Góc Nhìn Mới

Góc Nhìn Mới Yêu nước cần một sự tỉnh táo, minh triết và suy nghĩ rộng mở.

"PHỦ XANH" THÔNG TIN TÍCH CỰC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG--------------------------------------Trong kỷ nguyên số, không gian m...
27/08/2025

"PHỦ XANH" THÔNG TIN TÍCH CỰC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG
--------------------------------------
Trong kỷ nguyên số, không gian mạng đã trở thành mặt trận trọng yếu trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Sự phát triển mạnh mẽ của internet và mạng xã hội ở Việt Nam những năm gần đây chính là điều kiện thuận lợi để lan tỏa thông tin chính thống, định hướng dư luận tích cực.

Theo báo cáo của DataReportal về mức độ phổ biến và sử dụng các thiết bị, dịch vụ kết nối, Việt Nam có 79,8 triệu người sử dụng internet và 76,2 triệu tài khoản mạng xã hội vào tháng 1-2025.

Đây là thuận lợi lớn, nhưng chính mặt trận này, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng để tuyên truyền chống phá đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, tung tin xuyên tạc công kích nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thực tế cho thấy, nội dung chống phá không mới, nhưng phương thức, thủ đoạn của các thế lực thù địch trên không gian mạng ngày càng tinh vi, phức tạp. Nếu không kịp thời kiểm soát và định hướng, không gian mạng rất có thể sẽ bị tin xấu độc “chiếm lĩnh”, đe dọa trực tiếp đến trận địa tư tưởng. Do đó, việc chủ động “phủ xanh” thông tin tích cực trên không gian mạng đang trở thành yêu cầu tất yếu và cấp bách. Đây được xem là giải pháp chiến lược nhằm tạo “lá chắn” tư tưởng vững chắc, góp phần đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, định hướng dư luận theo hướng lành mạnh, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và chế độ.

Sự bùng nổ của công nghệ số đã đưa không gian mạng trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống người dân. Internet và mạng xã hội hiện là kênh chủ đạo để công chúng tiếp nhận, trao đổi thông tin. Việt Nam có lượng người dùng mạng xã hội thuộc hàng cao trên thế giới; trong số hơn 76 triệu tài khoản mạng xã hội ở Việt Nam, riêng Facebook, TikTok, Zalo và YouTube, mỗi mạng xã hội đều có hàng chục triệu người dùng. Rõ ràng, không gian mạng vừa là cơ hội, vừa đặt ra thách thức lớn nếu nội dung sai lệch chi phối nhận thức xã hội.
"Phủ xanh" thông tin tích cực trên không gian mạng
"Phủ xanh" thông tin tích cực trên không gian mạng
Tổng quan xu hướng sử dụng Internet và mạng xã hội của người dùng Việt Nam 2025. Ảnh: cleverads.vn

Mặt trái của bùng nổ thông tin là các nội dung độc hại, xuyên tạc lan truyền với tốc độ chóng mặt, tác động đến dư luận xã hội và nhận thức của đối tượng tiếp nhận. Nghiên cứu chỉ ra, tin giả lan truyền nhanh hơn nhiều lần so với tin đúng. Nội dung thông tin xấu độc thường giật gân, câu khách, nên dễ kích thích người dùng chia sẻ trước khi kiểm chứng. Hậu quả nguy hiểm của luồng tin xấu độc này là suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước; thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và tạo điều kiện để kẻ xấu thao túng dư luận, gây mất ổn định xã hội.

Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới nhấn mạnh vai trò của không gian mạng, coi đây là mặt trận trọng yếu cần giữ vững, với phương châm kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy xây dựng nội dung tích cực làm chính, "lấy cái đẹp dẹp cái xấu". Tinh thần ấy là "kim chỉ nam" cho loạt giải pháp “phủ xanh” thông tin tích cực trên không gian mạng hiện nay.

Trên tinh thần “lấy xây để chống, lấy cái đẹp dẹp cái xấu” của Nghị quyết số 35, nhiều giải pháp “phủ xanh” thông tin tích cực trên không gian mạng đang được triển khai đồng bộ. Để những thông tin tích cực trở thành dòng chảy chủ lưu trên không gian mạng và mạng xã hội, qua đó đẩy lùi thông tin xấu độc cần tập trung làm tốt một số giải pháp trọng tâm sau:

Một là, chủ động sản xuất và lan tỏa nội dung tích cực, chính thống. Các cơ quan báo chí, truyền thông cần đóng vai trò nòng cốt trong việc tạo dòng thông tin tích cực trên không gian mạng. Báo chí cách mạng phải đổi mới mạnh mẽ phương thức truyền thông trên nền tảng số, ứng dụng công nghệ hiện đại (AI, Big Data…) để phân tích xu hướng, thị hiếu và sản xuất nội dung phù hợp với từng nhóm công chúng. Bên cạnh những bài viết chính luận chuyên sâu, cần đa dạng hóa hình thức thể hiện, từ podcast, video ngắn đến infographic, livestream để thông tin chính thống trở nên sinh động, hấp dẫn hơn với công chúng trẻ.

Đồng thời, cần tăng tần suất và độ phủ của thông tin tích cực. Muốn “phủ xanh” dòng thông tin, chúng ta phải tạo ra thật nhiều nội dung tích cực chất lượng và khuyến khích cộng đồng (mỗi cán bộ, đảng viên, người dân) tích cực chia sẻ. Khi thông tin tích cực được lan tỏa rộng rãi sẽ “leo top” và xuất hiện dày đặc, dần lấn át tin xấu độc.

