17/10/2025
KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT
_Sư Nguyên Tuệ_
Đây là thuật ngữ dùng trong Thiền tông Trung quốc. Chữ Tánh trong ngữ cảnh này là ngôn ngữ miền nam, còn miền bắc Việt Nam gọi là Tính. Nội dung của từ này là để chỉ cho Tánh Chất hoặc Tính Chất của các pháp. Chữ Kiến là ngôn ngữ Hán đã được Việt hoá để chỉ cho hành vi Thấy và Biết. Từ KIẾN TÁNH phải được hiểu là Thấy Biết Như Thật, Thấy Biết đúng sự thật TÁNH CHẤT của các pháp mà Kinh Pháp Môn Căn Bản thuộc Kinh Trung Bộ gọi là Liễu Tri tất cả pháp. Một người nếu Liễu Tri tất cả pháp hay Thấy Biết đúng sự thật TÁNH CHẤT của tất cả pháp thì gọi là KIẾN TÁNH và người đó Thành Phật. Phật trong ngữ cảnh này được hiểu là có ba loại: Phật Chánh Đẳng Giác, Phật Độc Giác, Phật Thanh Văn Giác (A La Hán).
Đã là KIẾN TÁNH là tự mình Thấy, tự mình Biết đúng như thật Tánh Chất của các pháp như thấy quả xoài trong lòng bàn tay thì đương nhiên có thể mô tả, phân tích, diễn giải, hiển thị các TÁNH CHẤT đó một cách rõ ràng minh bạch, không mơ hồ trừu tượng, không suy diễn tưởng tượng. Quá trình KIẾN TÁNH đã được Đức Phật giảng dạy theo lộ trình VĂN - TƯ - TU với nhiều phương cách khác nhau và rất rõ ràng minh bạch, không có một chi tiết nào thách đố chúng sanh. Còn quan niệm về Kiến Tánh của Thiền Tông Trung Hoa, cũng như hiểu biết về Kiến Tánh của đa số hiện nay là một cái gì đó rất cao quý, rất vi diệu, rất mầu nhiệm, không thể nói ra được, "không thể nghĩ bàn", nhưng cũng rất mơ hồ trừu tượng, khó mà "tưởng tượng" ra nổi. Và vì thế cái Tánh đó là cái gì, nó như thế nào thì không ai nói ra được, không ai mô tả được. Mỗi một ông thầy đều "tưởng tượng" ra Kiến Tánh theo kiểu của riêng mình và vì vậy có hàng ngàn công án khác nhau để thách đố đệ tử Kiến Tánh. Thực tế cách Kiến Tánh của Thiền Tông Trung Hoa đã phủ nhận Giáo Pháp của Đức Phật Thích Ca, không cần phải VĂN - TƯ - TU, không cần phải nghe giảng về Tứ Thánh Đế, không cần phải tư duy về Tứ Thánh Đế, không cần phải tu tập Bát Chánh Đạo, mà là "Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật".
Vậy KIẾN TÁNH đúng nghĩa là KIẾN những TÁNH CHẤT gì? Các TÁNH CHẤT đó sẽ được trình bày tuần tự như sau:
1 - KIẾN TÁNH DUYÊN KHỞI:
Quán sát sự thật thì tất cả các pháp bao gồm Sắc pháp và Danh pháp hay nói theo cách thông thường là tất cả các sự vật hiện tượng Vật chất và Tinh thần đều phát sinh theo Nguyên Lý Duyên Khởi hay Nguyên Lý Nhân Quả: HAI NHÂN TIẾP XÚC NHAU RỒI CÙNG DIỆT MỚI PHÁT SINH CÁC QUẢ. Hay các pháp phát sinh theo lộ trình NHÂN DUYÊN QUẢ, có nghĩa Nhân bao gồm hai nhân tố hay hai yếu tố. Có hai nhân tố hay hai yếu tố nhưng chưa tiếp xúc thì chưa xẩy ra kết quả, khi hai nhân tiếp xúc hay tương tác với nhau thì gọi là Duyên (duyên Xúc). Do duyên Xúc mà phát sinh Quả: Hai nhân cùng diệt và Quả sanh. Thí dụ về Sắc pháp: Một gói thuốc nhuộm đỏ và Một chậu nước trong là Hai Nhân. Khi gói thuốc nhuộm đỏ tiếp xúc hay tương tác với chậu nước trong (duyên Xúc) thì cả Hai Nhân đó cùng diệt đi và phát sinh Quả là Chậu thuốc nhuộm đỏ. Tất cả các Sắc pháp cũng đều phát sinh như vậy. Thí dụ về Danh pháp: Lưỡi và Viên muối là Hai Nhân nhưng chưa tiếp xúc thì chưa phát sinh Quả. Khi Lưỡi tiếp xúc Viên muối thì lập tức pháp sinh Cảm giác mặn. Cảm giác mặn thuộc Phạm trù tâm và nó là Danh pháp. Nếu quan sát kỹ thì khi Cảm giác mặn sinh thì Viên muối diệt và bản thân Lưỡi cũ diệt, phát sinh Lưỡi mới (sinh diệt rất vi tế, tham khảo các bài khác để thấy rõ). Tất cả các Danh pháp khác cũng phát sinh như vậy. Ngoài Tánh Chất Duyên Khởi lên từng pháp phải quán sát để biết rõ diễn tiến của Duyên Khởi nối tiếp nhau, theo các lộ trình khác nhau và liên tục, không có kết thúc. Thí dụ đối với Sắc pháp: Bao thóc giống tiếp xúc Ruộng đã làm đất, phát sinh Ruộng mạ. Tiếp đến Ruộng mà tiếp xúc Môi tường (nước, phân, ánh sáng...) phát sinh Ruộng lúa chín. Tiếp đến Ruộng lúa chín tiếp xúc Máy gặt, phát sinh Bao thóc... tiến trình như vậy sẽ diễn tiến mãi mãi, không có kết thúc theo quy luật Nhân Duyên Quả. Đối với Danh pháp phải quán sát để thấy rõ Duyên Khởi lên hai lộ trình tâm:
