Ma thuật của ngôn từ

Ma thuật của ngôn từ Diễn giả, nhà văn Uông Triều

Nhà văn và nhà phê bìnhUông TriềuCó lẽ câu nói “gây hấn” nhất về mối quan hệ giữa nhà văn và nhà phê bình là của Nguyễn ...
17/07/2024

Nhà văn và nhà phê bình
Uông Triều

Có lẽ câu nói “gây hấn” nhất về mối quan hệ giữa nhà văn và nhà phê bình là của Nguyễn Tuân: “Khi tôi chết hãy chôn theo tôi một nhà phê bình để còn tiếp tục cãi nhau.” Câu nói có vẻ hài hước của Nguyễn Tuân đã “định nghĩa” tình bạn giữa nhà văn và nhà phê bình trong một thời gian dài.

Mối quan hệ giữa nhà văn và nhà phê bình thường là “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt.” Và dường như sự phàn nàn thường đến từ phía các nhà văn. Tại sao lại có sự mâu thuẫn này? Vì chẳng phải tác phẩm và cuộc đời của các nhà văn là đối tượng của các nhà phê bình đó sao. Những người chuyên nghiên cứu về tác phẩm của mình, cuộc đời mình lại bị ghen ghét bởi chính những người được nghiên cứu! Câu trả lời nằm ở việc đánh giá của nhà phê bình đối với tác phẩm của nhà văn - đối tượng lao động của họ.

Tôi lí giải vấn đề ở những điểm cụ thể hơn. Tôi thường nghe một số nhà văn phàn nàn rằng, các nhà phê bình không hiểu tác phẩm của họ. Họ viết về vấn đề A thì nhà phê bình lại bàn về vấn đề B. Ý tưởng của họ là xuôi chiều thì nhà phê bình đánh giá ngược chiều. Nhà văn dụng công ở những vấn đề lớn thì nhà phê bình lại chú trọng ở những điểm nhỏ, vân vân và vân vân!

Nhưng có đúng là các nhà phê bình không hiểu các nhà văn? Tôi cho rằng điều này cơ bản là sai lầm. Một tác phẩm được viết ra, người đọc (bao gồm cả nhà phê bình) có vô vàn cách hiểu khác nhau. Nhà văn viết theo chủ ý của anh ta nhưng người đọc có thể không nhận thấy hoặc không đánh giá cao điều ấy. Hoặc nhà văn có những ý tưởng riêng nhưng ý tưởng của anh ta không thành công và nhà phê bình cũng như bạn đọc không quan tâm hoặc có cách hiểu khác. Câu hỏi mấu chốt đặt ra là người đọc (bao gồm cả nhà phê bình) có nhất thiết phải hiểu đúng ý tưởng của nhà văn không? Câu trả lời là “không cần”.

Tôi là nhà văn và cũng là một người đọc. Tôi khẳng định rằng, người đọc không nhất thiết phải hiểu chính xác suy nghĩ, ý đồ của nhà văn. Vì như thế sẽ rất khiên cưỡng và ép buộc. Văn bản văn học là một tác phẩm nghệ thuật, nó không phải là khoa học chính xác nên không thể áp đặt một cách hiểu duy nhất. Ví dụ thế này, với một đám mây trắng bay trên trời, người đầu tiên trông thấy thì bảo nó giống con chim đại bàng, người thứ hai bảo giống ngọn núi, người thứ ba cho rằng đó là chiếc máy bay, người thứ tư quả quyết đó là con rùa… Có bao nhiêu người đọc thì có bấy nhiêu cách hiểu về tác phẩm. Những cách hiểu này đồng nhất với tác giả hoặc hoàn toàn khác biệt thì cũng không có gì nghiêm trọng. Điều ấy tạo nên sự hấp dẫn, đa nghĩa của văn chương cũng như cộng hưởng với trí tưởng tượng, kinh nghiệm, cảm xúc, tầm đón đợi của độc giả.

Nhưng nhà văn sẽ tiếp tục phản bác rằng, nhà phê bình là nhà khoa học, đã là khoa học thì anh phải chính xác và chuẩn mực. Đúng thế, nhưng thưa rằng đây là khoa học về sự cảm thụ cái đẹp và nghệ thuật. Nhà phê bình cũng chỉ là một độc giả mà thôi, anh ta hoàn toàn có thể diễn giải tác phẩm theo cách hiểu của mình và người viết không thể phật lòng. Nhà văn Nguyễn Khải từng kể câu chuyện mà tôi cho rằng nó không mang chút tiếu lâm nào hết. Con trai nhà văn đi học và cô giáo giao cho cậu bé phân tích tác phẩm “Mùa lạc” của ba mình trong sách giáo khoa. Cậu bé mang bài về hỏi ba. Nguyễn Khải đã dành một buổi tối để phân tích tác phẩm giúp con trai. Khi cậu bé mang bài đến lớp, cô giáo đọc bài và phê rằng: “Dùng từ sai, không phân tích đúng ý tác giả!”

Tôi nhắc lại rằng câu chuyện này không có gì đáng cười. Cô giáo kia, ở một thời điểm nào đó cũng giống vị thế của một độc giả, một nhà phê bình. Cô giáo đã không sai. Nguyễn Khải là tác giả và ông hiểu tác phẩm theo ý của mình và cô giáo hiểu tác phẩm theo ý cô và cả hai có cái lí của mình. Nhà văn sau khi đã hoàn thành tác phẩm anh ta cũng chỉ còn là một độc giả và sở hữu cách hiểu của riêng mình.

Tôi đã từng rơi vào trường hợp này. Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình đã phát hiện ra những ý hàm ẩn trong tác phẩm của tôi mà trong quá trình viết tôi không hề nghĩ đến nó. Không phải anh ta bịa đặt ra điều đó mà trong quá trình sáng tác, có sự điều khiển của vô thức hoặc bởi sự hữu hạn của mình, chính tác giả đã không nhận ra. Tiểu thuyết “Sương mù tháng Giêng” của tôi từng được một nhà phê bình gọi là “tiểu thuyết ngôn tình” nhưng tôi chẳng sững sờ về điều ấy, đó là một cách hiểu và tôi chấp nhận điều ấy.
Vậy những nhà phê bình-đã-có-thể-không-hiểu nhà văn thì anh ta giúp ích gì? Bất chấp sự không hài lòng của đối tượng bị phê bình, không thể phủ nhận rằng các nhà phê bình đã giúp cho tác phẩm văn học có nhiều người đọc hơn, mở rộng các chiều kích và chiều sâu của tác phẩm, giúp cho nhà văn và tác phẩm của anh ta trở thành bất tử nếu nó thật sự xứng đáng như thế.

