Hội họa & Đồ họa tranh

Hội họa & Đồ họa tranh Dành cho những ai đang có đam mê nghiên cứu hội họa. Những trang sách hay, hình vẽ sinh động. Hội mê sáng tác tranh.

Vẽ minh họa truyện tranh, Nhóm vẽ hoạt hình, minh họa, tô màu truyện tranh,....

TẤM VẢI LIỆM BẰNG ĐÁ HAY BẰNG VẢI?Tác phẩm Veiled Christ (tên gốc Cristo Velato) được hoàn thiện bởi nhà điêu khắc Giuse...
19/09/2021

TẤM VẢI LIỆM BẰNG ĐÁ HAY BẰNG VẢI?

Tác phẩm Veiled Christ (tên gốc Cristo Velato) được hoàn thiện bởi nhà điêu khắc Giuseppe Sanmartino và đang được trưng bày tại nhà nguyện Ca****la Sansevero, Naples, Ý.

Người đặt hàng tác phẩm này là Raimondo di Sangro, hoàng tử thứ bảy của thành Sansevero. Công việc ban đầu được giao cho nhà điêu khắc Antonio Corradini - người đã tạo ra tác phẩm The Veiled Truth và ông nổi tiếng với những bức tượng che mặt. Tuy nhiên, vừa hoàn thành xong phần mẫu bằng đất nung thì nghệ sĩ Antonio Corradini qua đời đột ngột. Do đó phần việc được chuyển sang cho nhà điêu khắc trẻ Giuseppe Sanmartino.

Bức tượng kỳ ảo đến mức khó tin khiến nhiều người đành đồn đoán rằng Raimondo di Sangro dùng xương và máu người để thực hiện thuật giả kim và một tấm vải hẳn hoi đã được phủ lên bức tượng Chúa, sau đó Raimondo di Sangro và Giuseppe Sanmartino đã “cẩm thạch hóa” nó bằng một quy trình hóa học phức tạp.

Hàng thế kỷ sau, khi những bức thư và hóa đơn của Raimondo di Sangro và Sanmartino được công bố thì người đời lại khó tin hơn khi biết rằng toàn bộ thân hình Chúa Jesus, tấm vải liệm, gối đệm, xiềng xích,… đều được tạc từ một khối cẩm thạch duy nhất.
----
Nguồn:
http://www.historyasia.com/

Bộ ba bậc thầy vĩ đại của thời kỳ Phục Hưng, họ là ai?👉 Thời kỳ Phục Hưng là cuộc tái sinh các giá trị nghệ thuật, tư tư...
30/12/2020

Bộ ba bậc thầy vĩ đại của thời kỳ Phục Hưng, họ là ai?

👉 Thời kỳ Phục Hưng là cuộc tái sinh các giá trị nghệ thuật, tư tưởng, khoa học của thời kì Hy Lạp cổ đại, đại biểu ưu tú của nền văn minh phương Tây.
Đây được đánh giá là giai đoạn hưng thịnh nhất của mỹ thuật thế giới. Những tìm tòi mới lạ đã đem đến một luồng khí mới, trào lưu mới cho các hoạ sĩ.
Trong giai đoạn này, nổi lên bộ ba bậc thầy vĩ đại về hội họa, kiến trúc, đó là Raphael, Michelangelo, Leonardo da Vinci.
- Raphael
- Michelangel
- Leonardo da Vinci

Lịch sử hội họa Việt NamI. Hội hoạ Hiện Đại Hội họa Hiện Đại là gì? Có gì khác biệt với những khuynh hướng hội hoạ trước...
05/10/2020

Lịch sử hội họa Việt Nam
I. Hội hoạ Hiện Đại
Hội họa Hiện Đại là gì? Có gì khác biệt với những khuynh hướng hội hoạ trước đó?

Điểm khác biệt là ở quan niệm về năng khiếu. Năng khiếu là yếu tố cần thiết của người hoạ sĩ, nhưng trong Hội họa Hiện Đại, người ta khẳng định rằng: năng khiếu, một trong những yếu tố giúp cho hoạ sĩ có được những tác phẩm cuốn hút, lại là không cần thiết lắm! Bởi vì sản phẩm của hội hoạ không phải chỉ là những cái gì đẹp, không chỉ là để thỏa mãn một thị hiếu, mà cốt yếu nó còn đi tìm một sự đồng cảm và chia sẻ. Nói chung, nó phải truyền thông được một thông điệp với công thức:
Tác phẩm lớn = Tính sâu thẳm + tính phức tạp + tính nguyên sơ.