- Tánh Chất Duyên Khởi lộ trình tâm Bát Tà Đạo thuộc về Phàm phu:
XÚC - Thọ - Tưởng - Tà Niệm - Tà Tư Duy - Tà Tri Kiến - Tham Sân Si - Tà Định - Dục - Tà Tinh Tân - Phi như lý tác ý - Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng - Khổ (sinh già bệnh chết) Sầu Bi Ưu Não
- Tánh Chất Duyên Khởi lên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của bậc Thánh:
XÚC - Thọ - Tưởng - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - (Tỉnh Giác) - Chánh Tư Duy - Chánh Tri Kiến - Như lý tác ý - Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng.
2 - KIẾN TÁNH VÔ THƯỜNG:
Nếu quan sát các pháp theo chiều THỜI GIAN, thì tất cả các Sắc pháp (Vật chất) và Danh pháp (Tâm) đều do DUYÊN XÚC mà khởi lên, cũng do DUYÊN XÚC mà diệt đi nên Tất Cả Các Pháp SINH LÊN RỒI DIỆT đi, không tồn tại mãi mãi, không thường hằng, trước khi có duyên Xúc nó chưa có, khi diệt đi nó không còn nữa nên không thường trú đâu cả. Tánh Chất Không thường hằng, Không thường trú của các pháp gọi là Tánh Chất Vô Thường. Kiến Tánh Vô Thường cũng có nghĩa là biết rõ tất cả các đối tượng đó sẽ đến rồi đi, không thể nào Nắm Giữ nó được, và nếu Tham ái các đối tượng đó thì sẽ muốn Nắm Giữ nó, muốn nó tồn tại mãi với mình nên khi nó mất đi, đương nhiên sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên. Người Kiến Tánh Vô Thường thì khi Thấy, Nghe, Cảm Nhận đối tượng, Kiến Tánh Vô Thường sẽ xuất hiện, biết rõ đối tượng đó vô thường, biết rõ sự nguy hiểm (nếu Tham ái đối tượng thì sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên). Do Biết như vậy về đối tượng mà Tham ái được đoạn tận. Kẻ Phàm phu không Kiến Tánh Vô Thường mà chấp thủ Thường kiến, hiểu lầm vị ngọt, hạnh phúc sẵn có, thường xuyên có, thường hằng, thường trú trong các Sắc pháp nên Tham ái đối tượng khởi lên, và Nắm giữ nó nên khi nó mất đi, Sầu bi khổ não khởi lên.
Vì không hiểu biết đúng như thật Tánh Duyên Khởi của các pháp, nên không biết như thật Tánh Vô Thường, bị tư tưởng tà kiến Thường Kiến chi phối, một số tông phái Phật giáo nhìn nhận Thế giới theo kiểu TĨNH TẠI, nên đã suy diễn, thành lập ra quan điểm Nhị Đế. Nhị Đế quan niệm có Hai Thế giới thực tại tuyệt đối và tương đối. Thế giới thực tại tuyệt đối là thế giới bản thế không sinh không diệt, không hình không tướng, vô ngôn , vô niệm còn gọi là Chân Không và Thế giới thực tại tương đối có sinh có diệt, có hình có tướng, có ngôn ngữ chế định mà nhân loại đang sống chính là Sắc Thọ Tưởng Hành Thức. Thế giới thực tại Vô tướng tuyệt đối là nền tảng, là cở sở mà từ đó Thế giới thực tại tương đối Có tướng được biểu hiện ra. Trong đó có Tâm Bản Thể tuyệt đối không sinh không diệt, không phân biệt là nền tảng, là cơ sở để Tâm Sinh Diệt, phân biệt biểu hiện ra. Chính vì vậy mà "Sắc chẳng khác Chân Không, Chân Không chẳng khác Sắc. Sắc chính là Chân Không, Chân Không chính là Sắc. Thọ Tưởng Hành Thức cũng đều như vậy". Những tư tưởng này không có gì mới lạ, nó là bản sao có sửa đổi của tư tưởng Cựu Ước: Thượng Đế Toàn Năng là tuyệt đối không sinh không diệt, là nền tảng, là cơ sở để Thế giới loài người là tương đối, có sinh có diệt được biểu hiện ra hoặc nó là bản copy tư tưởng Đại Ngã, Đại Linh Hồn của kinh điển Vệ đà. Kinh Phạm Võng đã xếp quan điểm này vào một trong 62 tà kiến: Quan niệm Thế giới này một phần Thường trú luận (Thế giới bản thể tuyệt đối) và một phần Vô thường luận (Thế giới hiện tượng tương đối).