Tôi cho rằng nếu không có những công trình nghiên cứu phê bình công phu và giá trị của M. Bakhtin “Sáng tác của François Rabelais và nền văn hóa dân gian thời Trung cổ - Phục hưng” và “Thi pháp tiểu thuyết Dostoevski” thì Dostoivsky và Rabelais đã không sớm bước lên đài bất tử cao vọi như thế. Tất nhiên nếu không có Bakhtin thì hai nhân vật trên vẫn vĩ đại nhưng chính Bakhtin đã làm cho họ rực rỡ, tỏa nhiều hào quang hơn. Và ảnh hưởng của M. Bakhtin là không nhỏ và vì thế, đối tượng nghiên cứu phê bình của ông, Dostoivsky và Rabelais tiếp tục hành trình bất tử của mình.

Còn ở Việt Nam, đã có người lên tiếng đánh giá lại cuốn phê bình lừng danh “Thi nhân Việt Nam” của anh em Hoài Thanh - Hoài Chân. Nhưng một sự thật rõ ràng không thể phủ nhận, những tác phẩm, tác giả được Hoài Thanh chọn đưa vào cuốn sách phê bình đã khiến nó sống lâu hơn. Rất nhiều tác giả được trích dẫn trong đó, nếu không có “Thi nhân Việt Nam” thì người ta đã lãng quên từ lâu hoặc thậm chí không biết những người ấy là ai. Các nhà phê bình đã có công rất lớn trong việc chọn lựa, định hướng, tôn vinh tác phẩm ở một khía cạnh nào đấy.

Tất nhiên ta phải công nhận rằng vẫn có sự phê bình ác ý hoặc xu nịnh của một nhóm người nào đấy. Vì thù hằn cá nhân, nhất là sự khác biệt về quan điểm ý thức hệ, tầm nhìn và những mục đích khác, có những nhà phê bình đã cố tình làm méo mó, hiểu sai tác phẩm nhằm mục đích hạ bệ, chối bỏ và phủ nhận. Chính điều này góp phần dẫn đến mâu thuẫn, hiềm khích giữa nhà văn và nhà phê bình. Và thêm một sự thực là, bất cứ ai cũng thích được khen ngợi, kể cả các nhà văn, khi thấy đứa con tinh thần của mình được tụng ca (vài trường hợp là giả dối) thì họ vẫn thấy hài lòng; còn khi bị chỉ trích, phê phán (vì nó xứng phải như vậy) thì buồn bực, tức giận. Nhiều người viết cũng ảo tưởng về tác phẩm của mình mặc dù giá trị của chúng ở mức rất thấp.

Cho nên có một thực tế, nhiều nhà văn tuyên bố rằng, họ không quan tâm nhà phê bình viết gì, nghĩa là nhà phê bình khen chê thế nào cũng mặc kệ. Tôi cho rằng đây là một thái độ rất tiêu cực vì bất cứ tác phẩm nào cũng cần những người đọc, rất là những “siêu độc giả”, tức là các nhà phê bình trung thực. Nhà văn có thể không quan tâm đến đánh giá của nhà phê bình, chủ yếu là do anh ta cho rằng nhà phê bình hiểu sai và không tôn vinh tác phẩm của anh ta nhưng bất cứ sự phê bình nào, dù có khó nghe đến đâu hay chứa đựng những phê phán tiêu cực, nó có cái lí nhất định. Những đánh giá của nhà phê bình có thể không tác động đến nhà văn, anh ta tiếp tục viết theo ý thích của mình nhưng người sáng tác cũng nên biết rằng, có một bộ phận, hoặc rất đông độc giả đã đánh giá tác phẩm của anh ta theo hướng ấy. Tác phẩm văn học là một sản phẩm tinh thần dành cho công chúng và anh ta phải chấp nhận những đánh giá khác nhau của thị trường. Ở mặt nào đó, các nhà phê bình cũng là những người tiêu dùng, họ có quyền và năng lực đánh giá chất lượng tác phẩm, để thậm chí khuyên nhủ, tác động đến người khác có nên mua và sử dụng hay không. Nếu nghĩ rộng được như vậy thì có lẽ, khi nhận được bất kì ý kiến đánh giá thế nào, người viết sẽ bình thản và thoải mái hơn.

Còn về phần tôi và những thế hệ người viết trẻ cùng thời, tôi có quan hệ khá hữu hảo với những nhà phê bình. Đơn giản là tôi nghĩ thế này, trong thời buổi văn học đang mất giá, ít người đọc, ít người quan tâm thì có những người bỏ công sức và thời gian ra đọc tác phẩm của mình (tất nhiên một phần chính là công việc của anh ta) thì đó chẳng phải là điều đáng quý hay sao. Tôi coi các nhà phê bình là các độc giả khó tính và có nghề. Chẳng phải sẽ thích thú khi có những người không bỏ qua một thứ gì mình viết ra, từ ý tưởng, bút pháp, thậm chí cả đến từ ngữ, dấu chấm, dấu phẩy... Ở góc độ đó tôi thấy lao động của mình được tôn trọng và quan tâm. Ở khía cạnh nghề nghiệp, tôi đôi khi nhờ một vài nhà phê bình đọc bản thảo của mình và nhận xét. Tất nhiên tôi không nhất thiết phải nghe theo anh ta, đúng thì tôi công nhận, chưa đúng thì tôi giữ lại tham khảo.

Nói cho cùng, nhà văn và nhà phê bình nên là những người bạn thẳng thắn và trung thực của nhau hơn là trở thành kẻ thù. Vì điều ấy có lợi cho cả nhà văn và nhà phê bình, thậm chí cả nền văn học.

LỚP HỌC VIẾT VĂN NÂNG CAO - KHOÁ IILớp viết văn nâng cao - dành cho học viên đã qua lớp cơ bản và những bạn viết muốn nâ...
26/04/2024

LỚP HỌC VIẾT VĂN NÂNG CAO - KHOÁ II
Lớp viết văn nâng cao - dành cho học viên đã qua lớp cơ bản và những bạn viết muốn nâng cao tay nghề.

