Nhà xuất bản Hội Nhà Văn

Nhà xuất bản Hội Nhà Văn Nhà xuất bản Hội Nhà Văn
Tell: 024 38222135 / 098 3413042
65 Nguyễn Du, Hai Bà Trưng, Hà Nội
(1)

Người ta thường nói sách là kho tàng tri thức, nhưng thầy cô chính là chiếc chìa khóa vàng mở ra kho tàng ấy!📖Nhân ngày ...
20/11/2025

Người ta thường nói sách là kho tàng tri thức, nhưng thầy cô chính là chiếc chìa khóa vàng mở ra kho tàng ấy!
📖
Nhân ngày 20/11, NXB Hội Nhà văn xin gửi ngàn lời tri ân đến những người gieo mầm tri thức. Chúc các thầy cô luôn mạnh khỏe, bình an và luôn tìm thấy niềm vui trong từng ánh mắt học trò. 💐

—————
Tranh: NQT, 2020

__ NGƯỜI ĐẦU BẾP CHO QUÂN ĐỘI PHÁP☘️ Ông từ Pháp trở về làng và không bao giờ ra khỏi làng mình cho tới khi chết. Quả th...
20/11/2025

__ NGƯỜI ĐẦU BẾP CHO QUÂN ĐỘI PHÁP☘️

Ông từ Pháp trở về làng và không bao giờ ra khỏi làng mình cho tới khi chết. Quả thực tôi không thể nào tin được chuyện ấy. Thi thoảng tôi vẫn hỏi cha tôi có thực là ông không ra khỏi làng mình suốt mấy chục năm không. Cha tôi khẳng định việc đó là thực. Tôi đã từng tự cắt nghĩa xem vì sao ông lại có thể ở trong làng lâu như thế. Nhưng tôi chưa bao giờ cắt nghĩa được việc này.

Ông từ Pháp trở về làng năm ba mươi ba tuổi và mất ở tuổi tám mươi mốt. Nghĩa là ông đã không bước chân ra khỏi làng ngót 50 năm. Vì ông làm bếp nên người làng gọi ông là ông Bếp. Và cho đến khi chết, người làng vẫn dùng cái tên đó như là tên cúng cơm của ông. Người ta hầu như đã quên hẳn tên thật của ông. Tôi cũng không nhớ tên thật của ông. Nhưng tôi nghĩ điều đó cũng chẳng có ý nghĩa gì quan trọng lắm. Bởi ông đã có một cái tên rất thân thuộc và ám ảnh với ít nhất một người là tôi.

Năm hai mươi tuổi ông bị Pháp bắt đi lính. Vì có tài nấu ăn nên ông được phân công làm bếp cho một đơn vị lính Pháp. Rồi ông theo quân đội Pháp đi chinh chiến ở một số nước Châu Phi. Gọi là đi chinh chiến nhưng ông chỉ làm mỗi việc nấu ăn. Lúc đầu ông nấu cho lính người Việt và lính người Châu Phi. Sau đó ông được phân công nấu cho lính Pháp da trắng. Rồi ông được phân công nấu cho các sỹ quan chỉ huy người Pháp. Tất cả chỉ vì tài nấu ăn của ông quá điệu nghệ. Tay ông chạm vào thứ gì thì thứ đó đều trở thành cao lương mỹ vị. Nghe nói một sỹ quan cao cấp của Pháp có ý đưa ông về Paris làm đầu bếp cho một nhà hàng của gia đình ông ta. Nhưng ông đã từ chối. Năm 1954, đất nước hòa bình, ông đã lãnh đạo một số anh em binh lính người Việt phát động phong trào đòi về nước. Cuối cùng quân đội Pháp phải đồng ý cho một số binh lính người Việt trở về tổ quốc.

Sau khi làm xong mọi thủ tục khai báo với Chính quyền mới, ông xin được về quê sinh sống. Cha tôi vẫn nhớ mãi hình ảnh lần đầu tiên khi ông trở về làng. Ông đội mũ phớt, khoác áo ba-đờ-xuy có một dãy cúc đồng to sáng loáng, đi ủng da và miệng ngậm tẩu. Những năm tháng sau này, tôi thường đến nhà ông chơi. Tôi vẫn nhìn thấy chiếc mũ phớt ông treo trên tường cùng chiếc áo ba-đờ-xuy có dãy cúc đồng sáng loáng. Bọn trẻ con chúng tôi hay yêu cầu ông mặc áo ba-đờ-xuy, đôi mũ phớt và ngậm tẩu thuốc cho chúng tôi xem. Khi trong bộ trang phục như thế, ông trở thành một nhân vật kỳ bí và đầy kính nể của lũ trẻ con chúng tôi. Trong khi chúng tôi thường xuyên quấn quýt bên ông để nghe ông kể những câu chuyện kỳ lạ về xứ Châu Phi thì một vài ông bố bà mẹ luôn luôn dọa: “Chúng mày liệu hồn. Ông ta là gián điệp cho Pháp đấy”. Nhưng chẳng lời đe dọa nào thắng được sự quyến rũ của những câu chuyện về xứ Châu Phi xa xôi mà chúng tôi chẳng hề biết ở đâu trên thế gian quá rộng lớn này.

Ông Bếp trở về quê nhưng không làm ruộng như một người nông dân. Ông làm một số loại bánh quy và kẹo mạch nha bán cho trẻ con trong làng và thả vẹ bắt cá chép sông. Buổi tối ông mang những chiếc vẹ ông tự đan bằng tre ra sông thả, Sáng hôm sau ông lại ra nhấc vẹ sớm và bán cá cho một số người buôn cá đi chợ sớm. Thi thoảng ông nấu một món ăn của người Pháp và sai đứa cháu mang vào cho cha tôi. Tôi được ăn nhiều món ông nấu. Nhưng món ăn ông nấu mà tôi nhớ nhất là món thỏ rôti. Tôi chỉ được ăn món đó một lần và cho đến bây giờ tôi cũng chưa có dịp nào được thưởng thức lại. Ông rất quý cha tôi vì có lẽ cha tôi là một trong rất ít người hiểu ông, bênh vực ông mỗi khi có những lời đồn đại của một số người làng về nhân thân ông. Ông về làng nhưng không lấy vợ. Ai gợi ý hay giục ông lấy vợ thì ông chỉ cười lặng lẽ mà chẳng nói gì.