3 - KIẾN TÁNH VÔ NGÃ:
Do Tánh Duyên Khởi các pháp nên nếu quán sát quan hệ giữa các pháp theo chiều KHÔNG GIAN thì sẽ thấy: Hai Nhân tiếp xúc nhau rồi Cùng Diệt Đi mà phát sinh Quả. Hai nhân này bình đẳng, không có chính phụ vì vậy giữa chúng Không Có Quan Hệ Chủ Nhân, Không Có Quan Hệ Sở Hữu. Vì Vậy Các Pháp có tánh chất: VÔ CHỦ, VÔ SỞ HỮU. Điều này cũng đồng nghĩa Không có một cái Ta, một Bản Ngã nào là chủ nhân, chủ sở hữu các pháp Sắc Thọ Tưởng Hành Thức. Kiến Tánh Vô Chủ, Vô Sở Hữu hay Vô Ngã là biết rõ đối tượng đó độc lập, không thể làm chủ, không thể điều khiển nên không thể nào có thể Nắm giữ hoặc Xua đuổi nó. Người Kiến Tánh Vô Chủ, Vô Sở Hữu thì sau khi Thấy, Nghe, Cảm Nhận đối tượng Kiến Tánh Vô Chủ, Vô Sở Hữu khởi lên biết đối tượng đó vô chủ, vô sở hữu, không thể nắm giữ, không thể xua đuổi thì Thái độ BUÔNG XẢ phát sinh ngay. Lúc đó tư tưởng tà kiến: "Cái này là của Ta, là Ta, là Bản Ngã của Ta" cùng những hậu quả của nó được đoạn tận.
Vì Không Kiến Tánh Vô Chủ, Vô Sở Hữu hay Vô Ngã nên bị chi phối bởi hiểu biết sai lạc, tà kiến là các pháp lệ thuộc vào nhau, nương nhau mà tồn tại, quan hệ giữa các pháp là quan hệ chủ nhân, quan hệ SỞ HỮU nên nhân loại sống để thiết lập, khẳng định, củng cố Quyền Làm Chủ, Quyền Sở Hữu. Nhân loại đang sống để xác định quyền làm chủ bản thân, làm chủ gia đình, xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ ước mơ, tương lai, hạnh phúc, làm chủ, sở hữu cả biển rộng trời cao. Người tu hành thì làm chủ Nghiệp, làm chủ thân khẩu ý, Làm Chủ Sinh Già Bệnh Chết... Chính vì tư tưởng làm chủ, tư tưởng sở hữu trái với sự thật, đang chi phối đời sống nhân loại nên biết bao xung đột, đau khổ phát sinh.
Vì Không Kiến Tánh Vô Ngã nên một số trường phái định nghĩa các pháp Vô Ngã là Vô Tự Tánh với ý nghĩa các pháp không độc lập mà lệ thuộc lẫn nhau, tương tức, tương nhập, nương nhau mà tồn tại. Rõ ràng các pháp có Tự Tánh, đó là Tự Tánh Duyên Khởi, Tự Tánh Vô Thường, Tự Tánh Vô Ngã... chứ đâu vô tự tánh. Nếu bản tánh các pháp là Không Độc Lập nghĩa là Không Vô Chủ, Không Vô Sở Hữu, mà phụ thuộc lẫn nhau thì không thể có giải thoát, không thể có độc lập không ràng buộc, và Đức Phật không thể thoát ra khỏi sự lệ thuộc lẫn nhau giữa các pháp để mà giải thoát. Chính tư tưởng Tà Kiến chủ nhân, chủ sở hữu: "Cái này là của Ta, là Ta, là Bản Ngã của Ta" làm cho nhân loại bị lệ thuộc, bị ràng buộc, bị nô lệ chứ không phải bản tánh các pháp là lệ thuộc, là ràng buộc. Chấm dứt các tư tưởng Tà Kiến đó bằng Kiến Tánh Vô Ngã là Giải Thoát.