Học viên được trao đổi, rèn luyện kĩ năng chuyên sâu cho các thể loại: tản văn, bút kí, tuỳ bút, truyện ngắn, tiểu luận, thiếu nhi, tiểu thuyết.

Chương trình học viết văn nâng cao khoá II được mở rộng và kéo dài hơn so với khoá I. Thời gian học là 8 buổi, trong đó các vấn đề được mở rộng là: tâm lý độc giả, chiến lược đường dài và viết ứng dụng (cho cuộc sống và bán hàng). Tất cả các kiến thức và kĩ năng được giảng dạy đều được đúc rút từ thực tế việc viết văn, viết ứng dụng trong công việc và đời sống nên tính thực tiễn sát sườn. Học đi cùng với ứng dụng.

Thời gian khai giảng: 12/5/2024; hình thức học: online; học buổi tối từ 19h45 thứ tư và chủ nhật hàng tuần. Tất cả các buổi học sẽ được quay video lại để hỗ trợ những học viên bận rộn hoặc có việc đột xuất.

Giảng viên: Nhà văn Uông Triều

Thông tin tư vấn có thể inbox hỏi trực tiếp.

Lưu ý: đây là lớp nâng cao nên những học viên muốn học lại khoá cơ bản sẽ đăng kí vào các khoá cơ bản sau. Và cũng như quy định, học viên đã học lớp nâng cao khoá I sẽ được học lại miễn phí khoá II nếu có nhu cầu.

Sau khoá học, giảng viên sẽ chọn 2 bạn xuất sắc nhất tặng 2 cây bút đẹp xuất sắc để thêm động lực viết. Hình ảnh quà tặng sẽ bổ sung dưới phần bình luận.

Học phí: hai triệu rưỡi đồng. Khoá học nâng cao mỗi năm chỉ mở một lần duy nhất.

Học viên đăng kí bằng cách bình luận ngay dưới bài viết hoặc nhắn tin inbox cho giảng viên.

Điện thoại nhà văn Uông Triều: 0983677211

VIẾT VỀ HÀ NỘIUông TriềuCó rất nhiều người viết về Hà Nội, thậm chí có người cho rằng Hà Nội  là một đề tài “thời thượng...
06/04/2024

VIẾT VỀ HÀ NỘI
Uông Triều

Có rất nhiều người viết về Hà Nội, thậm chí có người cho rằng Hà Nội là một đề tài “thời thượng” thu hút được nhiều cây bút tham gia. Nhưng nói “thời thượng” là có vẻ không chính xác vì Hà Nội là chủ để được quan tâm từ lâu và có nhiều thành tựu.

Chỉ cần nói đến giai đoạn văn học từ đầu thế kỉ XX đã có nhiều cây bút viết về Hà Nội. Một trong những nhân vật được nhiều người nhắc đến là Thạch Lam với “Hà Nội băm sáu phố phường”. Cuốn sách của Thach Lam gần như cuốn mở đầu viết về Hà Nội với tên gọi định danh. Thạch Lam khảo sát về Hà Nội, biển biệu, phố xá và nhiều nhất là về các món ăn đặc trưng như phở, bún riêu, bánh cuốn, bánh cốm... “Hà Nội băm sáu phố phường” viết về phố xá và ẩm thực Hà Nội khá tinh tế nhưng nếu coi đây là một thiên đặc sắc thì tôi e rằng không phải. Thạch Lam không tỉ mẩn và chau chuốt bằng Vũ Bằng hay Nguyễn Tuân, cũng không dầy chặt và ngồn ngộn như Tô Hoài. Thạch Lam là một thứ chơi vơi và nhẹ nhàng về Hà Nội, như một người con gái đẹp lướt qua phố, nhìn ngắm, ăn một vài món rồi lại đi tiếp đâu đó.

Tô Hoài là nhân vật có trí nhớ rất tốt và rất có ý thức về địa danh Hà Nội. Cuốn viết về Hà Nội tôi rất thích của Tô Hoài là “Chuyện cũ Hà Nội”. Tôi học được rất nhiều điều từ cuốn sách này của Tô Hoài, nó giản dị nhưng cụ thể và chỉ dẫn chính xác. Ví dụ tôi biết một dãy nhà trên phố Hàng Chiếu bây giờ từng là cửa hàng chuyên cầm cố đồ khét tiếng của người Hoa thuở trước. Bao nhiêu người đã từng mất nhà, mất vợ, mất con từ cái cửa hàng khủng khiếp này. Tô Hoài tả tỉ mỉ cái bàn tay người chủ hiệu nó thò ra vơ đồ cầm cố thế nào, những kí ức rất đáng sợ. Ngôi nhà ấy bây giờ vẫn còn, nhiều lần thay đổi chủ, công năng nhưng màu tường vàng ệch thì vẫn được duy trì như thuở ban đầu.

Tô Hoài cũng từng tả kĩ lưỡng những bè rau muống được trồng trên sông Tô Lịch xưa, các phong tập, tục quán, hội hè của người Hà Nội với lối viết tỉ mỉ, kĩ càng, và tôi lần đầu biết được “làm ma khô” qua cuốn sách của Tô Hoài. Tôi nghĩ nếu không có Tô Hoài, kí ức về Hà Nội sẽ bị vơi khuyết đi một phần đáng kể. Tô Hoài may mắn sống ở Hà Nội và Hà Nội cũng may mắn có Tô Hoài.

Một người có những trang viết “phiêu” nhất về Hà Nội là Vũ Bằng. Vũ Bằng phiêu và thơ lắm. Những trang viết của Vũ Bằng về Hà Nội qua hai cuốn “Miếng ngon Hà Nội” và “Thương nhớ mười hai”, trang nào cũng như một bài thơ trữ tình. Vũ Bằng viết rất kĩ về bánh cuốn, bánh đúc, phờ bò, cốm Vòng, chả cá, rươi... Vũ Bằng khiến cho Hà Nội giàu chất mộng mơ và lãng mạn, các món ăn của Vũ Bằng như một bức tranh nhiều màu sắc, mà lại đủ mùi vị, không khí, tâm tưởng của người làm ra và thưởng thức. Vũ Bằng khiến cho người đọc lạc vào một miền cổ tích với các món ăn và không khí Hà Nội, người ta chỉ nghĩ cách ăn sao cho thật ngon, thật đẹp, làm sao để hưởng hết cái không khí thời tiết của Hà Nội và miền bắc nước Việt.

