốn là cốt lõi của sự đoàn kết cũng bị tổn thương. Do đó, việc kiên quyết bảo vệ tính chính danh và thiêng liêng của Quốc kỳ là bảo vệ bản lĩnh dân tộc, bảo vệ thành quả cách mạng và giữ vững sự toàn vẹn về tư tưởng của mỗi người Việt.

Cần khẳng định rõ: không một biểu tượng nào có thể thay thế Quốc kỳ Việt Nam; không một luận điệu xuyên tạc nào có thể làm phai nhạt giá trị thiêng liêng mà lịch sử và nhân dân đã lựa chọn. Lá cờ đỏ sao vàng không chỉ là biểu tượng pháp lý, mà còn là biểu tượng tinh thần, là niềm tự hào, là lời nhắc nhở về trách nhiệm của mỗi công dân đối với Tổ quốc.

PN(St)

CHỮ “DÂN” VÀ TINH THẦN PHỤNG SỰ NHÂN DÂN CỦA QUỐC HỘI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Trong bài viết Nhân danh “giải cứu” hay ...
02/12/2025

CHỮ “DÂN” VÀ TINH THẦN PHỤNG SỰ NHÂN DÂN CỦA QUỐC HỘI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Trong bài viết Nhân danh “giải cứu” hay “sự móc ngoặc công - tư”? và Lời thề và sự bội ước cần lên án, tác giả đi vào phân tích và chỉ rõ sự tha hóa về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là một số đảng viên có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy của Nhà nước trong thời gian qua là sự bội ước với chính lời tuyên thệ của mình, cũng đồng thời là sự bội ước với lời thề phụng sự nhân dân trước khi đứng vào hàng ngũ của Đảng.

Tuy nhiên, ở đây chúng ta nhận thấy bên cạnh sự tha hóa của một bộ phận công bộc của nhân dân đó chỉ là một bộ phận nhỏ trong số hàng triệu cán bộ, đảng viên đang ngày đêm phụng sự cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, của non sông đất nước. Những công bộc của nhân dân dấn thân vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc thì không ngừng học tập, nâng cao bản lĩnh cách mạng theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng đẹp nhiều ý nghĩa, góp phần tạo ra bầu không khí lan tỏa với phương châm “Vì nhân dân phục vụ”.

Triết lý “Dân” trong tư tưởng phụng sự nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh là kế thừa quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng bằng sự thấu hiểu đặc điểm dân tộc và tinh thần sáng tạo. Từ chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã xây dựng mở rộng, nâng tầm khái niệm Dân trở thành một triết lý đặc sắc trong tư tưởng của mình. Người nói: “Trên bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trên thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Tư tưởng về Dân, Nhân dân đã thể hiện rõ triết lý đề cao vai trò của người dân trong lịch sử cũng là một nội dung quan trọng trong việc phụng sự nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

Khi thực hiện lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ sự gắn bó mật thiết của Đảng với nhân dân và phụng sự nhân dân là một nội dung xuyên suốt: “Đảng mạnh tức là dân mạnh, dân mạnh thì Đảng mạnh; dân, Đảng mạnh thì chúng ta nhất định thắng lợi”. Mối quan hệ gắn bó giữa dân với Đảng cũng như sự phụng sự nhân dân trong tư tưởng của Bác cho thấy sứ mệnh phục vụ nhân dân của người cán bộ, đảng viên với công cuộc thực hiện nhiệm vụ cách mạng của dân tộc.

Với tư tưởng xuyên suốt “Dân làm gốc”, phương châm “Lấy dân làm gốc” tức là phải biết dựa vào dân, vì nhân dân phụng sự đề cao quyền làm chủ của dân mà người cán bộ cách mạng phải hết lòng phụng sự nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Hồ Chủ tịch đã từng dạy: “Nhân dân cần trông thấy lợi ích thiết thực (lợi ích gần và lợi ích xa, lợi ích riêng và lợi ích chung, lợi ích bộ phận và lợi ích toàn cuộc). Đối với nhân dân, không thể lý luận suông, chính trị suông”. Trong đó, Người còn chỉ rõ: “Dân đủ ăn, đủ mặc thì chính sách của Đảng và Chính phủ đưa ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay đến mấy cũng không thực hiện được”. Đời sống của dân chính là thước đo giá trị và xác thực nhất về đạo đức cũng như tài năng và phẩm giá của người cán bộ cách mạng. Với lập luận như vậy, Bác cho rằng: “tất cả đường lối, phương châm, chính sách… của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân”.