4 - KIẾN TÁNH THỰC TẠI CẢM THỌ:
Kiến Tánh Duyên Khởi sẽ thấy biết như thật Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần phát sinh Sáu Cảm Thọ và sáu Tưởng. Cụ thể Sáu Cảm Thọ gọi tắt là Sáu Thọ hay Sáu Cảm Giác bao gồm: Cảm giác hình ảnh, Cảm giác âm thanh, Cảm giác mùi, Cảm giác vị, Cảm giác xúc chạm, Cảm giác pháp trần. Sáu Tưởng bao gồm : Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng thức. Sáu Tưởng có phận sự Nhận Biết Đối tượng là Sáu Thọ. Cụ thể Nhãn thức thấy Cảm giác hình ảnh, Nhĩ thức nghe Cảm giác âm thanh, Tỉ thức cảm nhận Cảm giác mùi, Thiệt thức Cảm nhận Cảm giác vị, Thân thức cảm nhận Cảm giác xúc chạm, Tưởng thức cảm nhận Cảm giác pháp trần. Tiếp đến Ý thức khởi lên để biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao, thực chất là biết về Cảm Giác. Do Ý thức biết về đối tượng như thế nào mà phát sinh Thái Độ tương ứng, và cũng là Thái Độ đối với Cảm Giác. Do Thái Độ mà phát sinh Phản Ứng bằng Lời nói hay Hành động và Lời nói hay Hành động này là Phản Ứng đối với Cảm Giác. Do Lời nói, Hành động mà phát sinh Kết Quả Khổ hay Vui, cũng xuất phát từ Cảm Giác. Vậy THỰC TÁNH CỦA THỰC TẠI NÀY LÀ CẢM GIÁC hay CẢM THỌ. Tất cả các pháp được thấy, được nghe, được cảm nhận là Cảm Thọ, các pháp như to nhỏ, trước sau, vuông tròn, dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng mền thô mịn, nhà cửa xe cộ, đàn ông, đàn bà, mặt trăng mặt trời... đều là ngôn từ chỉ các Cảm thọ. Trong Thực Tại Cảm Thọ có VỊ NGỌT, có SỰ NGUY HIỂM, và có SỰ XUẤT LY. Khi đã Kiến Tánh Thực Tại Cảm Thọ thì cũng thấy ngay các đối tượng đều là Cảm thọ, nó Vô Thường, Vô Chủ, Vô Sở Hữu. Một người Kiến Tánh Thực Tại Là Cảm Thọ thì sau khi Thấy, Nghe, Cảm Nhận đối tượng, Kiến Tánh Thực Tại khởi lên, biết đối tượng là Cảm Thọ, nó Vô thường, Vô chủ, Vô sở hữu, nó có Vị ngọt, Sự nguy hiểm và Sự xuất ly thì an trú ngay Giải Thoát: không yêu thích, không chán ghét, độc lập không ràng buộc, giải thoát không hệ luỵ. Lúc đó tư tưởng Vô Minh, Tâm biết Cảnh, Tà Kiến Chấp Thường, Chấp Ngã gọi là Thường Kiến, Ngã Kiến được đoạn tận.
Vì Không Kiến Tánh Thực Tại Cảm Thọ, nhân loại này cho rằng: Nhãn thức thấy Sắc trần, Nhĩ thức nghe Thanh trần, Tỉ thức ngửi Hương trần, Thiệt thức nếm Vị trần, Thân thức cảm nhận Xúc trần, Tưởng thức và Ý thức biết pháp trần và vì vậy Thực Tại này là Thế Giới ngoại cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp (Tâm biết Cảnh). Với hiểu biết sai lạc được ví như Thấy đối tượng vốn là sợi dây lại Biết nó là con rắn, là Vô Minh, Tà Kiến nhân loại gắn cho Đức Phật giác ngộ về Thế giới vũ trụ vạn hữu, cho rằng Ngài biết vô lượng vô biên thế giới từ vô thuỷ đến vô chung. Nhưng Kinh Phạm Võng thuộc Kinh Trường Bộ đã khẳng định Đức Phật giác ngộ về Cảm Thọ chứ không phải giác ngộ về Thế giới. "Này các Tỷ kheo, Như Lai nhờ như thật tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ mà Như Lai được giải thoát hoàn toàn không còn chấp thủ". Kiến Tánh Thực Tại Cảm Thọ cũng đưa đến một hiểu biết sâu sắc rằng RÀNG BUỘC hay GIẢI THOÁT là đối với CẢM THỌ chứ không phải Ràng Buộc hay Giải Thoát đối với THẾ GIỚI SẮC PHÁP. Chính vì vậy Đức Phật không quan tâm, không trả lời về Thế Giới là như thế nào, hữu biên hay vô biên, thường còn hay vô thường... Ngài chỉ dạy đoạn tận Tham Sân Si với những đối tượng được Thấy, được Nghe, được Cảm Nhận, được Nhận Thức mà thực chất là các Cảm Thọ. Ngài không nói Thế giới là không có, không nói không có cõi trời hay không có địa ngục nhưng Ngài hoàn toàn không đề cập về Thế giới cõi trời hay địa ngục. Vì sao vậy? Vì Pháp mà Ngài thuyết giảng đưa đến đoạn tận Tham Sân Si để chấm dứt tái sinh, chấm dứt luân hồi sinh tử, chứ không phải để tái sinh, không phải để tìm hiểu một chỗ tốt lành như cõi trời để tái sinh tốt đẹp, tránh bị tái sinh vào địa ngục xấu xa. Vì vậy nếu chú tâm vào thực hành Bát Chánh Đạo để đoạn tận Tham Sân Si thì tồn tại hay không tồn tại cõi trời hay địa ngục đều không có liên quan. Nhưng trong lịch sử phát triển của Đạo Phật trên đất Ấn Độ, nơi mà Tôn Giáo ngự trị, yếu tố Tôn Giáo đã thâm nhập vào Giáo Pháp và như cố Hoà Thượng Minh Châu đã nhận xét: Thượng Toạ bộ tuy rất bảo thủ về Pháp và Luật nhưng cũng phải "nhi tiến" về phía tôn giáo. Và vì vậy một Thế giới quan về các cõi trời, các cõi địa ngục đã ra đời để đáp ứng nhu cầu tôn giáo của tín đồ, mà thực chất là bản copy các kiến thức trong kinh điển Vệ Đà của Bà la môn giáo.