Người ta đồn ông đã có một bà vợ đầm và có con. Có người lại bảo có vợ đầm và có con thì về làng làm gì, sao không ở lại Pháp cho sướng. Lại có người nói vì đi làm gián điệp thì mới bỏ vợ bỏ con bên Pháp chứ. Những lời đồn như vậy ông nghe được hết. Những lúc như thế đôi mắt ông rất buồn nhưng miệng vẫn cười.

Mấy năm đầu sau khi trở về từ Pháp, đôi lúc ông cũng mặc áo ba-đờ-xuy và đội mũ phớt khi có việc hoặc trong những ngày Tết. Sau này thì ông bỏ hẳn vì không ít người làng nói bóng nói gió khi ông đi qua. Nhưng thi thoảng ông vẫn mặc áo và đội mũ và ngồi im lặng trên một chiếc ghế gỗ cổ đã thay lưng tựa vì bị gãy trong ngôi nhà lúc nào cũng loang lổ bóng tối. Không phải ông luyến tiếc những ngày làm đầu bếp cho quân đội Pháp mà ông hồi tưởng về những miền đất ở xứ Châu Phi mà ông đã sống gần mười năm ở đó với bao chuyện buồn vui.

Vào những năm cuối đời ông nhiều bệnh tật. Những ngày mùa đông ông suốt ngày ngồi bên bếp lửa. Lúc đó dù cho ai nói gì đi chăng nữa thì ông cũng vẫn mặc chiếc áo ba-đờ-xuy và đội chiếc mũ phớt vì đó là những thứ vô cùng cần thiết cho sức khỏe ông trong mùa đông. Đôi lúc ông cầm chiếc tẩu không có thuốc và hút nhè nhẹ. Đôi khi ông lại đưa cái tẩu lên mũi hít nhẹ. Ông nhớ mùi thuốc tẩu. Ngày đó làm sao mà kiếm được loại thuốc hút tẩu. Ngày ông mất, những người thân mặc chiếc áo ba-đờ-xuy có dãy cúc đồng sáng loáng và đội chiếc mũ phớt cho ông. Họ cũng không quên để vào lòng bàn tay giá lạnh và khô cứng của ông chiếc tẩu hút thuốc. Với lũ trẻ con chúng tôi ngày ấy, ông ra đi là mang theo cả một kho những câu chuyện về xứ Châu Phi kỳ lạ.

Khoảng mươi năm trước, một người cháu của ông ra tận thị xã Hà Đông tìm tôi để nhờ một việc. Anh nghe nói Sứ quán Pháp có trả lương cho một số người làm cho Chính quyền và quân đội Pháp trước kia. Anh đưa cho tôi xem một nắm giấy tờ bằng tiếng Pháp. Đó là những giấy tờ chứng thực thời gian ông làm cho quân đội Pháp ở Châu Phi với nghề nghiệp đầu bếp. Tôi có một người bạn thân có một người quen hồi đó làm trong Sứ quán Pháp. Thực lòng tôi không muốn anh làm thế nhưng tôi vẫn phải mang nắm giấy tờ đã ố vàng để nhờ bạn tôi giúp. Làm thế thôi chứ tôi không tin có chuyện như vậy. Và tôi càng không tin ông Bếp nếu còn sống sẽ để cho người cháu làm những gì anh đang làm. Ông đâu cần tiền như thế. Ông đã sống gần hết đời mà không một lần đi ra khỏi làng. Ông chẳng có nhu cầu gì ngoài việc thi thoảng ngồi im lặng và nhớ về những miền đất xứ Châu Phi ông đã từng sống như tôi nhớ về những miền đất thế gian này mà tôi đã từng đi qua. Cuối cùng mọi chuyện đúng như tôi nghĩ. Bạn tôi trả lại có tôi nắm giấy tờ và lắc đầu.

Tôi có dịp đi nhiều nơi trên thế gian này nhưng vẫn ao ước có một ngày đến được những miền đất xứ Châu Phi kỳ lạ mà ông Bếp đã kể cho chúng tôi. Con người ông tôi biết nhiều chuyện và hiểu ông khá nhiều. Nhưng có một chuyện tôi vẫn không làm sao hiểu được cho tới lúc đang ngồi viết những dòng này là vì lý do gì mà ông không ra khỏi làng mình trong suốt mấy chục năm trời kể từ khi trở về (?).
_______________

Chùa đang chuẩn bị cho lễ trao giải cuộc thi "Thơ ca & Nguồn cội" lần thứ 3. Trong chuỗi các hoạt động chuẩn bị cho sự kiện, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã viết một vài chân dung về người làng Chùa để những ai quan tâm có thể hiểu thêm về ngôi làng này. Những chân dung về người Làng Chùa được rút từ tập bản thảo "HỒI TƯỞNG VỀ NHỮNG NGƯỜI ĐÃ KHUẤT" của tác giả Nguyễn Quang Thiều, sắp tới tác phẩm sẽ được xuất bản.

: Nguyễn Quang Thiều; năm sáng tác: 2021.

__ Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn 🧡

__ "Nơi vùng quê bề ngoài rất yên tĩnh này, vừa có những người ngơ ngác dại khờ, những người thật thà như đếm, nhưng cũn...
19/11/2025

__ "Nơi vùng quê bề ngoài rất yên tĩnh này, vừa có những người ngơ ngác dại khờ, những người thật thà như đếm, nhưng cũng có những kẻ đủ mưu ma chước quỷ, không mấy khi ngồi yên và cũng không để cho người khác ngồi yên. Cũng có đủ cảnh bon chen để giành một cái ghế ngồi không to hơn cái vẩy ốc, chen một chỗ đứng không cao hơn cái đế dép hàng ngày."

- Trích "Mảnh đất lắm người nhiều ma " của Nguyễn Khắc Trường ☘️

__ Tiểu thuyết MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA do NXb Hội Nhà Văn xuất bản và phát hành; tác phẩm chính thức ra mắt độc giả vào ngày 01/11/2025. Đặc biệt, tranh bìa và phụ bản trong phiên bản mới nhất này do Hoạ sĩ Thành Chương minh hoạ; đảm nhiệm thiết kế: Mạc Phương...