Có thể nói, khuynh hướng Hiện Đại này đã đi vào môi trường Hội hoạ của Việt Nam kể từ ngày triển lãm đầu tiên vào năm 1929 tại Trường Mỹ thuật Đông Dương.

Hội họa hiện đại gồm có ba giai đoạn chính là:
A. Giai đoạn đầu (1925-1945)

Vào thời kỳ Đông Dương, nền hội họa sơn dầu Việt Nam đã ít nhiều có những sắc thái riêng biệt, với những nội dung hết sức đặc biệt, được phản ánh qua những tác phẩm có phong độ bậc thầy như “Thiếu Nữ bên Hoa Huệ” của Tô Ngọc Vân, “Chơi Ô Ăn Quan” của Nguyễn Phan Chánh, “Vườn Xuân Bắc Nam” của Nguyễn Gia Trí vv…Các họa sĩ VN đã đi từ trường phái Cổ điển, qua Hiện thực, và phần nào tiếp cận các trường phái Hiện Đại như: Ấn tượng...

B. Giai đoạn từ 1945-1975
Miền Bắc bước vào thời kỳ kháng chiến, nền hội họa sơn dầu VN đã chuyển hóa các thành tựu của thời kỳ trước sang khuynh hướng xã hội chủ nghĩa. Một số còn lại di cư vào Nam, sát nhập với trường Cao Đăng Mỹ Thuật Gia Định, nay là trường Đại Học Mỹ Thuật Tp HCM, số 5 Phan Đăng Lưu, Q Bình Thạnh, Tp. HCM.

Thời kỳ này ở miền Nam, tức Sài Gòn cũ, các họa sĩ nổi tiếng các nơi tổ chức triển lãm liên tục, ở Ty Văn Hóa (đường Tự Do), ở Hội Việt Mỹ, với các họa sĩ cổ thụ như Nguyễn Gia Trí, Văn Đen, Nguyễn Siên, Tạ Tỵ, Hiếu Đệ, Nguyễn Thanh Thu. Đến thập niên 60 thành lập thêm nhóm họa sĩ trẻ Sài Gòn, gồm có các họa sĩ Nguyễn Trung, Hồ Thành Đức, Bé Ký, Hồ Hữu Thủ,Trịnh Cung, vv...

Đây là thời gian cực thịnh của các trường phái Hiện Đại: Ấn tượng, Lập thể, Siêu thực, Trừu tượng v.v... Ở thời vàng son này, các họa sĩ rất được công chúng trọng thị và mến yêu, nhất là tầng lớp trung lưu trí thức, bác sĩ, kỹ sư, công chức, giáo sư,vv…Sau mỗi tháng lãnh lương, họ thường trích ra một khoản tiền để sưu tập tranh, tượng.

C. Giai đoạn từ 1975-1990
Sau khi thống nhất đất nước, trong bối cảnh cả nước vẫn sống trong nền kinh tế bao cấp tập trung, Sài Gòn-Tp HCM có lực lượng họa sĩ xuất thân từ các nguồn đào tạo hết sức khác nhau, từ các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Tiệp Khắc, Hungary, Ba Lan, Trung Quốc, và từ các nước tư bản như Pháp, Mỹ, Ý, Anh, Nhật…

Riêng miền Nam đang liên tục tiến hành cải tạo xã hội và xây dựng xã hội mới mà dân Sài Gòn và giới văn nghệ sĩ tại chỗ còn quá xa lạ. Vì thế mà rất nhiều người cầm cọ thời bấy giờ, bị đi cải tạo, hoặc bỏ vẽ. Số còn lại trở nên rụt rè trước hoàn cảnh xã hội thay đổi. Trong suốt thời gian này hầu như không có cuộc triển lãm tranh tượng của cá nhân, hay tổ chức tư nhân nào, mà chỉ có những cuộc triển lãm chung do Hội Mỹ thuật Thành Phố, hoặc Hội Mỹ thuật Việt Nam tổ chức cho các họa sĩ vẽ theo chủ đề, theo định kỳ mỗi năm, hay 5 năm một lần.