5 - KIẾN TÁNH TÂM BIẾT:
Trong phạm trù Tâm các Danh pháp có phận sự BIẾT gọi là THỨC bao gồm: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng thức, Ý thức. Sáu Thức đầu làm phận sự Nhận Biết hay Ghi Nhận đối tượng chính là TÂM BIẾT TRỰC TIẾP đối tượng, Khoa học gọi là Nhận Thức Cảm Tính đối tượng. Còn lại là TÂM BIẾT Ý THỨC, có phận sự hiểu biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao, là TÂM BIẾT GIÁN TIẾP đối tượng, Khoa học gọi là Nhận Thức Lý Tính đối tượng.
a - TÂM BIẾT TRỰC TIẾP: Nhãn thức thấy Cảm giác hình ảnh, Nhĩ thức nghe Cảm giác âm thanh, Tỉ thức cảm nhận Cảm giác mùi, Thiệt thức cảm nhận Cảm giác vị, Thân thức cảm nhận Cảm giác xúc chạm, Tưởng thức cảm nhận Cảm giác pháp trần. Sáu Tâm biết này bao gồm Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng thức gọi chung là TƯỞNG, xẩy ra nơi sáu giác quan và Nhận Biết hay Ghi Nhận TRỰC TIẾP đối tượng khi đối tượng xuất hiện. Đối tượng như thế nào thì Nhận Biết, Ghi Nhận như thế đó, không thêm bớt. Sáu cái biết trực tiếp giác quan này chỉ Nhận Biết hay Ghi Nhận đối tượng nhưng không biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao nên nó hoàn toàn không có bất kỳ một KHÁI NIỆM nào, không có to nhỏ, vuông tròn dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng mền thô mịn, không có khái niệm sinh diệt, nhơ sạch, tăng giảm, không có khái niệm Sắc Thọ Tưởng Hành Thức, không có khái niệm Nhãn Nhĩ Tỉ Thiệt Thân Ý, không có khái niệm Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp, không có khái niệm nhãn giới cho đến ý thức giới, không có khái niệm Vô minh cũng như hết Vô minh, không khái niệm Khổ Tập Diệt Đạo, không có khái niệm chứng đắc... Cái biết trực tiếp giác quan này tánh chất của nó là không có KHÁI NIỆM, không có NGÔN NGỮ chế định, không có PHÂN BIỆT pháp này với pháp kia nên nó VÔ NIỆM, VÔ NGÔN, VÔ PHÂN BIỆT. Do tánh chất của nó là Vô Niệm, Vô Ngôn, Vô Phân Biệt nên nó còn có tên gọi là KHÔNG TÁNH (không có các tánh chất trên). Hãy hình dung Cái Biết này khi một đứa trẻ vừa đẻ ra, nó thấy hình ảnh nhưng không có khái niệm to nhỏ vuông tròn, xanh vàng đỏ trắng, lưỡi nó cảm nhận Cảm giác vị nhưng không có khái niệm mặn ngọt chua cay... Tâm biết trực tiếp giác quan này các loài động vật thấp cao, THÁNH PHÀM ĐỀU NHƯ NHAU, nó không do học hỏi, tích luỹ kinh nghiệm mà có, hễ có Căn Trần tiếp xúc thì nó phát sinh ngay.
- TÂM BIẾT TRỰC TIẾP CỦA PHÀM PHU trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo khởi lên Nhận Biết đối tượng thì Ý thức khởi lên tiếp theo để xác định đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao. Vì vậy Nhận Biết đối tượng "xẹt qua" nhanh chóng và không có được trạng thái Nhận Biết thuần tuý vì Ý thức đã xen vào. Trong thuật ngữ Phật học, Tâm biết trực tiếp giác quan trong trường hợp Phàm phu như vậy gọi là TƯỞNG TRI đối tượng. Lộ trình được diễn tả như sau:
XÚC - Thọ - Tưởng - Tà Niệm - Tà Tư Duy - Ý thức Tà Tri Kiến.