Thực tế tại TP Hồ Chí Minh, TP Hà Nội cho thấy cách làm này đã giúp tập hợp nhiều câu chuyện đẹp, việc làm tốt trở thành “dòng thời sự tích cực chủ lưu” mỗi ngày, định hướng dư luận tích cực và tạo “sức đề kháng” cho cộng đồng cảnh giác hơn trước thông tin tiêu cực.

Cùng với đó, cần phát động các chiến dịch truyền thông sáng tạo để lôi cuốn giới trẻ tham gia lan tỏa thông tin tích cực. Chẳng hạn, Trung ương Đoàn đã triển khai cuộc vận động “Mỗi ngày một tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp” trên mạng xã hội, thu hút đông đảo thanh, thiếu niên hưởng ứng và hình thành thói quen chia sẻ những câu chuyện đẹp, lan tỏa mạnh mẽ các giá trị tích cực.

Hai là, phát huy tốt vai trò chủ công của các lực lượng nòng cốt. Huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng nòng cốt trên mặt trận truyền thông số là yếu tố then chốt. Trước hết, báo chí chính thống phải tiên phong định hướng dư luận, đấu tranh phản bác thông tin sai lệch. Mỗi nhà báo, biên tập viên cũng là một “chiến sĩ” trên mặt trận tư tưởng, cần vạch trần luận điệu xuyên tạc bằng ngòi bút sắc bén. Nhiều cơ quan báo chí đã lập chuyên trang bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên môi trường số, tuyên truyền sâu về Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thành tựu đổi mới, đồng thời có các bài viết phản bác luận điệu sai trái của thế lực thù địch.

Bên cạnh báo chí, những người có tầm ảnh hưởng (KOL) trên mạng xã hội cũng cần chung tay lan tỏa thông tin tích cực. Tiếng nói của họ có thể truyền cảm hứng đến hàng triệu người, đặc biệt là giới trẻ, giúp thông tin tích cực thẩm thấu mềm mại, tự nhiên hơn. Nếu phát huy tốt vai trò các KOL, thông điệp tích cực sẽ lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội.

Đặc biệt, mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu coi mình là “chiến sĩ” trên mặt trận tư tưởng số, tiên phong lan tỏa thông tin tích cực. Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Quy định số 85-QĐ/TW (ngày 7-10-2022) yêu cầu cán bộ, đảng viên sử dụng mạng xã hội đúng mực, chịu trách nhiệm về phát ngôn trên mạng. Thực hiện nghiêm quy định này sẽ giúp mỗi đảng viên trở thành hạt nhân tích cực đấu tranh phản bác thông tin xuyên tạc. Cùng với đó, phát huy vai trò các lực lượng chuyên biệt trên không gian mạng, nhất là lực lượng công nghệ cao phải luôn thường trực để kịp thời phát hiện, phản bác quan điểm thù địch và lan tỏa thông tin tích cực.

Ba là, ứng dụng công nghệ để ngăn chặn tin xấu độc. Cần phát triển hệ thống trí tuệ nhân tạo (AI) để sớm phát hiện tin giả, tin độc hại; đồng thời phối hợp với các nền tảng như Facebook, Google, TikTok... rà quét, loại bỏ nội dung vi phạm. Trước đó, các bộ, ngành chức năng đã yêu cầu các nền tảng này áp dụng công nghệ quét tự động và chặn tính năng kiếm tiền trên nội dung vi phạm; nhờ đó, nhiều nội dung xấu độc đã bị gỡ bỏ. Song song với giải pháp kỹ thuật, cần tổ chức “đội phản ứng nhanh” gồm những chuyên gia am hiểu để kịp thời phản bác tin giả, luận điệu sai trái ngay khi xuất hiện. Thực tế, Ban Chỉ đạo 35 các cấp đã thành lập các tổ chuyên trách trên không gian mạng để phản ứng nhanh, phối hợp xử lý hiệu quả các tình huống. Sự kết hợp giữa sức mạnh công nghệ và sức mạnh con người tạo thành “gọng kìm” nhiều tầng, giúp nhanh chóng vô hiệu hóa thông tin độc hại.

Bốn là, nâng cao ý thức, kỹ năng của người dùng. Mỗi người dùng internet cần trở thành “người gác cổng” thông tin cho chính mình, chỉ tiếp nhận và lan truyền nội dung hữu ích, kiên quyết nói không với tin giả, tin xấu độc. Muốn vậy, cần đẩy mạnh giáo dục và trang bị kỹ năng về thông tin cho cộng đồng, nhất là thế hệ trẻ. Ngay từ trường học, học sinh, sinh viên cần được học cách nhận diện tin giả, kiểm chứng thông tin; hiểu rõ tác hại của việc phát tán tin xấu độc. Bộ Giáo dục và Đào tạo nên đưa an toàn và văn hóa thông tin số vào chương trình học như một kỹ năng sống thiết yếu.

Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 và bùng nổ truyền thông số, “phủ xanh” thông tin tích cực trên không gian mạng đã trở thành "mệnh lệnh" của thời đại để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Thông tin tích cực tựa "dòng nước trong lành" nuôi dưỡng nhận thức và niềm tin của quần chúng; ngược lại, thông tin xấu độc chẳng khác gì "virus" tấn công vào “hệ miễn dịch” tư tưởng xã hội. Cuộc đấu tranh trên mặt trận này thực chất là cuộc chiến giành quyền chủ động thông tin, nếu chúng ta không nhanh chóng lấp đầy không gian truyền thông số bằng sự thật và những điều tốt đẹp, kẻ xấu sẽ gieo rắc dối trá và hận thù.