II. Hội họa Hậu Hiện Đại
Giai đoạn đổi mới (1990-2009)
Thời kỳ này là thời kinh tế thị trường mở cửa, Việt Nam gia nhập WTO, giới họa sĩ tiếp cận nhiều thông tin, nhất là giới họa sĩ trẻ, đươc dịp khẳng định mình, qua các trường phái Hậu Hiện Đại như Pop Art, Body Art, Trình Diễn, Sắp Đặt vv...
Như vậy từ năm 1990, trong môi trường Hội hoạ Việt Nam đã xuất hiện trường phái Hậu Hiện Đại (Pop Art, Body Art, Trình Diễn, Sắp Đặt, v.v...)
Hội họa Hiện đại và Hội họa Hậu Hiện đại giống nhau ở chỗ đều nhấn mạnh đến tính sâu thẳm, và khác nhau ờ chỗ:
- Hội họa Hiện đại nhấn mạnh hơn về: tính phức tạp và tính nguyên sơ
- Hội họa Hậu Hiện đại lại nhấn mạnh đặc biệt về: tính tự do và tính cá nhân.

Điểm đặc biệt khác của Hội hoạ Hậu Hiện đại là: người xem "cùng sáng tác" với tác giả. Khi ngắm nghía bức tranh, vào từng thời điểm khác nhau, họ khám phá ra những góc cạnh mới, những ý nghĩa mới, và đặt tên mới cho bức tranh. Bức tranh là một tác phẩm bỏ ngỏ...

LỊCH SỬ HỘI HỌA THẾ GIỚI.1.THỜI NGUYÊN THỦY (40.000-10.000 năm TCN)Hội họa đã xuất hiện cách đây 40.000 năm TCN, chủ yếu...
29/09/2020

LỊCH SỬ HỘI HỌA THẾ GIỚI.
1.THỜI NGUYÊN THỦY (40.000-10.000 năm TCN)
Hội họa đã xuất hiện cách đây 40.000 năm TCN, chủ yếu là được thể hiện trên các vách hang động. Nội dung chủ yếu là các hình vẽ thú vật (bò, hươu, ngựa,…), hình khắc lên đất sét và đắp lên thành hang; hình người sơ lược nhưng khái quát.

2.THỜI CỔ ĐẠI (3600-500 năm TCN)
Hội họa thời cổ đại nổi bật nhất là 3 quốc gia Ai Cập-Hy Lạp-La Mã cùng những nét đặc trưng tiêu biểu nhất của của mỹ thuật cổ đại.

a.Hội họa Ai Cập cổ đại

Trong nghệ thuật Ai Cập, điêu khắc và hội họa thường trộn lẫn. Các tác phẩm, tranh vẽ thường được tìm thấy ở phần dưới của các mảng điêu khắc trên tường. Chúng được các nghệ sĩ sáng tạo để sử dụng nơi công cộng hay các lăng mộ đền thờ với những cảnh, những câu chuyện về vinh quang của các vị thần hay Pharaoh.

b.Hội họa Hy Lạp cổ đại

Trong mọi thời kỳ, người ta đều ca ngợi nghệ thuật Hy Lạp cổ đại chính là thời kỳ hoàng kim của các thể loại hội họa.
Tuy nhiên, hầu hết tất cả những tác phẩm đó không còn tồn tại đến ngày nay. Tất cả những gì còn sót lại là một vài tác phẩm hiếm hoi của hội họa Hy Lạp cổ đại và những tác phẩm đó cũng không tiêu biểu cho thời kỳ các họa sĩ nổi tiếng sinh sống và sáng tác. Những ví dụ hiếm hoi còn tồn tại là những bức bích họa trong cung điện Knossos trên đảo Crete (thế kỉ XVI-XIII TCN) và những bức bích họa trong lăng mộ Driver tại Paestum-Italia (480-470 TCN).

c.Hội họa La Mã cổ đại

Nghệ thuật La Mã cổ đại được bắt đầu từ cuộc lật đổ vua Etruscan và sự thành lập nước Cộng hòa năm 509 TCN.