__ BẠN ĐỌC ĐẶT SÁCH vui lòng liên hệ:

🪻 Link đặt sách "MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA" của tác giả Nguyễn Khắc Trường:

https://nxbhoinhavan.vn/san-pham/manh-dat-lam-nguoi-nhieu-ma/

🪻 Gọi số điện thoại:

🌞Trang Thụy: 0976168808
🌞 Việt Hưng: 0983413042

🪻Mua trực tiếp tại:

Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 65 Nguyễn Du, P. Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội.

__ NXB Hội Nhà Văn 🧡

__ NGƯỜI ĐÀN BÀ HÀNG XÓM☘️  Năm mười hai tuổi, tôi ốm thập tử nhất sinh. Tôi chỉ còn đủ sức bò lẩy bẩy trên giường và th...
19/11/2025

__ NGƯỜI ĐÀN BÀ HÀNG XÓM☘️

Năm mười hai tuổi, tôi ốm thập tử nhất sinh. Tôi chỉ còn đủ sức bò lẩy bẩy trên giường và thích nhai những sợi chiếu cũ. Một buổi tối, sân nhà tôi rực rỡ những ngọn đèn dầu của họ hàng, làng xóm đến thăm. Tôi nằm bệt trên giường không đủ sức ngồi dậy. Nhưng tôi vẫn nghe mơ hồ có tiếng cưa, tiếng đục và tiếng nức nở của ai đó. Sau này tôi mới biết, đếm ấy cha tôi và một vài người đàn ông họ Nguyễn quyết định đóng áo quan cho tôi. Không ai nghĩ tôi có thể sống quá ba ngày nữa. Nhưng tôi đã sống dài hơn ba ngày cho đến tận bây giờ.

Một người đàn bà hàng xóm của tôi thi thoảng đi đò qua sông Đáy vào những bản người Mường giáp tỉnh Hoà Bình buôn bán lặt vặt đã mang về cho mẹ tôi hai nắm lá thuốc của người Mường. Bà đã nói với một bà Lang Mường về tôi. Bà Lang Mường nhìn bà rất lâu với đôi mắt ái ngại. Nhưng người đàn bà hàng xóm của tôi tha thiết xin bà cắt cho cậu bé hàng xóm đang ốm sắp chết mấy thang thuốc. Bà Lang Mường thở dài kín đáo và lấy hai nắm lá đưa cho người đàn bà hàng xóm. Mẹ tôi xao vàng rồi hạ thổ hai nắm lá cho tôi uống. Và như một phép lạ, uống hết hai nắm lá, tôi ngồi dậy và bắt đầu đòi ăn. Mẹ tôi khóc vì mừng. Người đàn bà hàng xóm vội qua sông lấy thêm ba nắm lá thuốc nữa cho tôi. Uống hết ba nắm lá thuốc ấy, tôi ra ngõ chơi. Tôi thoát chết và sống đến bây giờ. Người đàn bà ấy tôi gọi là mợ Các.

Một năm sau, mợ Các đổ bệnh, da vàng như nghệ, tóc rụng hết. Cho đến gìờ tôi cũng không biết mợ bị bệnh gì. Thi thoảng tôi ghé qua nhà mợ xem mợ có nhờ tôi giúp gì không. Trong ngôi nhà vách đất, lợp rạ tan hoang như một túp lều, mợ mở đôi mắt bàng bạc trên khuôn mặt vàng như nghệ nhìn tôi. Không phải mợ nhìn tôi mà mợ đang quan sát tôi. Rồi mợ Các ra đi vĩnh viễn. Lúc ấy tôi còn nhỏ, cho nên việc mợ Các ra đi chỉ làm tôi chông chênh một thời gian ngắn. Nhưng bây giờ, những buổi tối về quê ngồi một mình trong tiếng chó sủa, tôi không lúc nào không nghĩ về mợ.

Mợ chỉ có một người con trai tên là Các nên gọi là mợ Các. Tên của mợ là gì tôi không biết. Năm 1954, chồng mợ di cư vào Nam. Ông là lính của quân đội Pháp. Lúc ấy mợ còn rất trẻ, nhưng ở vậy và không đi bước nữa. Bao nhiêu người đàn ông đến xin cưới mợ. Lần nào mợ cũng chỉ nói: “Tôi là gái có chồng. Chồng tôi đi vắng. Chồng tôi sẽ trở về. Sao lại dám hỏi tôi làm vợ”. Nói có vẻ cứng rắn vậy nhưng khi những người đàn ông quay đi thì mợ khóc. Mợ cứ vừa cứng rắn vừa khóc âm thầm như thế và biến mất trên cõi đời này. Sau khi mợ mất thì anh Các bỏ nhà đi làm công nhân cầu đường. Ba năm sau anh Các trở về làng lấy vợ và ở lại làng làm ruộng và sinh sống. Rồi anh bị bệnh tâm thần. Họ hàng anh phải xích chân anh lại vì sợ anh bỏ đi không biết đường về. Nhưng một ngày vợ anh cởi xích để tắm cho anh. Anh bỏ trốn và từ đó đến giờ không ai còn thấy anh nữa. Vợ con và họ hàng anh đã từng đến nhiều nhà thương điên để tìm anh nhưng anh vẫn biệt tăm. Và sau gần hai mươi năm chiến tranh kết thúc, chồng mợ trở về. Tôi đã ngồi ăn cơm cùng ông với cha mẹ tôi. Ông trở về và gần như chẳng còn gì nữa ở nơi ông sinh ra và lớn lên. Vợ ông đã mất và con trai ông bị bệnh tâm thần bỏ nhà đi. Trong một đêm mùa hạ nhiều muỗi, cha tôi đã kể lại cuộc đời của mợ cho người chồng nghe. Người đàn ông trở về nhưng không hé lộ một chút gì về cuộc đời mình trong mấy chục năm lưu lạc. Ông đi thăm họ hàng làng xóm rồi trở về Nam. Không biết bây giờ ông còn sống hay đã mất. Những câu chuyện như thế chẳng bao giờ nguôi trong lòng tôi. Những câu chuyện ấy thi thoảng lại vang lên trong căn buồng ẩm tối trong ngôi nhà của ông bà tôi để lại như những tiếng thì thầm không bao giờ dứt.