Trong triết lý phụng sự nhân dân của Người thì phải gần dân, lắng nghe, thấu hiểu dân để đưa ra chủ trương, chính sách hợp lòng dân và cán bộ, đảng viên luôn tiềm ẩn những nguy cơ xa dân khi Đảng đã trở thành đảng cầm quyền và dẫn tới lối lãnh đạo quan liêu, duy ý chí, không tính đến tình hình thực tiễn. Người chỉ rõ bằng hình ảnh ví von rất cụ thể, gần gũi và sinh động: “Nếu cứ làm theo ý muốn, theo tư tưởng, theo chủ quan của mình, rồi đem cột vào cho quần chúng, thì khác nào “khoét chân cho vừa giầy”. Chân là quần chúng. Giầy là cách tổ chức và làm việc của chúng ta. Ai cũng đóng giầy theo chân. Không ai đóng chân theo giầy”. Do vậy, chính Người kết luận rằng: “dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta” do vậy “nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì đề nghị họ sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức ta”.

Với tinh thần như vậy, Hồ Chủ tịch luôn nhấn mạnh với người cán bộ, đảng viên của Đảng dù ở bất kỳ cấp độ và cương vị nào cũng đều phải thực sự cầu thị, khiêm tốn học hỏi dân chúng. Do vậy: Nếu cán bộ, đảng viên “không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm trò dân mới làm được thầy học dân”, khiêm tốn học hỏi nhân dân, gắn bó mật thiết với dân không có nghĩa là “theo đuôi quần chúng”.

Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực không chỉ về đức tận tụy, hy sinh mà còn về sự khiêm nhường trước quần chúng nhân dân, làm cho quần chúng ngày càng tin yêu vào sự lãnh đạo của Đảng để có thể hoàn thành tốt vai trò vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân. Hồ Chí Minh đã kết luận: “Tôi phải nói thật: Những sự thành công là nhờ đồng bào cố gắng. Những khuyết điểm kể trên là lỗi tại tôi. Từ nay, tôi mong đồng bào ra sức giúp tôi sửa chữa những khuyết điểm đó bằng nhiều cách, trước hết là bằng cách thi hành cho đúng và triệt để những mệnh lệnh của Chính phủ”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, sức mạnh trong dân là vô cùng to lớn, tuy nhiên việc khai thác được các nguồn lực đó thì Đảng phải làm công tác dân vận thật tốt. Ngườiviết:“Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Người căn dặn cán bộ, đảng viên: “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: Dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ. Nhưng trước hết phải chịu khó tìm đủ cách giải thích cho họ hiểu: Những việc đó là vì lợi ích của họ mà họ phải làm”.

Có thể nói Chủ tịch Hồ Chí Minh với triết lý vì dân, trọng dân và phụng sự nhân dân, mọi quyền lợi cũng đều vì nhân dân, hành động đều xoay quanh chữ “dân” và lợi ích của dân. Với triết lý thiêng liêng như vậy thì việc củng cố mối quan hệ giữa Đảng và dân chính là để củng cố địa vị cầm quyền của Đảng để Đảng và các cơ quan dưới sự lãnh đạo của Đảng đều hướng tới mục tiêu “xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân”.

Quốc hội phụng sự nhân dân theo tư tưởng của Bác

Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết của chính quyền nhân dân là tổng tuyển cử tự do và soạn thảo Hiến pháp. Trong giai đoạn này, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, triết lý “vì nhân dân phụng sự” của Người được thể hiện đậm nét trong bản Hiến pháp năm 1946. Tư tưởng dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền tảng, giá trị cốt lõi của Nhà nước ta, chế độ ta. Quốc hội là nơi hội tụ ý chí và niềm tin của cả dân tộc. Ngay từ Quốc hội khóa I, giá trị đó đã được khẳng định và thể hiện mạnh mẽ trong quá trình lựa chọn những đại biểu xứng đáng của nhân dân, cùng nhân dân vượt qua mọi gian khó, thách thức của những ngày đầu xây dựng Nhà nước.

Ngay sau khi giành độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ Cách mạng lâm thời ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị tiến hành cuộc Tổng tuyển cử. Người khẳng định:“Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì có quyền đi bầu cử… Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn dân”.

Ngày 6-1-1946, hưởng ứng Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, tất cả công dân từ 18 tuổi trở lên không phân biệt nam, nữ, giàu, nghèo, tôn giáo, náo nức tham gia cuộc Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đánh dấu sự ra đời của Quốc hội Việt Nam, một thiết chế dân chủ, quan trọng trong Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đây là mốc son đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của nền dân chủ, biểu thị ý chí, niềm tin, sức mạnh của nhân dân trong bối cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, tạo cơ sở quan trọng để xây dựng Nhà nước và chế độ mới. Như vậy có thể thấy, ngay từ Hiến pháp và Quốc hội khóa đầu tiên (năm 1946), tư tưởng và tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân luôn được quán triệt và thực hiện sâu sắc. Tinh thần này ngày càng thực hiện tốt hơn của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện các quyền lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.

Tiếp nối tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau này là Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua gần 80 năm xây dựng và phát triển luôn giữ vững và phát huy tinh thần vì nhân dân phục vụ. Quốc hội khóa XV được cử tri cả nước bầu ra trong bối cảnh tình hình khu vực, thế giới diễn biến phức tạp, khó dự báo. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục có những điều chỉnh cả về mức độ và phương thức.