- TÂM BIẾT TRỰC TIẾP CỦA BẬC THÁNH trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của bậc Thánh khởi lên Nhận Biết đối tượng rồi Chánh Niệm khởi lên: Nhớ đến chú tâm quán sát các cảm giác nơi thân với chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác (Niệm Thân). Do có Chánh Niệm như vậy mà Chánh Tinh Tấn khởi lên. Do Chánh Tinh Tấn mà Chánh Định khởi lên, CHÚ TÂM vào đối tượng. Sự Chú Tâm làm cho lộ trình tâm Dừng Lại cái biết trực tiếp giác quan nhưng Ý Thức không khởi lên. Lúc này chỉ có duy nhất Tâm Biết trực tiếp giác quan Nhận Biết hay Ghi Nhận đối tượng, không thêm bớt. Cái Biết trực tiếp giác quan bây giờ có tên gọi là TỈNH GIÁC hay KHÔNG TÁNH hay THẮNG TRI đối tượng. An trú Tỉnh Giác hay Không Tánh này sẽ kinh nghiệm được THẤY chỉ là THẤY, NGHE chỉ là NGHE, CẢM NHẬN chỉ là CẢM NHẬN không thêm bớt, đó cũng gọi là Thấy thực tại như chúng Đang là. An trú Tỉnh Giác hay Không Tánh cũng chứng ngộ được Tâm Biết Vô Niệm, Vô Ngôn, Vô Phân Biệt, chứng ngộ được Giải Thoát do Khổ được nhiếp phục. Giải Thoát này do Chánh Định mà có nên gọi là TÂM GIẢI THOÁT hay KHÔNG GIẢI THOÁT. Nhưng đây không phải là Giải Thoát tối hậu, nó chỉ nhiếp phục Tham Sân Si chứ không thể đoạn tận Tham Sân Si. Lộ trình được diễn tả như sau:
XÚC - Thọ - Tưởng - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - (Tỉnh Giác)
b - TÂM BIẾT GIÁN TIẾP: Là Ý THỨC phát sinh theo lộ trình Nhân Quả: Niệm - Tư Duy - Ý Thức. Vì vậy nội dung của Ý thức phụ thuộc vào những thông tin là những tri thức hiểu biết, những kinh nghiệm, những tạo tác trong quá khứ được lưu giữ trong kho chứa và được Niệm kích hoạt. Ý thức hiểu biết mọi đối tượng Sắc pháp và Danh pháp nhưng không phải biết trực tiếp các đối tượng mà BIẾT GIÁN TIẾP thông qua SUY LUẬN. Ý thức của Phàm phu phát sinh trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo có nội dung khác biệt với Ý thức của bậc Thánh phát sinh trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo.
- Ý THỨC TÀ TRI KIẾN CỦA PHÀM PHU phát sinh trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo: Tà Niệm - Tà Tư Duy - Ý thức Tà Tri Kiến. Do Tà Niệm kích hoạt các loại thông tin trong kho chứa mà nổi trội nhất là hiểu biết sai sự thật, gọi là Vô Minh bao gồm: hiểu biết sai về Duyên khởi, sai về Khổ Tập Diệt Đạo, chấp thường, chấp ngã, bốn điên đảo về Thường Lạc Ngã Tịnh nên Ý thức Tà Tri Kiến mang nội dung Vô Minh. Do Ý thức là Tà Tri Kiến, là Vô Minh mà sẽ phát sinh Tham Sân Si. Do có Tham Sân Si mà phát sinh Khổ (sinh già bệnh chết) Sầu Bi ưu não.
- Ý THỨC CHÁNH TRI KIẾN CỦA BẬC THÁNH phát sinh trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo: Chánh Niệm - Chánh Tư Duy - Ý thức Chánh Tri Kiến. Do Chánh niệm không kích hoạt những thông tin Vô Minh trong kho chứa mà kích hoạt những thông tin là những hiểu biết đúng sự thật gọi là Minh như các loại Kiến Tánh: Duyên khởi, Vô thường, Vô ngã, Thực tại cảm thọ, Tâm biết, Khổ Tập Diệt Đạo đã được học hỏi, tư duy và được lưu vào kho chứa nên nội dung của Ý thức là Chánh Tri Kiến, là Minh, là Trí Tuệ, là Kiến Tánh. Khi an trú Ý thức Chánh Tri Kiến sẽ kinh nghiệm, sẽ chứng ngộ Giải Thoát và Giải Thoát do Trí Tuệ khởi lên này có tên gọi là TUỆ GIẢI THOÁT. Trí Tuệ cũng biết rõ Thực Tại này là Cảm Thọ thuộc phàm trù tâm, nên Thực Tại là Vô Tướng, vì vậy Giải Thoát này còn có tên là VÔ TƯỚNG GIẢI THOÁT. Tu tập Chánh Tri Kiến, tu tập TUỆ GIẢI THOÁT mới đoạn tận được Vô Minh, đoạn tận được Tham Sân Si, đoạn tận được Khổ, mới là giải thoát tối hậu.