Nguyễn Tuân thì khiến cho người ta nhớ Hà Nội một thời quá vãng, lùi sâu lịch sử hơn cả Thạch Lam và Tô Hoài. Tôi rất thích truyện ngắn “Rượu bệnh” và “Xác ngọc lam” của ông mà tôi cho rằng nó xứng đáng là những kiệt tác của Nguyễn Tuân cùng với “Chùa Đàn” và “Vang bóng một thời”. Trong “Rượu bệnh”, Nguyễn Tuân tả Ô Quan Chưởng nó hoài cổ và mịt mùng lắm, cả một ông già kì quái nghiện rượu đến phát bệnh và những cô gái bán rượu từ vùng Bồ Đề đi sang. Đọc truyện này, người ta chìm lạc vào một bầu không khí của Hà Nội xưa cũ, hoài cổ, buồn, đẹp và sang trọng. Hà Nội bây giờ chỉ còn một cửa ô duy nhất và tôi nghĩ nếu gắn cửa ô này gần gũi hơn nữa với câu chuyện huyền thoại của Nguyễn Tuân, Ô Quan Chưởng càng thêm huyền hoặc, cổ kính.

Với “Xác ngọc lam” thì Nguyễn Tuân dựng nên một huyền thoại khác về những làng nghề làm giấy ven Hồ Tây. Bây giờ người Hà Nội không còn làm giấy thủ công nữa và nhiều người cũng không biết Hà Nội từng có những làng làm giấy rất nổi tiếng. Nguyễn Tuân đã phục dựng việc làm giấy xưa kia với một không khí rất huyền ảo và ma quái. “Xác ngọc lam” có thể chưa tinh vi và ảo diệu bằng “Chùa Đàn” nhưng về độ ma quái, “yêu ngôn” thì nó đứng đầu trong những tác phẩm của Nguyễn Tuân và rất đặc biệt, nó lấy làng nghề làm giấy Hồ Khẩu bên Hồ Tây làm bối cảnh chính.

Ngọc Giao là một nhân vật rất đáng kể liên quan đến những trang viết về Hà Nội. Ngọc Giao đã bù khuyết một khoảng rất quan trọng của Hà Nội thời kì tạm chiếm. Rất ít người viết và không hiểu Hà Nội thời tạm chiếm ấy như thế nào, Ngọc Giao đã sống trong nó, viết về nó rất tinh tế trong một khoảng buồn lãng mạn của lịch sử. Đọc tiểu thuyết “Cầu sương” của Ngọc Giao đã khiến tôi rất tò mò về căn biệt thự ma quái bên nhà thờ Cửa Bắc. Tôi đã đi qua đó nhiều lần và phỏng đoán “nguyên mẫu” của căn biệt thự, Ngọc Giao đã từng sống rất gần đó. Những căn biệt thự hồi đó vẫn còn, những miêu tả của ông về lớp trí thức tiểu tư sản Hà Nội thời ấy rất tinh tế, chừng mực, mang nỗi buồn u uẩn của thời cuộc. Cả những trang bút kí ông viết những nhà văn, nhà báo Hà Nội như Vũ Trọng Phụng, Vũ Đình Long, Vũ Đình Chí, Lê Văn Trương... cũng rất cảm động, gợi về một không khí vừa khổ đau vừa sôi nổi của một thời Hà Nội ở quãng giao đường...

Có một nhân vật ít được nhắc đến nhưng ông có một quyển sách mỏng đặc chất Hà Nội là Doãn Kế Thiện với “Hà Nội cũ”. “Hà Nội cũ” của Doãn Kế Thiện cũng ngang tuổi với “Hà Nội băm sáu phố phường” của Thạch Lam. Nếu như Thạch Lam kể chuyện phố xá, ẩm thực thì Doãn Kế Thiện kể về những kì nhân và những chuyện lạ Hà Nội, những nhân vật mang một nửa hình bóng của sự thật lịch sử, một nửa của huyền thoại. Nhờ Doãn Kế Thiện mà tôi biết rằng, có một quãng bên Hồ Gươm, chỗ quảng trường Đông kinh Nghĩa thục bây giờ xưa kia từng là vườn dừa và bãi xử trảm, bêu đầu rất đáng sợ, hoặc quân Cờ đen khi đóng ở Mã Mây với tên tướng Phùng Bá Cẩu đã tác oai, tác quái với dân Hà Nội thế nào. Doãn Kế Thiện tìm kiếm những huyền thoại cũ của Hà Nội như “Bà Tiết chặt ngón tay”, “Vũng voi giày”, “Hồ xác trẻ”, “Pháp trường bãi Gáo”... với một lối viết pha trộn giữa ghi chép và kể chuyện rất đáng đọc.

Một người có cách tiếp cận Hà Nội gần giống Doãn Kế Thiện, tất nhiên với một chừng mực khác là Nguyễn Bảo Sinh với cuốn “Bát phố” cũng khá thú vị. Nguyễn Bảo Sinh là người đương thời của Hà Nội nhưng cũng sống đủ lâu để hiểu về thành phố này. Nguyễn Bảo Sinh đôi khi hơi dài dòng, miên man nhưng những trang ông viết về kì nhân, kì nghề ở Hà Nội cũng rất lí thú. Ông viết về nghề nuôi chó cảnh, nuôi gà chọi, đấm bốc một thời ở Thủ đô rất hay. Những bài viết hồi dựng về cuộc sống xung quanh bốn cửa ô đặc trưng Ô Quan Chưởng, Ô Cầu Dền, Ô Cầu Giấy, Ô Yên Phụ hồi cố nhiều chuyện bi hài và đặc sắc. Nguyễn Bảo Sinh miêu tả các kì nhân của Hà Nội và các câu chuyện của họ vừa hài hước vừa lạnh lùng, tôi nghĩ đấy cũng là một đóng góp theo phong cách “dân gian” của một người sống lâu năm ở đô thị, thông thuộc lịch sử và nhiều “ngón ăn chơi” của người Hà Nội.