“Phủ xanh” thông tin tích cực trên không gian mạng là chiến lược bền vững nhằm giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng. Để hiện thực hóa chiến lược này, cần sự chung tay của toàn xã hội. Báo chí chính thống phải đổi mới mạnh mẽ, tiên phong dẫn dắt dòng thông tin. Cơ quan quản lý nhà nước cần hoàn thiện hành lang pháp lý, kỹ thuật để giám sát, xử lý hiệu quả vi phạm trên mạng; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng chuyên trách hoạt động. Các lực lượng nòng cốt phải phối hợp chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở, tạo thành nhiều lớp "lá chắn" bảo vệ tư tưởng. Mỗi người dân hãy luôn tỉnh táo trước thông tin xấu độc và tích cực lan tỏa những giá trị tốt đẹp. Đó chính là hành động thiết thực để góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, giữ vững ổn định xã hội và xây dựng một không gian mạng an toàn, lành mạnh.

Nguồn: THƯỢNG TÁ NGUYỄN THỊ THU

SÁP NHẬP TỈNH - KHÔNG PHẢI MẤT QUÊ HƯƠNG---------------------------Sáp nhập (hợp nhất) một số tỉnh, thành phố trực thuộc...
27/08/2025

SÁP NHẬP TỈNH - KHÔNG PHẢI MẤT QUÊ HƯƠNG
---------------------------
Sáp nhập (hợp nhất) một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là sáp nhập tỉnh) là chủ trương lớn, hệ trọng của Đảng và Nhà nước, hướng tới xây dựng nền hành chính tinh gọn, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả. Chủ trương này nhận được sự đồng tình, hưởng ứng của đông đảo cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân.

Sáp nhập tỉnh - Đòi hỏi tất yếu của lịch sử

Trong dòng chảy phát triển liên tục của đất nước, việc sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp tỉnh theo chủ trương của Đảng và Nhà nước đặt ra yêu cầu nhận thức mới, cần được tiếp cận khách quan, khoa học, toàn diện để kịp thời định hướng dư luận. Vì thế “Sáp nhập tỉnh - có làm mất đi quê hương?” là câu hỏi "chạm" đến những tầng sâu cảm xúc - nơi lưu giữ ký ức, bản sắc, niềm tự hào của bao thế hệ người Việt gắn bó với mảnh đất “chôn nhau cắt rốn”.

Chủ trương sắp xếp lại đơn vị hành chính không phải là vấn đề mới, càng không phải là quyết định bột phát, nhất thời. Từ Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 24-12-2018 đến Kết luận số 48-KL/TW ngày 30-1-2023 của Bộ Chính trị, Đảng ta đã thể hiện tầm nhìn chiến lược và quyết tâm chính trị nhất quán trong việc tổ chức lại các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã theo hướng tinh gọn, hợp lý, hiệu lực và hiệu quả.

Tiếp lộ trình đó, Hội nghị Trung ương 11, khóa XIII (ngày 12-4-2025) đã thống nhất thông qua chủ trương sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, số lượng đơn vị hành chính cấp tỉnh giảm từ 63 xuống còn 34 tỉnh, thành phố (28 tỉnh và 6 thành phố trực thuộc Trung ương); sáp nhập, giảm 60-70% đơn vị hành chính cấp xã. Đây không phải là bước đi hành chính đơn thuần, mà là cuộc cách mạng trong công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia, hướng đến hiện đại hóa bộ máy, nâng cao chất lượng quản trị quốc gia để phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn. Cần nhấn mạnh rằng, sáp nhập tỉnh không phải là sự lựa chọn cảm tính, mang tính hành chính cơ học hay chỉ đơn thuần là biện pháp kỹ thuật, mà nó xuất phát từ yêu cầu khách quan, cấp thiết của thực tiễn phát triển đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, cạnh tranh khu vực, chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ và đòi hỏi của đổi mới mô hình quản trị quốc gia, việc tinh gọn bộ máy hành chính, nâng cao hiệu quả điều hành, phân bổ lại nguồn lực, mở rộng không gian phát triển và thúc đẩy liên kết vùng đã trở thành một đòi hỏi không thể né tránh hay trì hoãn.

Thực tiễn đã minh chứng tính đúng đắn của chủ trương này. Trong giai đoạn 2019-2021, việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã đã giảm 8 đơn vị hành chính cấp huyện và 563 đơn vị cấp xã; tinh giản 361 cán bộ, công chức cấp huyện và 6.657 cán bộ, công chức cấp xã; giảm chi ngân sách nhà nước hơn 2.008 tỷ đồng. Không chỉ vậy, các địa phương sau sáp nhập đã bước đầu cải thiện năng lực quản trị, tăng cường liên kết vùng và phát huy hiệu quả trong phân bổ nguồn lực. Đây là bằng chứng rõ ràng cho thấy chủ trương cải cách bộ máy không chỉ đúng về lý luận, mà còn khả thi và hiệu quả trong thực tiễn.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, tái cấu trúc không gian hành chính là một xu thế tất yếu trong tiến trình hiện đại hóa nhà nước, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tiết kiệm nguồn lực và cải thiện chất lượng phục vụ người dân. Việt Nam không đơn độc trên hành trình cải cách nền hành chính, mà đang bước đi trong dòng chảy chung của thế giới. Nhiều quốc gia phát triển đã và đang triển khai các chương trình sáp nhập đơn vị hành chính nhằm thích ứng với những thách thức của thời đại như: Già hóa dân số, tốc độ đô thị hóa nhanh, áp lực chi phí quản lý công ngày càng gia tăng và yêu cầu hiện đại hóa mô hình quản trị công theo hướng tinh gọn, hiệu quả, minh bạch.