Những kiến thức về hội họa La Mã cổ đại phần lớn dựa vào việc bảo quản các hiện vật từ Pompeii và Herculaneum, và đặc biệt là các bức tranh tường Pompeian, dược bảo quản sau vụ phun trào của Vesuvius năm 79 TCN. Không có gì còn lại của bức tranh Hy Lạp nhập khẩu đến Rome trong suốt thế kỉ IV-V, hoặc các bức tranh trên gỗ được thực hiện tại Ý trong thời gian đó.
Hàng loạt các mẫu được giới hạn trong khoảng 200 năm đến khoảng 900 năm lịch sử của La Mã. Hầu hết các bức tranh tường này đã được thực hiện bằng cách sử dụng phương pháp Secco (khô), nhưng một số bức tranh vẽ trên trần nhà cũng tồn tại trong lịch sử La Mã. Có một số tài liệu đã chứng minh rằng những bức tranh La Mã đã kế thừa hoặc sao chép lại các tác phẩm Hy Lạp trước đó. Tuy nhiên, trên thực tế, chữ viết có thể được ghi tên các nghệ sĩ Hy Lạp nhập cư từ thời La Mã, không phải từ bản gốc tiếng Hy Lạp cổ đại đã được sao chép.

Các bức tranh Roman cung cấp một loạt các chủ đề: động vật, sự sống, những cảnh từ cuộc sống hằng ngày, chân dung và một số môn thần thoại. Trong thời kỳ Hy Lạp cổ đai, nó gợi lên những niềm vui của vùng nông thôn và đại diện cảnh của người chăn chiên, bò, những đền thờ mọc mạc, cảnh quan nông thôn miền núi và nhà nước La Mã.
3.THỜI KỲ TRUNG ĐẠI (Thế kỉ V-XV)
Thời kỳ Trung Đại (hay Trung Cổ) là giai đoạn trong lịch sử châu Âu bắt đầu từ sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã và thế kỉ V, kéo dài đến thế kỉ XV, hòa vào thời Phục Hưng và Thời kỳ khám phá. Thời Trung Đại là thời đại thứ hai trong ba thời đại lịch sử theo phân kỳ truyền thống của lịch sử phương Tây, cùng với Cổ Đại và Hiện Đại.
Vào thời kỳ này, con người chứng kiến sự hình thành, phát triển và sự suy tàn của xã hội phong kiến, đồng thời đánh dấu một loạt những khó khắn và tai họa bao gồm nạn đói, dịch hạch và chiến tranh. Nhà nước châu Âu bấy giờ bị tín ngưỡng chi phối khá mạnh, nó tác động rất lớn vào đời sống văn hóa và nghệ thuật, tạo ra một thứ văn hóa-nghệ thuật “nhà thờ”.-Nghệ thuật Romanesque: Xuất hiện ở pháp vào các thế kỷ XI và XII, ở Ý và Đức vào thế kỉ XIII. Loại hình chủ yếu của thời kỳ Romanesque là kiến trúc, hội họa hoành tráng giữ vai trò qua trọng trang trí cho các nhà thờ.-Nghệ thuật Gothic: So với Romanesque, Gothic có bước tiến lớn, phản ánh sự thụ cảm hiện thực có tính chất thế giới, nó xuất hiện trong những thời Phục Hưng, phát triển nhiều công trình kiến trúc, nhất là nhà thờ cùng với những yếu tố phong kiến, nhà thờ là những yếu tố của những nghệ sĩ vô thần; họ tạo ra những tác phảm có tính hiện thực và sự thành lập “xưởng”.

4.THỜI PHỤC HƯNG (THẾ KỈ XIV-XVII)
Các tác phẩm Phục Hưng mang tư tưởng nhân văn: ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, sức mạnh con người. Bỏ lối vẽ chi tiết cũ sang khái quát hóa hình thức hoành tráng. Tìm chỗ dựa ở nghệ thuật cổ đại Hy lạp – La mã. Tranh thời kì Phục Hưng là tranh của sự mẫu mực. Tả chất vô cùng độc đáo với làn da mềm mại của người phụ nữ và cơ bắp chắc khỏe của người đàn ông… Tạo hình khốc liệt, có sức mạnh về chiều sâu không gian. Các hoạ sĩ vẽ rất nhiều tranh khỏa thân, ngay cả trong tôn giáo, các thiên thần, thánh thần…
Hội hoạ thời Phục Hưng là đỉnh cao của hội hoạ, là bước ngoặt của nền mĩ thuật thế giới, đóng vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển nhiều lĩnh vực như: tìm ra chất liệu sơn dầu, phát triển bộ môn giải phẫu tạo hình, luật xa gần, phối cảnh, hình hoạ, nhiếp ảnh… Là nơi sản sinh ra rất nhiều nhân tài nghệ thuật, nhiều hoạ sĩ nổi tiếng, nhiều tác phẩm để đời cho cả thế giới. Phục hưng có nghĩa là “làm sống lại”. Đã vậy, chỉ nhìn vào những tác phẩm hội hoạ của thời Phục Hưng chúng ta có thể nhận ra về mặt tôn giáo và lịch sử mà không cần phải qua sách vở. Đó là những tác phấm sống mãi với thời gian.những hoạ sĩ bậc thầy lớn để các ngòi bút không ngừng tranh cãi mặc dù đã cách xa hàng trăm năm.
Nguồn: Sưu tầm