Nguyễn Việt Hà là một nhà văn đương sung sức, so với các tiền nhân, anh nhìn Hà Nội và người Hà Nội theo một phong cách khác hẳn. Đó là những nhí nhố, bặm trợn, trưởng giả của người thành thị. Qua những cuốn “Cơ hội của Chúa”, “Khải huyền muộn”, “Ba ngôi ở người”... Nguyễn Việt Hà có xu hướng nhìn mặt trái của cuộc sống, anh không tô vẽ hay ca ngợi nó như những tiền nhân , anh mỉa mai, chế nhạo tầng lớp thị dân. Anh coi Hà Nội cũng như đang sống trong một giai đoạn đầy những lố lăng chẳng khác thời Vũ Trọng Phụng với “Số đỏ” là mấy. Tất nhiên không phải thời đại nào cũng giống nhau và cách nhìn, cảm nhận của các nhà văn cũng khác nhau. Nguyễn Việt Hà góp thêm một cách nhìn khác về Hà Nội, đặc biệt về lối sống thị dân qua lăng kính riêng của anh.

Những người trẻ hơn cũng hăng hái viết về Hà Nội, Đỗ Phấn viết rất nhiều về Hà Nội với một nhãn quan khá gần gũi với Nguyễn Việt Hà. Nguyễn Ngọc Tiến có một series sách viết về Hà Nội nhưng thiên về khảo cứu hơn là văn chương. Nguyễn Trương Quý và tôi cũng có nhiều tản văn viết về Hà Nội theo cái nhìn của những người trẻ cùng nhiều những người khác nữa.

Viết về Hà Nội không thời thượng hoặc cổ lỗ, nó là một chủ đề lớn và hấp dẫn, sự khác biệt là Hà Nội có những đặc điểm riêng mà không một địa phương nào có được. Hà Nộ sở hữu một nền văn hóa lâu đời, là thủ đô bền vững của ngàn năm lịch sử cùng với rất nhiều biến cố, thăng trầm. Hà Nội cũng là nơi tập trung đông người, một đô thị lớn và có rất nhiều danh nhân, văn nghệ sĩ sinh sống ở nơi đây. Một quần thể đa dạng phức tạp, tập trung nhiều nguồn lực và tinh hoa là nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sĩ sáng tạo về chính mảnh đất mình đang sống hoặc hướng về nó.

ĐẶT TÊN TÁC PHẨMUông TriềuTôi nghĩ khá nhiều người “đau đầu” với tên tác phẩm của mình. Truyện đã viết xong mà không biế...
01/04/2024

ĐẶT TÊN TÁC PHẨM
Uông Triều
Tôi nghĩ khá nhiều người “đau đầu” với tên tác phẩm của mình. Truyện đã viết xong mà không biết đặt tên thế nào cho ổn, cái tên ban đầu nghĩ rằng phù hợp giờ thì giờ thấy quá dở và bao nhiêu thứ phải cân nhắc, lựa chọn.

Viết văn là nghề có từ lâu đời và bao nhiêu tác phẩm đã được tạo ra, khó khăn trong việc đặt tên là nó rất dễ trùng tên với những tác phẩm đã từng tồn tại. Những cái tên đại loại có những cụm từ như: “Lần cuối cùng”, “Đêm cuối”, “Ngày đầu tiên”… đã bị vô số người sử dụng. Nếu lặp lại những cụm từ ấy dễ dẫn đến sự hiểu lầm hoặc lẫn vào trong đám đông hoặc biểu hiện của sự thiếu tìm tòi và sáng tạo.

Không riêng gì tên tác phẩm, ngay cả tên người thiên hạ đã đặt hết cả rồi những cái tên Tuấn, Mai, Hiền, Thảo, Vũ... nhìn đâu cũng thấy. Tìm một cái tên mới không trùng ai và tạo được ấn tượng là điều vô cùng khó khăn, thậm chí trong một số trường hợp là bất khả. Chính tôi đã rơi vào những trường hợp khóc dở, mếu dở. Tìm được một cái tên ưng ý, trước khi tác phẩm mang đi nhà in thì phát hiện có người dùng cái tên ấy rồi, thế là buộc lòng phải tìm một cái tên khác thay thế, khi sách in ra vẫn không thấy thoả mãn với nó.

Nhưng cũng có rất nhiều người giỏi đặt tên, họ tạo những cái tên rất ấn tượng, đọc lên đã thấy hấp dẫn và gần như không trùng ai. Một trong người đặt tên hay là Nguyễn Ngọc Thuần. Hãy đọc thử những cái tên tác phẩm của anh mà xem: “Trên đồi cao chăn bầy thiên sứ”, “Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ”, “Vào ngày đẹp trời người nhổ khoai mì bị rắn độc cắn”… Mỗi cái tên đều rất gợi, khá dài và mang sẵn một sự khiêu khích nào đó. Khi được hỏi về cách đặt tên tác phẩm, Nguyễn Ngọc Thuần đã thú nhận rằng, anh thường nghĩ tên tác phẩm trước, khi nào đặt được cái tên hay, ưng ý anh mới bắt đầu viết. Đây là một cách độc đáo và thú vị vì thông thường người ta sẽ nghĩ ra một vài ý tưởng rồi mới viết, cái tên ban đầu chỉ là một phương án chứ không thể quyết định sự viết. Nếu đặt được một cái tên độc đáo rồi mới viết thì điều ấy quả rất lạ hoặc Nguyễn Ngọc Thuần đã nói đùa!

Cách đặt tên dài là một kiểu khá phổ biến thời gian gần đây, đó là một cách chống lại sự trùng lặp và “gây hấn” với độc giả. Hồ Anh Thái cũng là một trong những người đặt tên khá thú vị. Đây là tên một số tác phẩm của anh: “Cõi người rung chuông tận thế”, “Cả một dây theo nhau đi”, “Mua tranh Van Gogh để đốt”… Những tiêu đề của Hồ Anh Thái thường đi thẳng vào nội dung tác phẩm, ít khi ẩn dụ hay ngầm ẩn.

Nhưng không phải bây giờ các nhà văn mới đặt tên tác phẩm dài và tạo một cú huýnh vào tâm lý của độc giả. Các cây bút tiền chiến xưa cũng từng có cách đặt tên khiến người đọc phải giật mình. Vũ Trọng Phụng có những cái tên rất gây sốc: “Kĩ nghệ lấy Tây”, “Làm đĩ”, “Một con chó hay chim chuột”… Chỉ đọc tên tác phẩm đã biết tác giả chơi một cú “vỗ mặt”. Tôi chắc hẳn những dòng tít không biết nể nang này đã góp phần làm nên sự thành công của Vũ Trọng Phụng.