Đại dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, tác động tiêu cực, kéo dài đến kinh tế khu vực và thế giới, trong đó có nước ta, làm thay đổi cấu trúc kinh tế, phương thức quản trị và đời sống kinh tế, xã hội toàn cầu, buộc nhiều nước phải thay đổi định hướng, chiến lược phát triển theo hướng đề cao tinh thần tự lực, tự cường, chú trọng đầu tư và phát triển thị trường nội địa. Ở trong nước, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang nỗ lực thi đua thực hiện mục tiêu kép và triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; kinh tế, xã hội tiếp tục đạt kết quả tích cực, an sinh phúc lợi xã hội và các cân đối lớn về tài chính, tiền tệ, tín dụng cơ bản được bảo đảm; sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản có mức tăng khá; tốc độ tăng trưởng các ngành công nghiệp đạt kết quả đáng khích lệ; quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; quan hệ đối ngoại tiếp tục được tăng cường... Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế nước ta vẫn thấp hơn mục tiêu đề ra và còn nhiều khó khăn, thách thức do tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 bùng phát lần thứ tư lây lan nhanh ở nhiều tỉnh, thành phố, diễn biến phức tạp, khó kiểm soát và có thể còn kéo dài. Sản xuất kinh doanh, sinh kế, việc làm, đời sống của nhân dân, nhất là ở những vùng có dịch và những ngành, lĩnh vực chịu ảnh hưởng trực tiếp của đại dịch gặp rất nhiều khó khăn.

Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong Hiến pháp, pháp luật; phát huy truyền thống gần 80 năm xây dựng và phát triển, kế thừa những kinh nghiệm, thành tựu của các khóa trước, Quốc hội nhận thức sâu sắc niềm tin, sự kỳ vọng của cử tri, thấy rõ những khó khăn, thuận lợi, thời cơ, đặc biệt trong bối cảnh đất nước đang đứng trước những thách thức chưa có tiền lệ; quán triệt sâu sắc ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tiếp tục phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, gần dân, trọng dân, cầu thị, lắng nghe ý kiến của nhân dân. Phát huy tối đa năng lực, bản lĩnh, trí tuệ, quyết tâm đổi mới, sáng tạo, bám sát thực tiễn nhằm tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, ban hành quyết sách đúng đắn, kịp thời, hợp lòng dân, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Chặng đường gần 80 năm qua, cùng với sự phát triển và hoàn thiện hệ thống chính trị, tổ chức bộ máy nhà nước nói chung, Quốc hội các khóa đã không ngừng lớn mạnh, đổi mới và hoàn thiện về tổ chức, phương thức làm việc, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và năng lực hoạt động của từng đại biểu. Tại phiên khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Những thành tựu đạt được của Quốc hội nước ta trong gần 80 năm qua bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng - nhân tố quyết định để Quốc hội hoàn thành xuất sắc trọng trách mà nhân dân giao phó”. Quốc hội là nơi hội tụ ý chí, niềm tin của dân tộc ta, đã và đang vững vàng tiếp bước những trang sử vẻ vang, không ngừng lớn mạnh, phát triển, để lại những dấu ấn quan trọng, xây dựng vị thế vững chắc trong lòng nhân dân, ngày càng khẳng định, phát huy vị trí, vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Với tinh thần đoàn kết, quyết tâm đổi mới, sáng tạo, tận dụng thời cơ, phát huy thế mạnh, nỗ lực vượt khó, chúng ta tin tưởng Quốc hội khóa XV sẽ tiếp tục hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cách mạng trước Đảng, nhân dân, cử tri cả nước; thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp năm 2013, góp phần quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, thực sự là Quốc hội của nhân dân, vì nhân dân, xứng đáng với niềm tin, kỳ vọng của nhân dân và cử tri cả nước.

Như vậy có thể thấy rằng, thấm đẫm lời chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh với triết lý “Vì nhân dân phụng sự”, Quốc hội nước ta đã không ngừng nỗ lực phấn đấu phục vụ lợi ích của nhân dân, lợi ích của quốc gia dân tộc, của đại biểu Quốc hội qua từng thời kỳ lịch sử dân tộc. Vượt lên khó khăn, thách thức cùng với những tiêu cực trong cuộc sống đang diễn ra hằng ngày trong thời gian qua thì cán bộ là đại biểu của nhân dân vẫn một lòng phụng sự người dân, hướng tới những giá trị về vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao, cũng như để hướng tới những giá trị chân - thiện - mỹ như tinh thần Đại hội XIII của Đảng khẳng định: Đất nước tachưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới./.

Tác giả: Lê Thành - Phương Hiếu - Hồng Thái
TM81/Nguồn: Báo Công Thương

Address

Hanoi

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when 360 trẻ posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share