Nền hội họa Cận Đại.THẾ KỶ XVII (Thời kỳ hội họa Baroque).A. Nghệ thuật Italia:Đặc điểm chung là nó phản ánh những đặc t...
29/09/2020

Nền hội họa Cận Đại.
THẾ KỶ XVII (Thời kỳ hội họa Baroque).

A. Nghệ thuật Italia:
Đặc điểm chung là nó phản ánh những đặc thù của lịch sử nước này, mang một cái tên rất chung là : Nghệ thuật Baroque. Tuy nhiên,nghệ thuật Italia thế kỷ XVII không nhất thống; nghĩa là song song với nó có dòng hiện thực, vốn có liên quan mật thiết với các tầng lớp có tư tưởng dân chủ.
Phong cách Baroque, một mặt hướng tới những công trình mang tính hoành tráng, mặt khác chứa đựng những nền tảng hội họa, trang trí, kỹ thuật có sức tác động đến người xem. Điều ấy cho thấy nghệ thuật Baroque giàu tính năng động, căng thẳng chứ không tĩnh tại như nghệ thuật Phục hưng. Baroque theo nghĩa mới, là sự tổng hợp nghệ thuật . Điêu khắc và hội họa giữ vai trò quan trọng trong công trình, tạo cho nó có sức cô đúc, rực rỡ và kì vĩ . Tiêu biểu là sáng tạo của Michelangelo có ý nghĩa lớn lao trong việc hình thành phong cách Baroque. Các sử gia chia nó làm 3 giai đoạn :
- Tiền Baroque : từ năm1580 đến cuối 1620.
- Baroque thời cực thịnh : từ 1620 đến cuối thế kỷ 17.
- Hậu Baroque : vào nửa đầu thế kỷ 18.

B.Nghệ thuật Pháp:
Giai đoạn nửa sau thế kỷ XVII : Pháp phát triển toàn vẹn nền chuyên chế và cũng là bắt đầu của sự sụp đổ nền chuyên chế nầy. Nghệ thuật là công việc của quốc gia do đó chỉ duy nhất một khuynh hướng, khuynh hướng phục vụ cung đình chủ yếu phong cách là chủ nghĩa cổ điển. Tuy nhiên, kiến trúc trong giai đoạn nầy mới thực sự giữ vị trí hàng đầu, các thể loại nghệ thuật khác chỉ có ý nghĩa hỗ trợ đắc lực mà thôi.

Tìm hiểu về Mỹ thuật Phục hưng:- Là giai đoạn được đánh giá hưng thịnh nhất trong các thời kì của mĩ thuật thế giới. Nhữ...
25/07/2020

Tìm hiểu về Mỹ thuật Phục hưng:
- Là giai đoạn được đánh giá hưng thịnh nhất trong các thời kì của mĩ thuật thế giới. Những tìm tòi mới lạ đã đem đến một luồng khí mới, trào lưu mới cho các hoạ sĩ và nhất là các hoạ sĩ ở Ý về các lĩnh vực như: Hội Hoạ, Điêu Khắc, Kiến Trúc... Hãy cùng Designs.vn tìm hiểu về nền mỹ thuật thời kì Phục Hưng nhé!

Vài nét khái quát về Phục Hưng
- Thời kỳ Phục Hưng có gốc từ tiếng Pháp - Renaissance (nghĩa là sự tái sinh), còn gọi là Rinascimento (tiếng Ý), là cuộc tái sinh các giá trị nghệ thuật, tư tưởng, khoa học của thời kì Cổ đại và sự sống lại, phát triển rực rỡ của nền văn minh phương Tây. Phong trào Phục Hưng bắt đầu từ khoảng thế kỉ 14 tại Ý và thế kỉ 16 tại Bắc Âu. Nó đánh dấu giai đoạn chuyển tiếp của châu Âu từ thời kỳ Trung cổ sang thời kỳ Cận đại, cũng như từ thời kỳ phong kiến sang thời kỳ tư bản.