Nam Cao cũng là một người đặt tên hay, ông có những truyện tên rất gợi như: “Cái mặt không chơi được”, “Trẻ con không được ăn thịt chó”, “Mò sâm banh”… Nhưng không phải tác phẩm nào Nam Cao cũng thành công trong việc đặt tên. Xem lại những lần ông thay đổi tên gọi tác phẩm, ta thấy rằng nhà văn cũng vật vã với nó lắm. Một tác phẩm xuất sắc của Nam Cao, lần đầu ông gọi nó là “Cái lò gạch cũ”, khi in thành sách, nhà xuất bản tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi”, sau này in lại, ông đổi thành “Chí Phèo”. Và tôi đồ rằng từ ngày được định danh “Chí Phèo”, sự lan toả và danh tiếng của tác phẩm được biết đến nhiều hơn so với hai cái tên ban đầu. Và chính Nam Cao cũng từng có những cú bẻ ngược khác rất đáng chú ý, một cuốn tiểu thuyết của ông, ban đầu được đặt tên là “Chết mòn”, sau lại đổi tên là “Sống mòn”. Tất nhiên, chết mòn thì quá dễ, sống mòn mới đáng nể!

Một nhà văn nổi tiếng từ thời tiền chiến như Ngọc Giao có những tác phẩm rất trữ tình và dịu dàng như “Phấn hương”, “Cô gái làng Sơn Hạ”... bỗng “huỵch” một phát đặt tên cho một truyện ngắn cái tên rất khiêu khích: “Đời tư Lã Bố”! Có lẽ chính vì cái tên rất khác người này mà tác phẩm này đã được nhiều nhà xuất bản hồi ấy in vào tuyển tập và tôi chắc hẳn độc giả khi nhắc đến cái tên truyện đều không khỏi tò mò, thế mà Ngọc Giao đã đặt tên kiểu đó từ năm 1938!

Đó là những kiểu tên dài và thách thức, có những nhà văn lại thích đặt những cái tên thật ngắn, thậm chí là một chữ. Những kiểu đặt tên này mang lại một hương vị khác lạ, nó ngầm ẩn và thách thức. Nguyễn Bình Phương có “Ngồi”, Nguyễn Ngọc Tư có “Sông”, Nguyễn Đình Tú có “Nháp”...

Các nhà văn nước ngoài nhiều người cũng có cách đặt tên rất hay. Ta có thể vài cuốn đình đám quen thuộc với độc giả Việt. Đó là “Gone with the wind” của Margaret Mitchell - Cuốn theo chiều gió, “For whom the bell tolls” của Ernnest Hemingway - Chuông nguyện hồn ai, “The call of the wild” của Jack London - Tiếng gọi nơi hoang dã...

Có những kiểu tên được đặt theo những khái niệm. Phong cách này thường được các nhà văn cổ điển ưa thích như các cuốn: “Chiến tranh và hòa bình”, “Tội ác và hình phạt”, “Kiêu hãnh và định kiến”, “Lý trí và tình cảm”... Các nhà văn Việt ít khi đặt tên theo kiểu khái niệm vì cho rằng nó quá Tây và cứng nhắc. Nhưng làm gì có khuôn vàng thước ngọc nào cho việc đặt tên, thế này hoặc thể kia! Cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi phải 7 lần đổi tên vì những lí do khác nhau và tôi cũng muốn nó thuần Việt theo tư duy người Việt nhưng rốt cục tôi đã “nhượng bộ” người biên tập cuốn sách và đặt tên nó là “Tưởng tượng và dấu vết”. Nhiều người bảo cái tên đó trúng, người khác thì nói nó quá cứng! Cũng không thể nào chiều hết mọi người và thậm chí ngay cả những tác phẩm đã rất nổi tiếng, người viết vẫn luyến tiếc về cái tên của nó. Cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh ban đầu có tên là “Nỗi buồn chiến tranh”, sau đó đến nhà xuất bản, biên tập viên đổi là “Thân phận của tình yêu”, lúc tái bản, Bảo Ninh lấy lại tên cũ nhưng sau rốt ông lại thú nhận, giá kể cuốn sách chỉ mang tên “Nỗi buồn” là đủ, thêm từ “chiến tranh” là không cần thiết!

Một kiểu đặt tên ưa thích của người viết là lấy luôn tên nhân vật chính làm tên tác phẩm. Những tác phẩm kiểu này rất nhiều như: “Anna Karenina”, “Bà Bôvary”, “Lão Hạc”, “Hồ Quý Ly”... Kiểu đặt tên này đơn giản và tiện lợi vì nhân vật được tên đặt là nhân vật trung tâm và có ảnh hưởng lớn dễ tạo hình ảnh. Nhưng bây giờ ở các tác phẩm hiện đại, tác giả có khuynh hướng xây dựng nhiều nhân vật chính mà ít có nhân vật trung tâm hoặc nhân vật không đủ nổi bật nên cũng có ít tác phẩm đặt tên kiểu này.

Một câu hỏi đặt ra là tên tác phẩm có nhất thiết phải song hành với nội dung tác phẩm hay không. Tôi cho rằng điều này không nhất thiết. Tên tác phẩm song hành hay không không quan trọng, miễn là nó hay và có những gợi mở. Điều này sẽ phá vỡ được những định kiến và lối mòn đặt tên. Nhiều tác giả không muốn hé lộ cho độc giả bất cứ điều gì qua cách đặt tên, họ cho rằng, tác giả không việc gì phải tiết lộ nội dung tác phẩm cho độc giả biết qua tiêu đề tác phẩm. Cứ để cho độc giả tự khám phá sẽ hấp dẫn và thú vị hơn. Một vài cái tên kinh điển thuộc thể loại này như : “Tên của đóa hồng” của Umberto Eco, “Tu viện thành Parma” của Stendhal...