c - VÌ KHÔNG KIẾN TÁNH TÂM BIẾT nên đa phần không có hiểu biết đúng sự thật về TÂM BIẾT TRỰC TIẾP GIÁC QUAN, tuy hằng ngày Cảm nhận nó nhưng lại gắn cho nó là Vô Sư Trí, là Trí Tuệ Bát Nhã, là Trí Tuệ Ba Đời Chư Phật, là Tánh Biết không sinh không diệt, sẵn có, thường xuyên có, tồn tại vĩnh hằng cùng vũ trụ, là Phật Tánh thuấn nhuần muôn vật, muôn loài. Gắn cho nó là Tâm Vô Phân Biệt không sinh không diệt, còn Tâm Ý Thức là tâm phân biệt, sinh diệt. Tuy chủ trương trở về sống với tâm đó nhưng họ lại không biết cách thức nào để an trú Tỉnh Giác hoặc Không Tánh, vì chủ trương đó chỉ là tư duy, lý luận suông, không hiểu biết đúng sự thật. Đức Phật đã chứng ngộ và an trú Không Tánh nên Ngài đã giảng dạy hướng dẫn thực hành để an trú Không Tánh. Đó là thực hành ba chi phần của Bát Chánh Đạo: Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - Tỉnh Giác (Không Tánh) gọi tắt là CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC. Những người đã lâu đời bị nhồi sọ bởi Thường Kiến: Đó là Vô Sư Trí, là Trí Tuệ Bát Nhã, là Tánh Biết không sanh không diệt thì không bao giờ quan sát nơi sự thật để thấy được cái vô lý, vô minh của họ. Nếu đã là Tánh Biết (thấy, nghe) không sinh không diệt thì trong khi ngủ say không mộng mị, khi bị gây mê sâu để mổ, khi bị ngất trong một tai nạn, Tánh Biết không sinh không diệt nên Tánh Biết đó vẫn có mặt thì đương nhiên trong các trường hợp đó, vẫn thấy, vẫn nghe, vẫn biết. Sự thực có xẩy ra như vậy không? Không có như vậy, trong những trường hợp đó, không thấy, không nghe, không cảm nhận cái gì hết. Hãy quay về Quán sát sự thật để nhận ra sự phi lý của tư tưởng Thường kiến đó, để từ bỏ nó. Không phải sau khi Phật diệt độ Tà kiến này mới xuất hiện, mà trong Đại Kinh Đoạn Tận Ái, Tà kiến này đã được Tỷ kheo Sati nói lên với Đức Phật: Theo như con hiểu thì Thức (Tánh biết) rong ruổi (từ chỗ này sang chỗ kia, từ đời này sang đời kia) nhưng Không Đổi Khác. Đức Phật đã quở trách vị Tỷ kheo đó: Này kẻ mê mờ kia, vì ai mà ngươi đã xuyên tạc lời Ta thuyết giảng. Ta đã dùng nhiều phương tiện để nói Thức do duyên khởi, không có duyên Thức không khởi. Do duyên Mắt và Sắc, Nhãn Thức sanh khởi, do duyên Tai với Tiếng, Nhĩ Thức sanh khởi... Tà kiến này nội dung không khác gì ẩn dụ về Thiên đường trong kinh Cựu ước: Ông Adam và bà Eva được Chúa cho sống trong một Thiên đường cực lạc, nhưng là "ăn lông ở lổ" và không được ăn quả cấm của cây Tri Thức. Nhưng một thời gian sau vì bị Sa Tăng xui khiến Adam và Eva ăn quả cấm của cây Tri thức nên cảm thấy vô cùng xấu hổ, phải tìm lá cây để che thân và bị Chúa đuổi ra khỏi Thiên đường cực lạc, sống ở thế gian với cuộc sống cay cực. Truyền thuyết này nếu hiểu theo nghĩa ẩn dụ thì Adam và Eva ăn lông ở lổ nhưng sống ở Thiên đường là để chỉ cho Tâm biết trực tiếp giác quan, Biết Sự Vật một cách TRẦN TRỤI, không bị che đậy bởi "Tri thức khái niệm" và Cái biết đó không có khổ. Còn ăn quả cấm của cây Tri Thức, xấu hổ phải lấy lá che thân, bị đuổi xuống trần gian sống khổ cực là Cái biết Ý thức, Biết sự vật, hiện tượng với cách không còn là sự thật trần trụi mà BỊ CHE ĐẬY bởi tri thức, khái niệm, kinh nghiệm được tích luỹ và chính Cái biết Ý thức đó mới phát sinh khổ. Và các tôn giáo dựa trên Cựu ước cũng quan niệm Tâm biết trực tiếp giác quan này là Không Sinh Không Diệt và chính là LINH HỒN CHÚA được Chúa "thổi vào" trong mỗi người, nó trong sạch không ô nhiễm, còn Ý thức là cái biết của thế gian ô nhiễm. Trở về Nước Chúa là trở về với Linh hồn Chúa và điều này cũng y chang chủ trương trở về sống Tánh Biết không sinh không diệt nơi mỗi người.
Vì không kiến tánh Tâm biết mà đa phần cho rằng an trú được Tỉnh Giác để "Thấy các pháp như chúng Đang là" là Giải Thoát tối hậu mà không hiểu rằng đây là Tâm Giải Thoát, là giải thoát do Định, nó chỉ có tác dụng "Nhiếp Phục" Vô minh, Tham Sân Si, Phiền não chứ không thể đoạn tận các pháp ấy. Chỉ có tu tập Tuệ (Niệm Tâm, Niệm Pháp) thay Ý thức Tà Tri Kiến thành Ý thức Chánh Tri Kiến, đưa đến Tuệ Giải Thoát mới đoạn tận Vô minh, Tham Sân Si, Phiền não.