- Phục Hưng được gọi như thế vì đặc tính cơ bản của thời kỳ này là sự hồi sinh của tinh thần thời kỳ Cổ đại. Chủ nghĩa Nhân văn chính là phong trào tinh thần cơ bản của thời kỳ này. Việc hồi sinh thể hiện ở chỗ nhiều yếu tố của tư tưởng thời kỳ Cổ đại được tái khám phá và sống lại (văn học, tượng đài kỷ niệm, tác phẩm điêu khắc, triết học,...và hơn cả đó là hội hoạ). Trong một nghĩa rộng người ta hiểu Phục Hưng là sự hồi sinh của thời kỳ Cổ đại với các ảnh hưởng của thời kỳ này đến khoa học, văn học, xã hội, cuộc sống của những tầng lớp thượng lưu và sự phát triển của con người đi đến tự do cá nhân ngược lại với chế độ đẳng cấp của thời kỳ Trung cổ. Trong nghĩa hẹp hơn Phục Hưng là một thời kỳ của lịch sử nghệ thuật – “thời kì của hội hoạ".

Nét độc đáo trong hội họa Phục hưng

- Các tác phẩm Phục Hưng mang tư tưởng nhân văn: ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, sức mạnh con người. Bỏ lối vẽ chi tiết cũ sang khái quát hóa hình thức hoành tráng. Tìm chỗ dựa ở nghệ thuật cổ đại Hy lạp - La mã. Tranh thời kì Phục Hưng là tranh của sự mẫu mực. Tả chất vô cùng độc đáo với làn da mềm mại của người phụ nữ và cơ bắp chắc khỏe của người đàn ông… Tạo hình khốc liệt, có sức mạnh về chiều sâu không gian. Các hoạ sĩ vẽ rất nhiều tranh khỏa thân, ngay cả trong tôn giáo, các thiên thần, thánh thần…
- Hội hoạ thời Phục Hưng là đỉnh cao của hội hoạ, là bước ngoặt của nền mĩ thuật thế giới, đóng vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển nhiều lĩnh vực như: tìm ra chất liệu sơn dầu, phát triển bộ môn giải phẫu tạo hình, luật xa gần, phối cảnh, hình hoạ, nhiếp ảnh… Là nơi sản sinh ra rất nhiều nhân tài nghệ thuật, nhiều hoạ sĩ nổi tiếng, nhiều tác phẩm để đời cho cả thế giới. Phục hưng có nghĩa là “làm sống lại”. Đã vậy, chỉ nhìn vào những tác phẩm hội hoạ của thời Phục Hưng chúng ta có thể nhận ra về mặt tôn giáo và lịch sử mà không cần phải qua sách vở. Đó là những tác phấm sống mãi với thời gian.những hoạ sĩ bậc thầy lớn để các ngòi bút không ngừng tranh cãi mặc dù đã cách xa hàng trăm năm.

Một số tác giả và tác phẩm tiêu biểu của thời kì Phục Hưng:

1. Giotto di Bondone (1267 - 1337)
Giotto là một thiên tài đã phá vỡ vòng kim tỏa của nghệ thuật Byzantine và thoát ra, mạo hiểm dấn thân vào một thế giới mới, đã chuyển dịch những hình tượng sống động của nghệ thuật Gothic vào trong hội họa. Người Ý tin rằng một kỉ nguyên nghệ thuật hoàn toàn mới đã bắt đầu mới sự xuất hiện của họa sĩ vĩ đại ấy. Ông nổi tiếng với các bức bích họa trong Nhà Nguyện Arena (Arena Chapel), hoàn thành khoảng năm 1305, mô tả cuộc đời Đức mẹ Đồng Trinh và Chúa Jesu. Đây được coi là một trong những kiệt tác của thời kì đầu Phục Hưng.

2. Leona Da Vinci (1452 – 1519)
Leonar da Vinci là một họa sĩ, đồng thời cũng là nhà bác học am hiểu nhiều bộ môn khoa học xã hội và khoa học tự nhiên: điêu khắc, kiến trúc, toán học, cơ khí học, sinh học,… Sự hiểu biết của ông mang dấu vết liên tục trong lịch sử khoa học và nghệ thuật Châu Âu qua nhiều thế kỉ. Ông được xem là một trong những nhà nghiên cứu và sáng tạo cái mới xuất sắc. Trong suốt quá trình hoạt động nghệ thuật của mình, ông chỉ để lại khoảng 30 tác phẩm. Song mỗi tác phẩm của ông lại là một cuộc tìm tòi để tạo ra cái mới cho nhiều thế hệ sau học tập. Những tác phẩm của ông còn giữ tới ngày nay là những mẫu mực về nhiều mặt cho nền hội họa thế giới.