Việc đặt tên tác phẩm giống như dán một cái nhãn hàng hóa, nó rất quan trọng trong việc thu hút độc giả. Ngày nay, văn học bị cạnh tranh khốc liệt với các loại hình khác và chính các tác giả cũng phải có những tư duy mới để có chỗ đứng và neo vào trí nhớ độc giả. Một cái tên hay và hấp dẫn đóng một vai trò nhất định trong sự thu hút này. Tôi nhớ có lần đạo diễn Lê Hoàng kể, một bộ phim anh đạo diễn có cái tên dự định là “Trường hợp của Hạnh”. Rõ ràng đó là một cái tên quá cứng và khô. Lê Hoàng bảo, đặt tên đó thì “ma” nó mới đi xem phim! Khi đổi tên phim là “Gái nhảy” thì cái tên mới đã tạo được sự hấp dẫn lớn hơn nhiều và bộ phim đã từng là một hiện tượng đáng chú ý.

Tất nhiên, tên tác phẩm chỉ là một phần cấu thành tác phẩm, tên hay mà tác phẩm dở thì không làm gì nổi nhưng đương nhiên một cái tên ấn tượng sẽ có sức lan tỏa mạnh. Cô đọng hoặc khiêu khích, dài dòng hoặc cụt lủn hoặc bất cứ phong cách đặc biệt nào sẽ cộng hưởng với tác phẩm, khiến nó hấp dẫn và được chú ý hơn. Và lúc này tôi lại nghĩ đến việc người ta đặt tên cho đứa con ruột của mình. Quá trình ấy thường rất lâu và tốn công sức nhưng khi lớn lên chưa chắc đứa trẻ đã hài lòng với cái tên bố mẹ nó đã tâm đắc ấy. Tên một tác phẩm cũng vậy, người viết có khi đắn đo cân nhắc lắm nhưng rốt cuộc khi ra công chúng chưa chắc đã được sự đồng tình, thích thú.

Đặt tên khó lắm, vì rốt cuộc khi đặt tên ta nghĩ đến điều gì? Nghĩ đến tác phẩm hay độc giả? Đừng tưởng đây là một câu hỏi dễ trả lời!

SỰ TỪ CHỐI BẢN THẢOUông TriềuTôi nghĩ bất kì người viết nào cũng bị từ chối bản thảo một hoặc nhiều lần. Nhưng đó chưa c...
30/03/2024

SỰ TỪ CHỐI BẢN THẢO
Uông Triều
Tôi nghĩ bất kì người viết nào cũng bị từ chối bản thảo một hoặc nhiều lần. Nhưng đó chưa chắc đã là thua thiệt vì sự từ chối ấy có thể khiến người ta viết tốt hơn, thậm chí nếu không bị từ chối thì người viết khó có thể trưởng thành.

Tôi làm việc ở một tạp chí văn học, hằng ngày, tôi nhận được rất nhiều bản thảo gửi đến. Cơ bản là tôi từ chối chúng, tỉ lệ thành công của các bản thảo được dùng là dưới mười phần trăm, thậm chí là ít hơn nữa. Tại sao lại có sự khắt khe như vậy?

Một tạp chí chuyên ngành, yêu cầu về chất lượng của nó khá cao và diện tích “đất” cũng không nhiều, cho nên sự tuyển lựa nhiều vòng và kĩ tính trong sàng lọc là điều đương nhiên.

Rất nhiều tác giả đã gặp phải sự từ chối này, chính tôi cũng đã nhiều lần thất bại khi gửi bản thảo đến các nơi khác. Sự từ chối là đương nhiên khi các đơn vị xuất bản phải chọn lọc những gì tốt nhất có thể. Bị từ chối không nhất thiết là thất bại, có rất nhiều lí do dẫn đến sự từ chối mà tôi sẽ nói ở phần sau, do đó danh sách các tác phẩm lừng danh bị từ chối cũng không ít.

Ngày nay, hầu như độc giả nào cũng biết đến bộ truyện “Harry Potter” của J. K Rowling nhưng bộ truyện kì thú này đã bị 12 nhà xuất bản từ chối trước khi được in ra. Còn Jack London, tác giả của “Tiếng gọi nơi hoang dã” đã từng nhận được đến 600 lá thư từ chối trước khi quyển sách đầu tay của ông được xuất bản!

Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Margaret Mitchell “Cuốn theo chiều gió” cũng đã từng bị 38 nơi từ chối; “Chúa ruồi” của nhà văn đoạt giải Nobel William Golding cũng từng bị 21 lần từ chối, còn “Nhật kí Anne Frank” thì nhận 15 lần khước từ!

Tôi cũng rất thấm thía với sự từ chối bản thảo của chính mình. Cuốn “Tưởng tượng và dấu vết” của tôi đã bị 8 đơn vị xuất bản từ chối và tôi cũng từng ấy lần phải đổi tên sách. Sự từ chối này có nhiều lí do. Có nhà xuất bản cho rằng nó quá khó hiểu, có nơi đề nghị tôi cắt bớt một vài chương hoặc nơi khác đề nghị đổi tên tác phẩm...

Sự vòng vo tam quốc khiến cho tác giả phát chán, không muốn theo đuổi nữa thì một ngày đẹp trời, một đơn vị xuất bản báo cho tôi cuốn sách sắp được ra đời. Nói thật là khi ấy tôi không còn một niềm vui nào nữa vì sự chờ đợi quá lâu và mệt mỏi, thậm chí đã cân nhắc vào phút chót liệu có nên in nó hay không.

Cảm giác chán chường sẽ có hầu hết ở các tác giả mới khi bị từ chối. Tất nhiên người viết phải biết chấp nhận và vượt qua. Anh là người mới và họ chưa tin anh, cái tên của anh chưa đủ đảm bảo cho một sự hanh thông trong phát hành hoặc gây dựng uy tín trong làng sách.

Đa số người ta sẽ có con mắt ngờ vực những người mới đến, dành cho họ sự miễn cưỡng, thiếu ưu ái hoặc từ chối thẳng thừng, nếu không có lòng kiên nhẫn và ý chí mạnh mẽ, đa số sẽ từ bỏ hoặc tìm con đường khác.

Vấn đề là điều gì nằm sau sự từ chối ấy? Tác phẩm bị từ chối chủ yếu vì chúng quá non, quá yếu. Đa số người viết không nhận ra điều này, chỉ đến khi họ gặp những người có kinh nghiệm hoặc hiểu nghề chỉ ra, họ mới nhận ra. Tự đánh giá tác phẩm của mình ở giai đoạn đầu gần như là điều bất khả với những người bắt đầu, họ choáng ngợp vì thành quả mình vừa làm ra, họ nghĩ rằng nó có thể là một kiệt tác, nhưng thực ra đa số là giấy lộn hoặc không xứng để in ra.