Do đó, cần khẳng định rằng, sáp nhập tỉnh không phải là một “ý tưởng mang tính ngẫu hứng” hay sự can thiệp hành chính mang tính áp đặt, thiếu cơ sở, mà là một chủ trương lớn được hình thành trên nền tảng nghiên cứu lý luận và đúc kết thực tiễn sâu sắc, được chuẩn bị bài bản, khoa học và thấu đáo. Đây là bước đi chiến lược, thể hiện tầm nhìn dài hạn, toàn diện của Đảng và Nhà nước trong tiến trình xây dựng một nền hành chính hiện đại, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, phục vụ nhân dân và đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Sáp nhập tỉnh không chỉ là cải cách về tổ chức bộ máy, mà còn là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa khát vọng phát triển quốc gia phồn vinh, hạnh phúc, vững vàng tiến bước trong thế kỷ XXI.

“Xóa quê hương” - Một ngộ nhận nguy hiểm

Một trong những luồng dư luận gây nhiều băn khoăn là nỗi lo sáp nhập tỉnh sẽ dẫn đến “mất quê hương”, “xóa tên”, “xóa bản sắc” của những vùng đất gắn bó máu thịt với bao thế hệ người dân. Đây là tâm lý có thật, bắt nguồn từ tình cảm sâu sắc, bền chặt của người Việt với nơi chôn nhau cắt rốn - nơi không chỉ là một danh xưng hành chính, mà còn là không gian ký ức, bản sắc văn hóa và niềm tự hào cội nguồn của mỗi con người. Tuy nhiên, chính bởi nó đánh trúng cảm xúc bên trong của con người, nên cũng dễ bị một số thế lực phản động, cơ hội chính trị khai thác, xuyên tạc nhằm mục đích chia rẽ lòng dân, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và phá hoại tiến trình cải cách bộ máy nhà nước.

Những luận điệu như: “Sáp nhập là xóa sổ lịch sử một vùng đất”, “Tỉnh mới là vô cảm, vô hồn”, “Đổi tên tỉnh là chối bỏ tổ tiên”... thực chất là sự đánh tráo khái niệm, lợi dụng tâm lý hoài niệm để phục vụ mưu đồ chính trị phản động: Chia rẽ lòng dân, kích động chống phá, làm chệch hướng công cuộc cải cách bộ máy nhà nước. Cần thẳng thắn nhìn nhận rằng “quê hương” không thể bị xóa bỏ, bởi quê hương, trước hết là khái niệm văn hóa, tinh thần; là nơi lưu giữ ký ức, phong tục, ngôn ngữ, tín ngưỡng, lễ hội, không gian văn hóa của cộng đồng - những giá trị không thể bị triệt tiêu bởi một sự thay đổi về ranh giới địa lý hay tên gọi hành chính. Dù tên tỉnh có đổi thay, bản đồ có điều chỉnh, thì giọng nói, tập quán, chùa chiền, đình miếu, các lễ hội dân gian... vẫn còn đó - sống động trong đời sống tinh thần, được gìn giữ qua các thế hệ.

Lịch sử đã chứng minh rõ điều ấy. Những địa danh như “Phố Hiến”, “Tổng Trạm”, “Trấn Sơn Nam”, “Trấn Bắc Thành”... tuy không còn là đơn vị hành chính hiện hành, nhưng vẫn tồn tại trong văn hóa, ký ức và lòng tự hào của người dân địa phương. Người con Nghệ An dù có đi xa vẫn nhắc về làng Sen, vẫn nghe giọng xứ Nghệ trong từng câu hát ru. Ở Hà Tĩnh, nhiều xã đã sáp nhập nhưng tên làng cổ vẫn được duy trì trong tên thôn, tên tổ dân phố; các lễ hội truyền thống vẫn được tổ chức đều đặn hằng năm. Lào Cai sau khi tái lập tỉnh đã có nhiều thay đổi về địa giới, nhưng tiếng nói dân tộc H’mông, Dao, Giáy vẫn vang vọng trên những triền núi, bản sắc vẫn được bảo tồn, tôn vinh. Quảng Ninh sau khi sắp xếp các xã vẫn giữ hàng trăm di tích văn hóa làng xã, phát triển du lịch di sản gắn với bản sắc địa phương.

Hơn thế, chủ trương sáp nhập tỉnh tuyệt đối không tách rời khỏi yêu cầu bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống và sự gắn bó của người dân với quê hương mình. Trong quá trình xây dựng phương án sắp xếp đơn vị hành chính, các địa phương hoàn toàn có quyền chủ động đề xuất giữ lại tên gọi lịch sử, truyền thống ở cấp xã, phường hoặc lựa chọn những tên gọi mới mang tính kế thừa, hài hòa bản sắc văn hóa của các vùng đất sáp nhập. Thậm chí, quá trình tái thiết không gian hành chính còn mở ra những cơ hội mới để đầu tư cho việc bảo tồn di sản, phát triển các thiết chế văn hóa mới, nâng cấp hạ tầng gắn với giá trị lịch sử - điều mà trước đây các địa phương có quy mô nhỏ, nguồn lực, ngân sách hạn chế từng gặp khó khăn trong triển khai.