- Trong thời gian ở Milan giữa những năm 1495- 1498, Leonar vẽ bức tranh tường cho nhà thờ Thánh Maria denhla – Hraxi ( gần Milan ) “Buổi họp kín” hay còn gọi là bữa tiệc cuối cùng (1495 – 1498) – Tranh tường. Tác phẩm không chỉ có giá trị về mặt thẩm mỹ mà còn có giá trị to lớn về tính khoa học trong nghệ thuật. Điều mà Leonar vẫn tâm đắc và tự hào.
Sẽ thật thiếu sót nếu nhắc tới Leonar mà không nhắc tới tác phẩm Monalisa hay còn gọi là La giocongdo. Bức tranh nổi tiếng gắn liền với tên tuổi của họa sĩ.

3. Nàng Monalisa
- Đây là bức chân dung miêu tả tâm lý rất thành công. Nhân vật trong tranh được tác giả chăm chút cả về vẻ đẹp ngoại hình lẫn nội tâm. Điểm đặc biệt trong bức tranh là nụ cười bí hiểm của nàng Monalisa, nụ cười vừa phảng phất niềm vui và nỗi buồn khiến người xem cứ vương vấn mãi. Vẻ đẹp của nàng là một vẻ đẹp lý tưởng không chỉ của thế kỉ XVI mà còn là vẻ đẹp lý tưởng của mọi thời đại.

- Không chỉ thành công ở thể loại chân dung, đề tài về Chúa và thần thoại cũng được Leonar thể hiện rất thành công với những tác phẩm nổi tiếng như: Đức Mẹ Litta, Leda… Từ năm 1500 – 1516 Leonard dành nhiều thời gian để nghiên cứu khoa học. Ông muốn sáng tác một bộ Bách khoa toàn thư về “sự vật trong thiên nhiên”. Ngoài ra ông vẫn sáng tác cho đến cuối đời.

4. Michelangelo di Lodovico Buonarroti Simoni (1475 – 1564)

- Michelangelo không chỉ là nhà điêu khắc nổi tiếng của thời kỳ phục hưng mà còn là một kiến trúc sư, một hoạ sĩ và là một nhà thơ. Ở bất kì lĩnh vực nào ông cũng để lại những tác phẩm tiêu biểu được lưu giữ mãi tới mai sau.

- Ông là một hoạ sĩ kỳ tài với tác phẩm nổi tiếng nhất là quần thể tranh trong nhà thờ Sistine. Tuy vậy niềm đam mê thật sự của ông lại là tạc nên những pho tượng và tác phẩm đầu tiên đưa tên tuổi và uy tín của ông đến với mọi người là: Pietta (theo tiếng Pháp có nghĩa là “tình thương”). Tác phẩm được ông hoàn thành trong 5 năm. Với tác phẩm này ông đã rất thành công khi miêu tả nỗi xót thương, đau đớn của đức mẹ trước đứa con đã mất trên tay. Chân dung chúa Jesu cũng được tác giả miêu tả vô cùng sống động. Ở đó ta nhìn thấy rõ nỗi đau đớn mà chúa phải chịu đựng trước khi mất nhưng ta cũng nhìn thấy ở chân dung đó niềm kiêu hãnh của một vị anh hùng, một đấng cứu thế. Ngoài ra tác phẩm còn thành công trong việc thể hiện những nét gấp trang phục, chất da thịt mền mại. Bằng thủ pháp đối lập giữa nét mền mại của các nếp áo váy phong phú và đa dạng với mảng phẳng nhẵn của cơ thể chúa Jesu. Sự đối lập đó tạo nên sự nổi bật khác nhau của nhân vật, của sự sống và cái chết.

5. Pietta
- Từ năm 1501 – 1504, Michelangelo dành thời gian để tạo nên kiệt tác cho nhân loại, đó là bức tượng người anh hùng David của người dân Hebreuca đã chiến thắng người khổng lồ Goliat. Bức tượng được xem là một sự hoàn thiện mẫu mực về vẻ đẹp thể chất và vẻ đẹp tinh thần của con người. Pho tượng cao 5,5m này được đặt ở trước trụ sở hành chính của thành Phlorangxo. Đây là niềm tự hào của người dân thành phố, họ coi David là một “người khổng lồ” là biểu tượng sức mạnh của con người.