Ngoài sự non kém là lí do chính thì những tác phẩm quá mới, quá lạ cũng gặp những trở ngại đáng kể, đặc biệt khi những người có thẩm quyền “sinh tử” với bản thảo chưa sẵn sàng một tâm thế đón nhận. Cái mới, cái lạ luôn bị nghi ngờ khi lần đầu xuất hiện và có lẽ người viết cần những lí lẽ mạnh mẽ để thuyết phục hoặc may mắn gặp được tri âm, tri kỉ thì bản thảo mới có cơ hội “lọt” qua vòng tuyển trạch.

Sự từ chối luôn mang đến sự buồn chán và thất vọng nhưng thực tế rất ít người có thể rút ra được bài học sau thất bại này. Có những câu hỏi quan trọng được đặt ra. Tại sao bản thảo bị từ chối? Làm sao để lần sau không bị từ chối? Viết thế nào để không thành người bị từ chối vĩ đại?

Sự từ chối có muôn vàn cung bậc, tôi đã nói đến sự non kém hoặc quá mới mẻ của bản thảo. Sự từ chối còn có thể vì không phù hợp, không hợp thời. Một nhà xuất bản chuyên về lịch sử chẳng hạn thì sẽ không ưa những truyện trinh thám. Một đơn vị chuyên xuất bản sách thiếu nhi thì họ rất khó làm sách người lớn. Một tờ báo cần bài ngắn thì tác giả lại gửi bài dài hoặc ngược lại. Hoặc nội dung bản thảo đề cập đến những chủ đề quá nguy hiểm, không hợp thời, ví dụ động chạm đến chính trị, tôn giáo, lịch sử hoặc đi ngược những xu thế không được ủng hộ…
Không chỉ những người viết trẻ mới bị từ chối, những cây viết lão làng, thành danh cũng bị từ chối là chuyện thường. Sự không đều tay trong quá trình sáng tác, sự không phù hợp như tôi đã nói ở trên là những lí do.

Các nhà xuất bản không phải các đơn vị từ thiện, họ có tiêu chí riêng để kinh doanh, có mục tiêu phát triển và phương châm của mình. Từ góc nhìn tác giả, tôi cũng không thích tác phẩm của mình trở thành một sản phẩm từ thiện, tôi muốn nó tự thân có giá trị để người ta đối xử với nó sòng phẳng và công bằng…

Sự từ chối luôn là những kinh nghiệm hữu ích với những người cầu thị. Sau mỗi lần thất bại họ sẽ rút ra được nhiều bài học bổ ích, đôi khi là những thứ rất đơn giản nhưng quan trọng. Ví dụ, khẩu vị của nhà xuất bản là A mà mình lại gửi tới sản phẩm M, đang mùa đông rét mướt mà mình lại khuyến khích người ta ăn kem, người ta đang tránh cái ấy mà mình lại khui nó ra…vv và vv…

Các kiểu từ chối cũng vô cùng đa dạng, đa số người được quyền từ chối sẽ cố gắng không làm mếch lòng người viết. Các câu trả lời đơn giản nhất là: bản thảo không phù hợp với tiêu chí, xin để một dịp khác, hoặc… im lặng. Chỉ khi bị thúc ép gắt quá để có một sự phúc đáp chính thức thì người từ chối mới đưa ra đánh giá chi tiết của mình. Có rất nhiều chuyện vui buồn, hài hước xảy ra xung quanh những sự từ chối này và có lẽ tôi sẽ kể ở một dịp khác.

Tất nhiên như đã nói sự từ chối không có nghĩa là thất bại hoàn toàn, bản thảo có thể không phù hợp với biên tập viên này, tờ báo, nhà xuất bản này, thời gian này nhưng sẽ có thể tương thích với những người khác, nơi khác, thời gian khác. Thậm chí có tác phẩm bị cả trăm nhà xuất bản từ chối mà sau vẫn làm nên hiện tượng ghê gớm.

Cuốn sách “Chicken Soup for the Soul” của Jack Canfield đã bị 144 nhà xuất bản từ chối nhưng ngay khi in ra đã trở thành cuốn sách bán chạy trên toàn thế giới. “Harry Potter” của Rowling thành sách kinh điển cho thiếu nhi và thậm chí 500 bản in thăm dò đầu tiên thì bây giờ giá tiền của mỗi bản ấy là rất lớn! “Cuốn theo chiều gió” ngay khi ra đời đã đoạt giải Putlizer và trở thành kinh điển của văn học Mỹ còn “Nhật kí Anne Frank” thì trở thành một trong 10 cuốn sách được đọc rộng rãi nhất thế giới…

Tôi cũng đã từng quan sát và theo dõi những người bị từ chối. Có tác giả gửi bản thảo đến năm, bảy lần và không đạt, anh ta yêu cầu một lời nhận xét thật thẳng thắn và khách quan. Tôi đã làm đúng như thế và không hi vọng gì anh ta trở lại. Bẵng đi một thời gian không thấy tác giả gửi bản thảo đến và tôi nghĩ mình đã dự đoán đúng nhưng rồi một ngày tốt lành, tôi lại nhận được bản thảo của người ấy, thấy hài lòng và sử dụng thường xuyên.

Còn đa số với những người khác, họ thường không trụ nổi quá ba lần liên tục. Có những tác giả sau khi nghe được những lời nhận xét thẳng thắn và công bằng thì sẽ không bao nhìn thấy họ nữa. Tôi nghĩ điều ấy thực ra là có ích. Họ nhận ra họ không đủ khả năng đi trên con đường ấy hoặc năng lực thẩm mĩ của tôi không phù hợp với họ và họ đi tìm một chân trời mới.

Bản chất của bất cứ sự lao động nào cũng cần có những trả giá nhất định để rút kinh nghiệm và trưởng thành. Nghề viết cũng thế, thậm chí sự đòi hỏi của nó còn khắt khe và khó khăn hơn nhiều. Nhưng nghệ thuật thì không cần quá nhiều và quá nhanh, khi đã dấn thân thì phải chấp nhận những thử thách để những sáng tạo đích thực được ghi nhận và tôn vinh. Vì xét cho cùng, sự từ chối luôn là những thách thức và cơ hội cho mọi người viết!

Address

Hanoi

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Ma thuật của ngôn từ posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share