Điều đáng lo không nằm ở sự thay đổi tên tỉnh, mà chính là ở việc để cho những luận điệu sai trái lạm dụng tình yêu quê hương, đất nước, biến tình cảm trong sáng thành công cụ phục vụ mưu đồ chính trị phản động. Nếu không kịp thời phản bác, không chủ động truyền thông, không phân tích cặn kẽ, thấu đáo để người dân hiểu đúng bản chất vấn đề, thì chính những ngộ nhận cảm tính tưởng chừng vô hại ấy có thể trở thành mảnh đất màu mỡ cho các thế lực thù địch gieo rắc hoài nghi, chia rẽ lòng dân, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Đó mới thực sự là hiểm họa làm “tổn thương” quê hương, chứ không phải việc điều chỉnh tên gọi, thay đổi địa giới hành chính.

Nâng quê hương lên tầm cao mới

Quê hương đối với nhiều người trong thế hệ trẻ ngày nay không chỉ là nơi sinh ra, mà còn là nơi họ thuộc về - nơi họ học tập, làm việc, yêu thương và cống hiến. Đối với mỗi người Việt Nam, dù thế hệ nào, sống ở bất cứ nơi đâu cũng đều có chung quan điểm và thực hành quan điểm “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”, vì thế, “đất nước là quê hương và quê hương cũng là đất nước”. Và như vậy, quan niệm về quê hương cũng như hình ảnh về quê hương được nâng lên một tầm cao mới phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa cũng như quá trình hội nhập ngày càng sâu, rộng ở nước ta hiện nay.

Từ cả phương diện lý luận đến thực tiễn đều chứng minh một sự thật rằng: Sáp nhập tỉnh không đồng nghĩa với “xóa bỏ quê hương”, mà ngược lại là mở ra một không gian phát triển mới cho quê hương - rộng lớn hơn về quy mô, đa dạng hơn về nguồn lực, hiệu quả hơn trong liên kết vùng và bền vững hơn trong phát triển. Đây là cơ hội để tập trung đầu tư cho hạ tầng kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng sống cho người dân, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa - lịch sử mỗi vùng đất. Đó là cách để quê hương không chỉ hiện diện trong hoài niệm, mà còn hiện hữu một cách sinh động, mở ra cơ hội vươn mình mạnh mẽ trong hiện tại và tương lai.

Quê hương không bị giới hạn bởi đường ranh giới trên bản đồ, mà hiện hữu trong ký ức, văn hóa, tập quán, trong cách mỗi người dân nâng niu, gìn giữ và phát huy các giá trị nguồn cội. Nếu cha ông ta từng không tiếc máu xương để bảo vệ từng tấc đất quê hương, thì hôm nay, thế hệ chúng ta cũng cần đủ dũng khí và trí tuệ để đổi mới phương thức quản trị vùng đất ấy - không chỉ để giữ gìn, mà còn để phát triển mạnh mẽ trong dòng chảy hội nhập và cạnh tranh toàn cầu. Điều cần giữ hôm nay không chỉ là một cái tên hành chính, mà là sức sống, tiềm năng và tương lai của quê hương trong thế kỷ XXI.

Để quê hương phát triển lên ở tầm cao mới, điều cốt lõi không chỉ nằm ở việc hoàn thiện bộ máy hành chính sau sáp nhập, mà còn ở cách chúng ta “làm mới” tư duy phát triển, “làm giàu” bản sắc văn hóa và “làm sâu” mối quan hệ giữa chính quyền với nhân dân. Hơn lúc nào hết, mỗi địa phương sau sáp nhập cần xây dựng một chiến lược phát triển toàn diện và dài hạn, gắn với đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa của từng vùng đất. Việc quy hoạch không gian kinh tế - xã hội, phân bổ lại nguồn lực đầu tư, tổ chức lại sản xuất, phát triển hạ tầng phải được lồng ghép hài hòa với mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử - văn hóa truyền thống. Từng lễ hội, tiếng nói, địa danh, phong tục, nếp sống… không chỉ cần được bảo tồn trên nguyên tắc tôn trọng sự đa dạng, mà còn phải trở thành “nguồn lực mềm” đóng góp cho quá trình phát triển bền vững của địa phương mới.

Tuy nhiên, để một chủ trương lớn mang tính “cách mạng” này có thể đi vào cuộc sống một cách suôn sẻ, thuyết phục và bền vững, truyền thông chính sách cần phải đi trước một bước - chủ động, kịp thời, sâu sắc và nhân văn. Không thể chỉ tuyên truyền dựa vào các văn bản hành chính khô cứng hay mệnh lệnh một chiều, mà phải chạm đến cảm xúc, tình cảm, lý trí và niềm tin của người dân. Cần lắng nghe, thấu hiểu; cần đối thoại - để đồng hành; cần thuyết phục - để tạo sự đồng thuận thực chất. Bởi nếu không giữ được “thế trận lòng dân”, thì dù chính sách có đúng đến đâu cũng có thể gặp lực cản, thậm chí thất bại trong thực tiễn.