Trong nhiều năm sau ngày anh Các bỏ nhà, đi đâu thấy một người đàn ông điên bẩn thỉu lang thang trên đường hay trần truồng nằm ngủ dưới một gốc cây, tôi đều đến gần nhìn xem có phải anh Các không. Biết rằng bệnh anh không thể chữa khỏi nhưng trong lòng tôi vẫn khao khát làm một việc gì đó dù rất nhỏ cho anh. Tôi muốn nói với người mẹ sinh ra anh - mợ Các - rằng: tôi mang ơn bà. Đã có lúc tôi nghĩ, bà cứu mạng tôi và bà phải ghánh chịu khổ đau. Tôi không làm được điều bé nhỏ mà tôi khao khát. Nhưng tôi luôn mang trong lòng mình khát vọng ấy. Lúc nào nghĩ vậy, đầu tôi cũng loé lên hình ảnh mợ nhìn tôi cười mãn nguyện. Có một buổi chiều giá lạnh sau ngày mợ mất, anh Các bắt được một con cá diếc ngoài đầm cá của ao Hợp tác xã nông nghiệp. Anh ôm con cá chạy về nhà. Những người bảo nông phát hiện và đuổi theo anh. Họ đạp anh ngã xuống sân và lấy lại con cá. Tôi lẻn vào nhà anh và thấy anh không áo quần đang nằm trong một cái ổ rơm. Quần áo anh bị ướt hết khi lội xuống đầm bắt cá. Người anh gầy dơ xương đang run lên bần bật. Anh nhìn tôi. Đôi mắt của một chàng trai mới mười tám, mười chín tuổi như hai ngọn đèn dầu vừa bị thổi tắt. Tôi đã khóc.

Cho đến lúc này, khi viết những dòng chữ về chiều mùa đông xa xăm ấy, nước mắt tôi lại giàn dụa chảy. Nhưng ngày đó tôi chỉ là một cậu bé. Tôi không làm gì để có thể giúp anh. Mẹ tôi kể trong những ngày anh Các bị bệnh tâm thần thi thoảng lại rú lên, hai tay ôm chặt đầu sợ hãi. Người làng bảo anh nhìn thấy ma doạ đánh anh. Tôi không nghĩ đến ma. Lúc nào nghe chuyện đó tôi cũng thấy trong tôi hiện lên những người bảo nông của Hợp tác xã đạp anh ngã xuống đất và đòi lại con cá. Một con cá diếc dù sống quá lâu trong ao đầm thì cũng không to hơn bàn tay. Những năm tháng đói khát, đau buồn và tội nghiệp đã đi qua làng tôi và bao làng quê khác. Cái đói giờ hầu như không còn. Nhưng hình ảnh bi thương ấy mãi mãi như ngọn gió của những ngày đông giá thổi qua lòng tôi. Và tôi vẫn không làm sao dứt ra khỏi máu thịt mình hình ảnh bi thương đó.

Lần cuối cùng anh Các bỏ nhà ra đi có lẽ đã hơn mười lăm năm. Mọi người tin anh đã mất. Vợ con anh lấy ngày anh ra đi làm ngày giỗ. Nhưng sao tôi vẫn không nghĩ anh đã chết cho dù tôi chẳng có căn cứ nào cho lòng tin ấy. Mặc dù tôi mong anh đừng sống thêm ngày nào nữa. Bởi sống như thế chắc chắn là một sự đày đoạ. Nhưng liệu anh có biết đó là sự đày đoạ không. Hay anh là người thực sự mộng du không thể hồi tỉnh. Hay anh là người được ban cho cơn mộng du vô tận ấy để đi qua những đau buồn của cõi đời này. Bởi đối với những người mang cơn mộng du ấy thì đói không phải là đói, khát không phải là khát và đau không phải là đau. Hay anh là kẻ lạc đường và không bao giờ tìm thấy lối trở về như nhiều người mà họ lại không bao giờ tin rằng họ đã lạc đường.

- N.Q.T☘️

_______________

Chùa đang chuẩn bị cho lễ trao giải cuộc thi "Thơ ca & Nguồn cội" lần thứ 3. Trong chuỗi các hoạt động chuẩn bị cho sự kiện, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã viết một vài chân dung về người làng Chùa để những ai quan tâm có thể hiểu thêm về ngôi làng này. Những chân dung về người Làng Chùa được rút từ tập bản thảo "HỒI TƯỞNG VỀ NHỮNG NGƯỜI ĐÃ KHUẤT" của tác giả Nguyễn Quang Thiều, sắp tới tác phẩm sẽ được xuất bản.

: Nguyễn Quang Thiều; năm sáng tác: 2018.

__ Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn 🧡

__ “Chất vấn thói quen” - tác giả Phan Hoàng và cuộc gặp gỡ tại Phú Thọ☘️Chiều ngày 16.11.2025, tại Phú Thọ, nhà thơ Pha...
18/11/2025

__ “Chất vấn thói quen” - tác giả Phan Hoàng và cuộc gặp gỡ tại Phú Thọ☘️

Chiều ngày 16.11.2025, tại Phú Thọ, nhà thơ Phan Hoàng đã có buổi giao lưu – tặng sách đầy ý nghĩa với văn nghệ sĩ, bạn đọc Phú Thọ nhân sự kiện tập sách “Chất vấn thói quen” do Nxb Hội Nhà Văn xuất bản được tái bản lần thứ 2 (11/2025).

Nhà thơ Lê Va, tân Chủ tịch Hội VHNT tỉnh Phú Thọ, Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Phú Thọ coi sự kiện giao lưu này là hoạt động nghề nghiệp đầu tiên của Hội VHNT Phú Thọ trong nhiệm kỳ mới. Điều này thể hiện sự coi trọng đối với cá nhân Phan Hoàng và đề cao tinh thần đổi mới, cách tân trong hoạt động văn học nghệ thuật.