6 - KIẾN TÁNH KHỔ TẬP DIỆT ĐẠO:
Khi Kiến Tánh Duyên Khởi lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu thì hiểu biết được như thật KHỔ và NGUYÊN NHÂN KHỔ, thuộc nội Tâm Bát Tà Đạo chứ không thuộc Ngoại Cảnh, do Duyên Xúc mà khởi lên, nên nó Vô Thường, Vô Ngã. Kiến Tánh Duyên Khởi lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của bậc Thánh thì hiểu biết được như thật KHỔ DIỆT và CON ĐƯỜNG KHỔ DIỆT thuộc nội Tâm Bát Chánh Đạo chứ không phải Ngoại Cảnh.
Vì Không Kiến Tánh Khổ Tập Diệt Đạo mà kẻ Phàm phu hiểu biết sai lạc: Khổ, Nguyên Nhân Khổ, Sự Chấm Dứt Khổ thường hằng, thường trú nơi Thế Giới Ngoại Cảnh và Con Đường Chấm Dứt Khổ là thay đổi Thế Giới Ngoại Cảnh.
7 - KIẾN TÁNH PHÁP VÔ VI:
Cần phải hiểu rõ có hai loại pháp: Hữu vi là pháp do duyên khởi và Vô vi là không có pháp hữu vi đó. Ví như khi biết rõ trên bàn có CUỐN SÁCH thì đối tượng được biết, CUỐN SÁCH là PHÁP HỮU VI. Khi cuốn sách đó bị thiêu huỷ đi thì cũng biết rõ KHÔNG CÓ CUỐN SÁCH, và đối tượng được biết, KHÔNG CÓ CUỐN SÁCH là PHÁP VÔ VI. Khi bị đau răng khổ khởi lên và người đó biết KHỔ đang có mặt và đối tượng được biết, KHỔ, là PHÁP HỮU VI. Khi lành bệnh thì cũng biết rõ Khổ không có mặt, KHỔ DIỆT và đối tượng được biết, KHỔ DIỆT, là PHÁP VÔ VI. Khổ có thể thường hay vô thường, hữu ngã hay vô ngã, là nội tâm hay ngoại cảnh và nhiều tính chất khác được trình bày tuỳ theo sự hiểu biết là Minh hay Vô Minh nhưng Khổ Diệt, Niết Bàn là vắng mặt Khổ thì cũng hoàn toàn vắng mặt tất cả những tánh chất đó của Khổ, kể cả những hiểu biết đúng hay sai về Khổ. Khổ Diệt, Niết Bàn là Pháp Vô Vi là vắng mặt Khổ, vắng mặt Pháp Hữu Vi thì cũng vắng mặt, không có mọi khái niệm liên quan tới Pháp Hữu Vi, vì thế nó là Sự TRỐNG KHÔNG TUYỆT ĐỐI. Niết Bàn Vô Dư là sự trống không tuyệt đối, trống không Sắc Thọ Tưởng Hành Thức cùng những tánh chất Duyên khởi, Vô thường, Vô ngã của nó, trống không khái niệm Thường Lạc Ngã Tịnh hay Thường Lạc Vô Ngã Tịnh. Chỉ những ai có được hiểu biết như thật Nguyên Nhân Khổ là Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái, Sự Chấm Dứt Khổ hay Niết Bàn là Chấm Dứt Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái , mới có thể hiểu được và chấp nhận không sợ hãi: Niết Bàn Vô Dư là sự TRỐNG KHÔNG TUYỆT ĐỐI.
CUỐI CÙNG:
Các Tánh Chất này của cả pháp Hữu vi và Vô vi phải được Nghe Giảng hoặc Tự Đọc và Tư Duy kỹ càng, sâu sắc. Đó là Văn Tuệ và Tư Tuệ. Nhưng những kiến thức này được Văn và Tư tiếp nhận sẽ được lưu vào kho chứa dưới dạng thông tin với tên gọi là Minh, chỉ là bước chuẩn bị (gọi là Bát Chánh Đạo hiệp thế). Khi tu tập, Bát Chánh Đạo siêu thế khởi lên, trong đó: Chánh Niệm sẽ kích hoạt những thông tin Minh, Kiến Tánh này lên để Chánh Tư Duy so sánh, đối chiếu thông tin về đối tượng vừa Nhận Biết với thông tin Minh, Kiến Tánh được Chánh Niệm kích hoạt. Do Chánh Tư Duy mà sẽ phát sinh Ý thức Chánh Tri Kiến, Biết Như Thật đối tượng. Do Biết Như Thật đó là Minh, là Trí Tuệ, là Kiến Tánh nên kinh nghiệm được Tuệ Giải Thoát, xoá bỏ, đoạn tận Vô Minh, đưa đến quả A La Hán, là giải thoát tối hậu. Vì vậy KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT xẩy ra theo lộ trình VĂN - TƯ - TU.