Trách nhiệm đó không chỉ thuộc về cấp ủy, chính quyền địa phương, mà là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên, người có ảnh hưởng, các nhà nghiên cứu, văn nghệ sĩ, nhà giáo, già làng, trưởng bản, cán bộ hưu trí… - những người có khả năng phân tích, lan tỏa tâm lý tích cực, phản bác những tư tưởng, quan điểm trái chiều, tâm lý hoài nghi, để từ đó truyền cảm hứng mạnh mẽ, củng cố niềm tin tới cộng đồng. Mỗi bài viết sâu sắc, bài phát biểu đúng mạch tâm lý, mỗi hành động truyền thông đúng lúc đều có thể trở thành chất xúc tác “giải tỏa cảm xúc xã hội”, hóa giải nghi kỵ, khơi thông nhận thức, củng cố niềm tin.

Sáp nhập tỉnh suy cho cùng không phải là chuyện “giữ hay mất một cái tên”, mà là một bài toán lớn về phát triển bền vững trong hình thái quản trị mới của quốc gia. Nếu được thực hiện đúng hướng, bài bản, có lộ trình phù hợp, có sự tham gia của người dân và dựa trên nguyên tắc “lấy con người làm trung tâm”, thì đây sẽ là một “cú hích” chiến lược cho cải cách bộ máy, tiết kiệm nguồn lực, tăng hiệu quả điều hành và mở ra không gian mới cho quê hương phát triển dài hạn. “Quê hương” được nuôi dưỡng bằng ký ức, được gìn giữ bằng văn hóa, được phát huy bằng sự tự hào về cội nguồn - thì dù trong địa giới hành chính nào, vẫn luôn hiện diện trọn vẹn trong trái tim mỗi người; và không một sự thay đổi địa giới nào có thể xóa nhòa điều thiêng liêng ấy.

Những băn khoăn về nhận thức, cũng như sự hoài nghi về việc sáp nhập tỉnh thì “mất quê hương”, hay luận điệu “phải chăng sáp nhập tỉnh làm mất quê hương” đều không đúng, cần loại bỏ. Khi lòng dân đồng thuận, khi bản sắc được giữ gìn bằng tình yêu và trách nhiệm, thì tên gọi có thể thay đổi - nhưng “quê hương” sẽ còn mãi, vững bền trong tâm khảm mỗi người và trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.

Nguồn: Thiếu tá TRẦN THỊ XUYÊN - Đại úy NGUYỄN THỊ THÙY DUNG

22/08/2025

LẦN ĐẦU TIÊN, TRUNG QUỐC CÔNG BỐ BÁO CÁO NHÂN QUYỀN HOA KỲ NĂM 2024
---------------------------
1. Bất bình đẳng kinh tế và xã hội ở Hoa Kỳ ngày càng trầm trọng, người giàu ngày càng giàu và người nghèo ngày càng nghèo. Hơn 40 triệu người Mỹ đang sống trong cảnh nghèo đói, và 700.000 người vô gia cư.

2. 13,5% hộ gia đình ở Hoa Kỳ phải đối mặt với tình trạng mất an ninh lương thực, và 13,8 triệu trẻ em sống trong những gia đình không có đủ thức ăn trên bàn.

3. Ma túy, súng đạn và cảnh sát tiếp tục gây ra cái chếtt. Hơn 100.000 người ở Hoa Kỳ đã chếtt vì dùng thuốc quá liều. Hơn 1.400 trẻ em chết vì súngg đạn, và 1.300 người chếtt dưới tay cảnh sát. Người Mỹ gốc Phi có nguy cơ bị cảnh sát bắn chết cao gấp ba lần.

4. Nạn phân biệt chủng tộc ở Hoa Kỳ vẫn tồn tại "từ lúc sinh ra đến lúc chết". Người Mỹ bản địa có tỷ lệ tử vong cao nhất và tuổi thọ trung bình thấp nhất trong số các nhóm chủng tộc ở Hoa Kỳ, và sự chênh lệch này không phải do yếu tố di truyền.

5. Hoa Kỳ chưa phê chuẩn Công ước về Xóa bỏ Mọi Hình thức Phân biệt Đối xử với Phụ nữ, và là quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc duy nhất từ chối phê chuẩn Công ước về Quyền Trẻ em.

Khoảng 40% phụ nữ cho biết họ đã từng bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Việc bảo vệ quyền sống và sức khỏe của trẻ em còn chưa đầy đủ. Hoa Kỳ chứng kiến 5 trẻ sơ sinh tử vong trên 1.000 ca sinh sống, cao hơn nhiều so với các quốc gia có thu nhập cao khác.

6. Sự bá quyền của Mỹ đang xâm phạm nhân quyền. Hoa Kỳ từ lâu đã theo đuổi sự bá quyền và chủ nghĩa đơn phương. Washington, D.C. đã nhiều lần chà đạp lên luật pháp quốc tế và các chuẩn mực cơ bản của quan hệ toàn cầu, vi phạm nhân quyền ở các quốc gia khác và gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với hòa bình, an ninh và phát triển toàn cầu.

Nguồn: DTVS

KHÔNG ĐỂ LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC LÀM PHAI NHẠT GIÁ TRỊ VĨ ĐẠI CỦA CÁC MẠNG THÁNG TÁM-------------------------------Trong khô...
21/08/2025

KHÔNG ĐỂ LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC LÀM PHAI NHẠT GIÁ TRỊ VĨ ĐẠI CỦA CÁC MẠNG THÁNG TÁM
-------------------------------
Trong không khí cả nước sôi nổi kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2-9, các thế lực thù địch lại có những hoạt động xuyên tạc, bóp méo ý nghĩa lịch sử của sự kiện vĩ đại này. Trước âm mưu thâm độc đó, việc bảo vệ sự thật lịch sử, đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, nhất là mỗi cán bộ, đảng viên.