Với Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM, Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012 và gần đây nhất là Giải thưởng Nghệ thuật Danube – Hungary năm 2023, ở lần tái bản này “Chất vấn thói quen” – Tác phẩm thơ & tiếng nói tri âm” (NXb Hội Nhà văn, 2025) của tác giả Phan Hoàng càng khẳng định sức sống, giá trị vượt thời gian và khả năng ra với quốc tế của tập thơ.

Nói về sức sáng tạo và thể nghiệm của Phan Hoàng, nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế nhấn mạnh: “Làm nghề này, sung sướng nhất không phải là sự tán dương của đám đông mà là sự thừa nhận của đồng nghiệp. Bản chất của thơ là phải say mới thăng hoa. Tỉnh táo không bao giờ ra thơ được cả.”

Nhà phê bình Hoàng Liên Sơn bày tỏ ấn tượng về tiêu đề mang tính triết lý của tập thơ, chỉ ra sự trăn trở của tác giả về thân phận và sứ mệnh người viết: “Trong bài ‘Chất vấn thói quen’, 9 câu nói về thói quen, 1 câu về thay đổi. Thắng quán tính thói quen là vô cùng khó. Tác giả rất trăn trở về sứ mệnh người viết và mình đang ở đâu.”

Đọc “chất vấn thói quen” từ buổi đầu, nhà thơ Nguyễn Quyến cho rằng, “tôi thấy một cuộc chiến khắc khoải của Phan Hoàng”.

… bỏ đi bỏ đi bỏ đi…

Nhiều khi mắc cười tôi chất vấn tôi

tại sao con người cứ tự đánh lừa mình bằng những thói quen

không học nổi con sông biết thích nghi đổi dòng băng băng về phía trước?

(Chất vấn thói quen)

Với nhà thơ Đặng Huy Giang, ông coi đây là một chỉ dấu cho một xuất phát mới trong thơ Phan Hoàng. Chính sự “mắc cười” và tự chất vấn mình (cũng là chất vấn thói quen) đã giúp Phan Hoàng thay đổi và chuẩn bị cho mình một xuất phát mới. Rồi cũng từ xuất phát này mà anh thay đổi nhận thức, thay đổi tư duy trong thơ”.

Vượt lên lời khen tặng, đây là sự công nhận cho những đóng góp bền bỉ của nhà thơ Phan Hoàng trong việc mở lối, tạo ra một sân chơi mới, một hình thức thể nghiệm mới cho thi ca đương đại. Cuộc gặp gỡ khép lại, tinh thần “Chất vấn thói quen” thì vẫn còn đọng lại. Đó là lời nhắc nhở đối với mỗi người viết về trách nhiệm không ngừng nghỉ trong việc tìm tòi, đổi mới, và quan trọng nhất là phải có chí hướng rõ ràng trên con đường sáng tạo.
_________________

VÀI NÉT VỀ NHÀ THƠ PHAN HOÀNG

Phan Hoàng tên thật là Phan Tấn Hùng, sinh 10/10/1967 (Đinh Mùi) tại bán đảo Đông Tác, cuối dòng sông Đà Rằng (hạ nguồn sông Ba) thuộc thành phố Tuy Hòa (Phú Yên); tốt nghiệp chuyên ngành ngôn ngữ Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, từng làm phóng viên – biên tập viên Tạp chí Kiến thức ngày nay, chủ biên tờ Đương thời, Phó Chủ tịch Thường trực Hội kiêm Chủ tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh khoá VII (2015-2020), Chủ biên Website nhavantphcm.com.vn. Từ đầu năm 2015, nhà thơ Phan Hoàng là Chủ nhiệm Văn phòng miền Nam của Báo Văn nghệ thuộc Hội Nhà văn Việt Nam, Giám đốc – TBT Van.vn…

Thơ Phan Hoàng xuất hiện lần đầu tiên trên Tạp chí Kiến thức ngày nay và Báo Thanh niên vào những năm 90 của thế kỷ trước, ngay khi anh còn là sinh viên. Anh là nhà thơ cùng lứa với các cây bút: Hữu Việt, Nguyễn Bảo Chân, Đỗ Thị Tấc, Lương Ngọc An, Trần Kim Hoa, Nguyễn Bình Phương… Tính đến nay, anh đã xuất bản hơn 10 đầu sách.

Ngoài 4 tập thơ: Tượng tình, Hộp đen báo bão, Chất vấn thói quen, Bước gió truyền kỳ, anh còn có đến nhiều cuốn sách độc đáo khác: Phỏng vấn tướng lĩnh Việt Nam (3 tập, tái bản lần 4), Phỏng vấn Người Sài Gòn (2 tập), Phỏng vấn Người Hà Nội (2 tập, tái bản 2 lần)… Trong đó, anh là người đi đầu và có công sớm gặp gỡ, phỏng vấn, thể hiện chân dung các nhân vật tướng lĩnh rất có hệ thống, tạo nguồn cảm hứng cho nhiều bộ hồi ký của các tướng lĩnh ra đời. Đặc biệt, anh là người khởi xướng thể thơ 1-2-3, một lối viết đang được các nhà thơ hưởng ứng và ngày càng lan tỏa.

– Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn*

__ MỘT NGƯỜI CỔ XƯA CÒN SÓT LẠI ☘️Cứ khi nào tôi nghĩ về bà nội tôi thì tôi lại nghĩ đến bà. Tên bà là Xuýt. Bà là em họ...
18/11/2025

__ MỘT NGƯỜI CỔ XƯA CÒN SÓT LẠI ☘️

Cứ khi nào tôi nghĩ về bà nội tôi thì tôi lại nghĩ đến bà. Tên bà là Xuýt. Bà là em họ của bà nội tôi. Bà lấy chồng ở một làng chỉ cách làng tôi một cánh đồng. Bởi thế, khi bà nội tôi còn sống, bà Xuýt thường lên thăm bà tôi và ở lại chơi có khi đến nửa tháng.

Cũng như bà nội tôi, bà Xuýt là người không biết chữ. Và có lẽ trong cuộc đời của mình, bà không biết đến bất cứ điều gì ngoài một người chị họ là bà nội tôi và một con đường duy nhất trong cuộc đời, con đường chạy từ làng bà qua cánh đồng đến làng tôi. Chưa bao giờ tôi xác định được tuổi của bà. Lưng bà còng và nằm song song với mặt đất. Tôi cũng không hiểu vì sao bà lại bé nhỏ như thế. Nhiều lúc tôi nghĩ bà chỉ bé bằng một con gà mái. Đoạn đường chạy qua cánh đồng chỉ chừng một cây số nhưng có lần bà đi từ khi gà gáy đến tối mịt mới lên đến nhà tôi. Không phải bà đi chậm mà không nghĩ tới nơi bà đang đến. Thế giới xung quanh bà đã luôn luôn mời gọi bà ngồi xuống và trò chuyện với chúng cho đến khi nào bà thấy cần phải đứng dậy đi thì thôi. Tôi đã từng nhìn thấy bà trên con đường chạy qua cánh đồng. Bà đi chậm rãi như một con ốc sên đang bò. Có lúc tôi nghĩ bà là một con ốc sên khổng lồ. Vì lưng bà còng nằm song song với mặt đất nên hình như bà không nhìn về phía trước. Nhưng bà vẫn nhớ từng chỗ rẽ của con đường. Những con đường đã nằm trong trí nhớ bà hay nó là chính bà mà bà không bao giờ lạc đường.

Răng bà đã rụng hết không còn một chiếc nào. Chính vì thế mà mặt bà nhỏ hơn. Một gương mặt kỳ lạ với những nếp nhăn xếp đều từng lớp làm tôi cảm tưởng mặt bà lợp bằng những nếp nhăn đó. Khi ăn cơm, bà không dùng đến đũa. Bà lấy tay vê những hạt cơm thành một viên cơm tròn nhỏ và đưa vào miệng nuốt như người ta nuốt thuốc viên. Bà ăn như một con gà mái ăn từng hạt ngô và chẳng cần mắm muối, chẳng cần thịt cá. Với bà, sự đa dạng của ẩm thực chẳng có ý nghĩa gì. Đã có lúc tôi nghĩ bà sống bản năng như một đa bào. Nhưng ý nghĩ đó bị đánh gục ngay sau khi tôi nhìn bà ôm bà nội tôi kể những câu chuyện thời nhỏ của hai người và bà biết dùng những lời lẽ thật ngọt ngào để an ủi bà nội tôi khi bà nội tôi bị ốm.

Mỗi lần lên thăm bà nội tôi, bà không bao giờ chịu ngủ trên giường. Tối tối mẹ tôi chuẩn bị giường chiếu cho bà và ép bà lên giường ngủ. Nhưng chỉ sau đó bà lại bỏ giường xuống ngồi ở góc nhà lưng tựa vào tường. Bà ngồi ngủ ở góc nhà suốt đêm. Sau này tôi biết bà đã ngủ như thế từ khi còn nhỏ. Gia đình bà quá ngèo và quá đông con, không có gạo ăn, không có giường ngủ từ khi còn bé. Bà đã ăn khoai lang hàng năm liền và ngủ trong góc nhà suốt từ bé cho đến lớn. Và thế là những điều kiện vật chất không thay đổi được thói quen của bà. Có buổi tối tôi nhìn thấy hai đôi mắt bà sáng như hai hòn than củi trong góc nhà tối đen. Tôi giật mình sợ hãi. Bà cười khành khạch. Sau đó bà mắng tôi: “Cha bố mày, bà chứ ma đâu mà mày sợ ”. Vào những ngày có nắng hanh trong mùa đông, bà nội tôi và bà ra sân ngồi bắt chấy cho nhau. Hai người đàn bà già nua trải chiếc khăn thâm ra nền sân và bắt những con chấy bỏ vào đó. Thi thoảng bà lại gọi tôi và bảo: “Mày đếm cho bà được mấy con chấy rồi”. Hồi ấy, khi tuốt trứng chấy, những người đàn bà thôn quê thường đưa cái trứng chấy vào miệng và cắn một tiếng rất giòn. Bà là người kiên trì dạy tôi cắn trứng chấy. Hồi đó tôi không biết làm thế nào mà bà cắn trứng chấy nổ giòn như thế mặc dù bà chẳng còn chiếc răng nào. Gọi là cắn trứng chấy nhưng thực ra chỉ là cách người ta nẩy lưỡi cho nó phát ra tiếng nổ chứ trứng nào mà nổ như thế. Tôi học mãi mà không cắn được giòn và bà lại mắng tôi: “Cắn cái trứng chấy mà cũng không nổ, sau này mày chẳng làm được gì ra hồn”. Lời bà như lời của một nhà tiên tri. Tôi đã sống trên thế gian này 50 năm mà nghĩ đi nghĩ lại thấy đúng là mình chẳng làm được gì cho ra hồn.

Những chuyện tôi đang viết đây mới chỉ là chuyện của hơn bốn mươi năm về trước. Nhưng nó mang không khí của một thời đã quá xa xăm. Nó như từ những thế kỷ trước. Tôi hoàn toàn tin rằng, nếu bà sống cho đến tận ngày nay, trong thời đại có quá nhiều biến động và có quá nhiều điều kiện vật chất thì bà vẫn sống như vậy. Bà sống như chẳng liên quan gì đến mọi thay đổi và đau khổ xung quanh. Nhiều lúc bà ngồi trước một gốc cây và cứ thế trò chuyện. Có lúc đang nói chuyện bà bật khóc hu hu và có lúc lại cười khành khạch như một đứa trẻ. Nhiều lúc tôi ước giá tôi chui vào được trong mắt bà để nhìn đời sống này xem bà nhìn nó như thế nào và thấy những gì. Hoặc là được chui vào óc bà để xem bà nghĩ gì. Tôi không bao giờ chắc chắn được bà đang nghĩ gì và nhìn một con mèo có giống tôi nhìn nó không. Nhiều lúc bà hỏi tôi nhưng tôi không hiểu bà hỏi gì. Sau này nhớ lại những lúc như thế, tôi mới giật mình hiểu ra rằng lúc đó bà đang nói chuyện với một con mèo. Nhưng không phải bà đang nói chuyện với một con mèo mà lúc đó bà nghĩ tôi là một con mèo. Tôi chắc chắn là như thế.