Luận điệu lạc lõng

Ngày nay, các thế lực thù địch không còn tấn công một cách rời rạc mà đã xây dựng những chiến dịch có hệ thống, nhắm vào từng nhóm đối tượng cụ thể, lợi dụng các nền tảng giải trí, mạng xã hội như TikTok, YouTube để tung ra những nội dung có vẻ khách quan nhưng thực chất là bịa đặt, áp dụng chiêu bài “mưa dầm thấm đất”-lặp đi lặp lại những luận điệu xuyên tạc độc hại, cụ thể là:

Thứ nhất, phủ nhận bản chất cách mạng và thành quả lịch sử. Họ rêu rao rằng: “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sai lầm lịch sử”, “không có gì thay đổi chế độ xã hội ở Việt Nam, chẳng qua chỉ là thay từ chế độ “vua trị” sang chế độ “đảng trị”. Luận điệu này nhằm phủ nhận hoàn toàn tính chất và ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám. Thứ hai, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Họ cho rằng: “Những thắng lợi mà Việt Nam giành được là sự ăn may”; “do khoảng trống quyền lực nên Việt Nam dễ giành được kết quả nhanh chóng”. Những luận điệu này cố tình phủ nhận quá trình chuẩn bị lâu dài và sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng. Thứ ba, đổ lỗi và bôi nhọ Cách mạng Tháng Tám “là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam”, “nếu không có Cách mạng Tháng Tám, nước ta đã giàu mạnh từ lâu”. Đây là luận điệu đặc biệt độc hại, đảo ngược nhân quả lịch sử. Một thâm đồ bôi nhọ.
Không để luận điệu xuyên tạc làm phai nhạt giá trị vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Ảnh tư liệu

Sự lãnh đạo của Đảng - nhân tố quyết định thành công của cách mạng

Trái với luận điệu cho rằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám chỉ là “sự ăn may của lịch sử”, thành công vĩ đại này là kết quả của sự kết hợp biện chứng giữa điều kiện khách quan thuận lợi và nhân tố chủ quan mang tính quyết định. Về điều kiện khách quan, tháng 8-1945 xuất hiện thời cơ “nghìn năm có một”-phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh vào ngày 15-8-1945, quân đội Nhật ở Đông Dương rệu rã và chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim thì hoang mang, tê liệt. Tuy nhiên, như V.I.Lênin từng chỉ rõ: “Không phải bất cứ một tình thế cách mạng nào cũng dẫn đến cách mạng”, nghĩa là thời cơ khách quan dù thuận lợi đến mấy cũng tự nó không thể làm nên lịch sử. Chỉ có nhân tố chủ quan, đó là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, cùng quá trình chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt mới có thể chuyển hóa thời cơ ngắn ngủi ấy thành hiện thực thắng lợi.

Thực tế, Đảng ta đã có 15 năm chuẩn bị chu đáo cho tổng khởi nghĩa. Đó là: Xây dựng đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam; phát triển lực lượng chính trị với hơn 5.000 đảng viên gắn bó mật thiết với quần chúng; thành lập, rèn luyện lực lượng vũ trang cách mạng thông qua các cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945; gây dựng căn cứ địa cách mạng và Mặt trận Việt Minh làm chỗ dựa vững chắc cho khởi nghĩa. Đặc biệt, Đảng ta đã nhận định, đánh giá đúng tình hình và chớp thời cơ rất kịp thời. Ngay trong đêm 13-8-1945, khi hay tin Nhật đầu hàng Đồng minh, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập và Quân lệnh số 1 được ban bố, hạ lệnh tổng khởi nghĩa trên toàn quốc. Tiếp đó, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào ngày 14 và 15-8-1945 thông qua quyết định phát động toàn dân nổi dậy, thành lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam và chuẩn bị mọi mặt cho chính quyền mới-tất cả diễn ra trong thời gian rất ngắn nhưng hết sức chủ động, bài bản. Nhờ sự chỉ đạo nhạy bén, thần tốc đó, quân và dân ta đã kịp thời nổi dậy giành chính quyền trên phạm vi cả nước trước khi quân Đồng minh kéo vào, hoàn toàn không để “thời cơ vàng” trôi qua.

Từ thân phận nô lệ đến quyền làm chủ đất nước

Trước năm 1945, nước ta chỉ là một xứ thuộc địa nghèo nàn, lạc hậu, 95% dân số mù chữ, thậm chí tên nước “Việt Nam” còn chưa có trên bản đồ thế giới. Dưới ách áp bức của phát xít và thực dân, nhân dân ta bị bóc lột, đàn áp thậm tệ; riêng nạn đói năm 1945 do phát xít Nhật gây ra đã cướp đi sinh mạng của hơn 2 triệu đồng bào. Trình độ dân trí rất thấp, với 95% dân số không biết viết, không biết đọc-một con số thể hiện sự tàn phá ghê gớm của chế độ thực dân. Nếu không có Cách mạng Tháng Tám và sự lãnh đạo của Đảng, khó có thể hình dung viễn cảnh dân tộc ta tiếp tục chịu thân phận nô lệ cùng cực kéo dài như thế nào. Chính thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đưa dân tộc ta thoát khỏi đêm trường nô lệ, đưa nhân dân ta từ thân phận người dân mất nước trở thành chủ nhân đất nước.