Ngày bà nội tôi mất, hầu hết mọi người đều khóc khi đưa tiễn bà nội tôi về nơi an nghỉ cuối cùng. Nhưng bà Xuýt không khóc. Bà đi chậm rãi như một con ốc sên bò trên đường. Và vừa bò, con ốc sên khổng lồ ấy vừa nói chuyện với người chị họ của mình và đôi lúc lại cười khành khạch. Nhiều người bảo bà tâm thần hoặc quá lẫn lộn chẳng nhớ gì cả. Nhưng cứ đến ngày giỗ bà nội tôi là bà bỏ một ngày đi qua cánh đồng lên nhà tôi từ hôm trước và hỏi mẹ tôi đã chuẩn bị lưng cơm cúng mẹ chồng chưa. Sau ngày bà nội tôi mất, thi thoảng bà lại đi bộ từ sáng sớm đến chiều tối lên nhà tôi. Bà chẳng chào hỏi ai như trước kia và cứ lặng lẽ vào căn buồng của bà nội tôi khi còn sống và làm những gì đó và nói chuyện với ai đó như chẳng có chuyện gì thay đổi. Có lúc bà đi ra thăm mộ bà nội tôi. Bà cứ ngồi bên mộ bà nội tôi và nói chuyện và hát một bài hát chẳng ra đầu ra đuôi mà tôi cũng chưa nghe thấy ai hát như thế bao giờ. Một lần, người ta thấy bà mang theo một cái bay dùng để xây nhà ra mộ bà nội tôi. Bà hí hoáy đào đất. Người làng thấy vậy gọi mẹ tôi. Mẹ tôi vội ra mộ bà nội tôi và hỏi bà đào đất để làm gì. Bà thản nhiên đáp: “Tao đào huyệt cho tao chứ đào gì nữa mà hỏi”. Mẹ tôi kéo bà về và bảo khi nào bà mất con cháu chúng nó lo chứ việc gì đến bà mà bà phải mó tay vào. Nghe vậy, bà nói người bà nhỏ, con cháu không biết cứ đào cái huyệt to như đào huyệt cho trâu thì nằm thế nào được. Bà nói bà ghét nằm ở những nơi rộng cứ trống huyếch trống hoác, rất khó ngủ.

Bây giờ thì bà chẳng còn sống nữa. Nhưng tôi cũng chưa bao giờ nghĩ bà đã chết. Tôi nghĩ vậy là do bà cứ sống thản nhiên và chết thản nhiên. Với bà, sống và chết đều giản dị như nhau. Cả đời bà chẳng hề ốm đau, chẳng hề lo lắng hay sợ hãi điều gì. Nếu bà là một Thiền sư hay là một hiền triết thì lại ra một nhẽ. Nhưng bà chỉ là một nông dân không biết chữ. Khi tôi biết bà thì tôi đã thấy bà chẳng bao giờ nói đến sự sung sướng và cũng chẳng nói đến sự khổ đau. Vậy bà là ai ? Và vì đâu bà có một cuộc sống như thế ? Tôi hoàn toàn không lý giải được con người bà. Nhưng tôi tin bà là người của cổ xưa còn sót lại bằng một cách nào đó. Và tôi chỉ biết khi nghĩ đến bà là tôi lại nghĩ đến cuộc sống mà chúng ta đang sống với quá nhiều bon chen, quá nhiều tham vọng, quá nhiều hận thù, quá nhiều sầu não và sợ hãi.

- N.Q.T☘️
_______________

Chùa đang chuẩn bị cho lễ trao giải cuộc thi "Thơ ca & Nguồn cội" lần thứ 3. Trong chuỗi các hoạt động chuẩn bị cho sự kiện, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã viết một vài chân dung về người làng Chùa để những ai quan tâm có thể hiểu thêm về ngôi làng này. Những chân dung về người Làng Chùa được rút từ tập bản thảo "HỒI TƯỞNG VỀ NHỮNG NGƯỜI ĐÃ KHUẤT" của tác giả Nguyễn Quang Thiều, sắp tới tác phẩm sẽ được xuất bản.

Nguyễn Quang Thiều: "Hai chị em", chất liệu: phấn sáp; năm sáng tác: 2005.

__ Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn 🧡

__ “Thượng đế, tuổi thanh xuân” của tác giả Tiến Nguyễn xuất hiện như một tiểu thuyết triết luận đầy thử thách tư duy, d...
17/11/2025

__ “Thượng đế, tuổi thanh xuân” của tác giả Tiến Nguyễn xuất hiện như một tiểu thuyết triết luận đầy thử thách tư duy, dành cho độc giả yêu văn học nhiều tầng sâu và sự bóc tách. Hấp dẫn nhất và cũng gây tranh cãi nhiều nhất là “cuộc chất vấn Thượng đế” về mối liên quan giữa tự do Chúa ban cho con người và tội ác sinh ra từ chính quà tặng to lớn đó. Cuộc chất vấn một chiều này bắt đầu ngay khi chúa Jesus đến trần gian để làm chứng cho tình yêu và sự thật rồi chết trên cây thập giá. Nó chưa khi nào ngừng lại. Nó đặt ra những câu hỏi hóc búa khác. Chẳng hạn, thiếu vắng ơn cứu độ, con người có tự hoàn thiện mình; và liệu có thể xây dựng thiên đường theo thiết kế của Thượng đế ngay trên trần gian?

Đứng trước văn chương và sự sáng tạo, để trả lời cho câu hỏi trên xin mời bạn mở cuốn sách “Thượng đế, tuổi thanh xuân” và đọc tới trang cuối cùng...

__ Bạn đọc ĐẶT SÁCH THƯỢNG ĐẾ TUỔI THANH XUÂN của tác giả Tiến Nguyễn, xin liên hệ:

🍁Link:

https://nxbhoinhavan.vn/san-pham/thuong-de-tuoi-thanh-xuan/

🍁Số điện thoại:

🌲Trang Thụy: 0976168808
🌲Việt Hưng: 0983413042

__ Nhà Xuất Bản Hội nhà văn 🧡

[THÔNG BÁO] Về việc tiếp tục sử dụng địa chỉ cũ để tạo và theo dõi đơn sách☘️Theo Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/06...
17/11/2025

[THÔNG BÁO] Về việc tiếp tục sử dụng địa chỉ cũ để tạo và theo dõi đơn sách☘️

Theo Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/06/2025 của Quốc hội về việc sắp xếp lại các đơn vị hành chính, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2025, Việt Nam sẽ chính thức áp dụng mô hình hành chính mới với 34 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương, thay vì 63 tỉnh thành như trước đây.

Để không làm ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ "giao sách" trong giai đoạn NXb và các đơn vị vận chuyển cập nhật hệ thống địa chỉ mới, độc giả vui lòng tiếp tục sử dụng ĐỊA CHỈ CŨ bao gồm 3 cấp (Thành phố/ Tỉnh – Quận/ Huyện – Phường/ Xã) để tạo và theo dõi đơn hàng.

⚡ Độc giả cần hỗ trợ, vui lòng liên hệ:

🌻 Số điện thoại:

🪶Trang Thụy: 0976 168 808
🪶 Việt Hưng: 0983 413 042

__ Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn 🧡

__ Góc nhìn của những người viết trẻ và điều họ cần🌿Sáng 15/11, tại Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam cùng sự đồng hành của N...
16/11/2025

__ Góc nhìn của những người viết trẻ và điều họ cần🌿

Sáng 15/11, tại Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam cùng sự đồng hành của Nhà Xuất Bản Giáo Dục đã tổ chức tọa đàm “50 năm văn học Việt Nam từ sau năm 1975: Góc nhìn của những người viết văn trẻ”. Toạ đàm thu hút sự tham gia của nhiều cây viết trẻ và nhiều tác giả thuộc thế hệ đi trước.

Theo nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, sau 1975, chiều kích, diện mạo của văn học Việt Nam đã có sự thay đổi về biên độ, lực lượng, địa lý..., hôm nay toạ đàm sẽ nhìn lại những thành tựu, những bước ngoặt và những gì đang cản trở nền văn học Việt Nam ở thời đại mới. Những người viết trẻ, bằng trang viết của mình họ đã thể hiện trách nhiệm với con người, vẻ đẹp, những giá trị tinh thần, đạo đức... và bây giờ họ sẽ nói về những gì họ nghĩ; qua cách nhìn của họ về một nền văn học, về thái độ và trách nhiệm của một người viết chúng ta có thể dự báo được về văn học Việt Nam trong tương lai...

Toạ đàm ghi nhận nhiều ý kiến đóng góp từ các cây viết trẻ đến từ nhiều vùng miền; các tham luận đã phần nào nói lên được suy nghĩ, tình yêu với văn chương, câu chuyện sáng tác, những khó khăn, thuận lợi, những trăn trở và cuối cùng trả lời câu hỏi "người trẻ muốn gì?"

"Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?" là câu hỏi nhà văn Trần Xuân Thiên đặt ra. Theo anh, người trẻ cần phải "tự cởi trói ra khỏi những sáo mòn, cần thay đổi trong cách tiếp nhận những tác phẩm. Nhà thơ Phùng Thị Hương Ly khi bàn về "ý thức dấn thân và tỉnh thức sáng tạo" đã nói về những điểm nghẽn mà ở đó "người viết dân tộc thiểu số vẫn đang sáng tác trong sự đơn độc, các sáng tác thiếu hơi thở đương đại..." Nhà văn Vũ Đức Anh "nhìn vào thời" và thấy cần mở rộng đầu tư có hệ thống cho văn học dịch, nhất là những nhịp của nó theo các thời đoạn lịch sử, để có thêm tham khảo trong đối sánh với văn học Việt Nam. Nhà văn Trác Diễm nhắn gửi dù thế nào "người viết trẻ hãy luôn là chính mình"...

Đặc biệt, nhà văn Nguyễn Hoàng Diệu Thủy nhấn mạnh "có rất nhiều những người bay ở đây và họ cần có chân trời. Nhưng chúng ta đang có rất khiêm tốn. Làm sao để được đọc, làm sao để tác phẩm tới tay độc giả, luôn là một câu hỏi đau đầu..." Vậy các bạn trẻ cần gì? Họ cần một email, một số điện thoại để gửi bản thảo và được hỗ trợ xuất bản... Đó cũng là điều mà tất cả các tác giả trẻ đều cần khi tới với toạ đàm lần này.

Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp cho rằng: "trẻ là thời điểm tốt nhất để mọi phát lộ văn chương được hiện thị một cách đầy đủ nhất; hãy nhìn và nói về thế giới bằng cái nhìn, giọng nói của chính mình và hiểu rằng tiếng nói đó sẽ có những vang vọng của tiếng nói khác được tổ chức lại trong cái nhìn của các bạn về thế giới; chỉ thế một đội ngũ mới mới hình thành, mới là sự định vị của các bạn trong sự tồn tại của một thế hệ, của một cá nhân trong thế giới này..."

Khép lại toạ đàm, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều bày tỏ sự tin tưởng vào thế hệ trẻ, vào những sự thay đổi trong tư duy và sự góp mặt của các tác giả, tác phẩm vào tầm vóc của nền văn học Việt Nam đương đại, đồng thời hướng tới các giải pháp hỗ trợ người viết trẻ ở nhiều góc độ và thực tiễn. Cuối cùng, như nhà văn Lê Quang Trạng đã chia sẻ, "văn học Việt Nam dù có lúc thăng trầm, lúc trôi chậm, lúc ào ạt nhưng chưa bao giờ ngừng chảy. Các thế hệ đi trước đã cho thế hệ trẻ một di sản quý giá. Người viết trẻ hôm nay "xin được thổi thêm hơi thở mới, góc nhìn mới, khát vọng mới, để giữ cho dòng chảy văn chương Việt luôn sống động và không ngừng vươn xa..."

__ Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn 🧡

Address

65 Nguyễn Du, Phường Hai Bà Trưng
Hanoi
100000

Opening Hours

Monday 09:00 - 17:00
Tuesday 09:00 - 17:00
Wednesday 09:00 - 17:00
Thursday 09:00 - 17:00
Friday 09:00 - 17:00

Telephone

+842438222135

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Nhà xuất bản Hội Nhà Văn posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Business

Send a message to Nhà xuất bản Hội Nhà Văn:

Share

Category