Ngay sau khi chính quyền cách mạng được thành lập, trước tình thế “thù trong giặc ngoài”, "ngàn cân treo sợi tóc”, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, hàng loạt nhiệm vụ cấp bách vì dân sinh, dân trí đã được tiến hành quyết liệt, phong trào “diệt giặc đói, diệt giặc dốt” được triển khai trên khắp cả nước. Chỉ trong vòng chưa đầy một năm, nạn đói cơ bản được đẩy lùi và hơn 2,5 triệu người đã thoát nạn mù chữ nhờ các lớp bình dân học vụ được mở khắp nơi. Những thành quả đầu tiên ấy đã chứng tỏ tính ưu việt của chế độ mới, nâng cao uy tín của Đảng, củng cố niềm tin, tinh thần đoàn kết của nhân dân vào chính quyền cách mạng non trẻ.

Nền tảng cho thắng lợi và phát triển của dân tộc Việt Nam

Ngay sau khi nhân dân ta vừa giành được độc lập, Chính phủ non trẻ đã hết sức thiện chí, nỗ lực giữ gìn hòa bình. Thế nhưng, chỉ 3 tuần sau ngày độc lập, rạng sáng 23-9-1945, thực dân Pháp nổ súng tái chiếm Nam Bộ, chính thức phát động chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Dã tâm xâm lược của chủ nghĩa thực dân là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến chiến tranh, chứ tuyệt đối không phải như luận điệu mà các thế lực thù địch xuyên tạc. Đảng và Chính phủ ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đó đã nhân nhượng tối đa để tránh một cuộc chiến tranh, nhưng “chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”.

Trải qua 9 năm kháng chiến gian khổ, quân và dân ta đã làm nên Chiến thắng "lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu", buộc thực dân Pháp ký Hiệp định Geneva năm 1954. Hiệp định này đã tạo điều kiện để miền Bắc được độc lập, tự do hoàn toàn, đi lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời chuẩn bị các điều kiện để cùng quân và dân miền Nam tiến hành kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Dân tộc ta lại bước vào cuộc trường chinh 21 năm chống đế quốc Mỹ xâm lược do thực dân Pháp cấu kết “bật đèn xanh” cho Mỹ “nhảy vào” miền Nam Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta kết thúc bằng Đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Rõ ràng, nguyên nhân sâu xa và trực tiếp dẫn đến hai cuộc chiến tranh chính là dã tâm xâm lược tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai, chứ tuyệt đối không phải do Cách mạng Tháng Tám như các thế lực thù địch xuyên tạc. Hơn nữa, chính nền độc lập do Cách mạng Tháng Tám mang lại đã tạo tiền đề để nhân dân ta đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, thu giang sơn về một mối và kiến thiết một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, ngày càng phát triển. Nếu không có Cách mạng Tháng Tám, nước ta không thể có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay; nhân dân ta cũng không thể có được quyền làm chủ vận mệnh của mình. 80 năm qua, từ một xứ thuộc địa đói nghèo, Việt Nam đã vươn lên thành một quốc gia độc lập, tự cường, phát triển mạnh mẽ. Những thực tế đó là minh chứng hùng hồn bác bỏ mọi sự phủ nhận và xuyên tạc ý nghĩa lịch sử, giá trị vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Giá trị lịch sử và thời đại không thể xuyên tạc

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ mở ra một kỷ nguyên mới cho Việt Nam mà còn là thắng lợi của cách mạng giành chính quyền chỉ diễn ra trong thời gian ngắn nhất, tổn thất nhỏ nhất, nhưng mang lại thành công lớn nhất và triệt để nhất trong lịch sử nhân loại. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là biểu tượng cao đẹp, là kết quả của sự phát huy các nguồn lực con người, trí tuệ và cả của cải của chính nhân dân; là hội tụ của các nguồn xung lực mạnh mẽ của toàn dân tộc, trong thời khắc bước ngoặt lịch sử dưới ngọn cờ chói lọi tinh thần yêu nước của Mặt trận Việt Minh do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã phá vỡ một mảng quan trọng của chủ nghĩa đế quốc tại khâu yếu nhất của nó là chế độ thuộc địa-nửa phong kiến; mở ra thời kỳ sụp đổ, tan rã không cách gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc và phong trào đấu tranh cho dân chủ, tiến bộ xã hội trên thế giới.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không phải là “sự ăn may”, “khoảng trống quyền lực”, “sai lầm lịch sử” hay “nguyên nhân gây chiến tranh”... như các thế lực thù địch xuyên tạc, mà là kết quả tất yếu của sự kết hợp biện chứng giữa điều kiện khách quan thuận lợi và nhân tố chủ quan quyết định. Những thành tựu tức thì ngay sau cách mạng được thể hiện qua con số cụ thể và kết quả thực tế chính là minh chứng hùng hồn nhất cho tính đúng đắn của con đường cách mạng và sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Đây chính là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin vững chắc để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta kiên quyết đấu tranh, bảo vệ sự thật lịch sử trước mọi âm mưu xuyên tạc của các thế lực thù địch, đồng thời tiếp tục vững bước trên con đường xây dựng và phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Nguồn: TS ĐỖ NGỌC HANH

Address

Hanoi
118000

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Góc Nhìn Mới posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Business

Send a message to Góc Nhìn Mới:

Share