- Tượng David
Những năm cuối đời là những năm sáng tác đẹp đẽ của ông. Tác phẩm tiêu biểu nhất là bức “Sự phán xét cuối cùng” và cảnh Chúa giáng thế trên trần nhà Nguyện Sistine.

6. Raphael Santi (1483 – 1520)
- Khác với Leonar, Raphael không phải là nhà sáng tạo ra cái mới. Vì nghệ thuật của ông có ý nghĩa không phải ở chỗ khám phá ra con đường mới mà là ở chỗ đã tổng hợp thành tựu của những người đi trước. Ông cùng với Leonar, Michelangelo tạo nên chuẩn mực, định hình cho sự phát triển phong cách nghệ thuật p**c hưng.
- Thành phố Phlorangxo đã khiến Raphael thành công và được nhiều nhà bảo trợ hào phóng giúp đỡ. Đây cũng là thời kì ông vẽ nhiều tranh về đề tài Đức Mẹ. Trong đó nổi tiếng là tác phẩm “ Đức mẹ của Đại công tước” được ông vẽ theo yêu cầu của Đại công tước. Vị này coi tác phẩm là vô giá và luôn giữ bên mình. Ở bức tranh này ta vẫn còn thấy phảng phất nét của Peruganh, nhưng nó đã đạt đến sự mẫu mực, hoàn hảo về đề tài dạng này. Raphael đã tạo được một Madona có thực trên đời, một Madona thơ mộng, dịu dàng như trăm nghìn phụ nữ Ý khác.
- Năm 1508, Raphael từ dã Phlorangxo đến Roma. Suốt từ đấy đến lúc mất ông sống ở đó và được sự bảo trợ của hai đời Giáo hoàng là Duyn II và Leon X. Nhiều tác phẩm danh tiếng của ông đã vẽ trong thời kí này. Trong đó có một bứ vẽ treo trong phòng “Chữ kí” – phòng quan trọng nhất trong tòa thánh Vatican vô cùng thành công là bức “Trường học Aten”. Nội dung tác phẩm ca ngợi triết học Hy Lạp cổ đại. Nhân vật chính của bức tranh là Praton và Arixtot. Hai người đang tranh luận về quan điểm triết học của mình, Praton chỉ tay lên trời chị Arixtot chỉ tay xuống đất. Điều này thể hiện tư tưởng triết học duy tâm khách quan của Praton và sự dung hợp giữa triết học duy vật và duy tâm của Arixtot. Bức tranh có khoảng 50 nhân vật bao gồm những nhà tiết học, các học giả…

7. Hoạ sĩ Bô-ti-ce-li (Botticelli 1445-1510)
- Bôticeli là hoạ sĩ kết thúc thời kì Phục Hưng. Trong sự nghiệp sáng tác của Bôticeli có nhiều tác phẩm nổi tiếng trong đó có tác phẩm: Mùa xuân, Ngày sinh của thần vệ nữ, Lễ truyền tin,…
- Ông là hoạ sĩ kì tài, tranh ông nổi tiếng về mặt dụng công ,đề tài tôn giáo truyên ngụ ngôn và tương huyền nhiệm. Hoạ phẩm của ông còn dễ nhận thấy ở đường nét “trong ngọc, trắng ngà” rất uyển chuyển hoà điệu. Ông tài hoa ở chỗ tinh tế lạ thường, pha thêm không khí sầu tư hóm hỉnh. Vào tuổi già tranh ông vẽ như chìm vào sự lo buồn, nét mặt người trong tranh hốc hác, có lúc lộ vẻ nhăn nhó. Có lẽ ông chịu tác động của tôn giáo và xã hội đương thời.
- Năm 1498, Bôticeli nhận trang trí nhà thờ Phờ-răng-xét-cô Goa-đi. Ở đó ông vẽ bức “Truyền tin”. Tranh được vẽ kĩ ,tả tỉ mỉ, tất cả đều rõ ràng rành mạch. Tuy vậy vẫn có sự tương phản giữa những đường thẳng, sắc cạnh trong những chi tiết tường nhà, nền gạch với những đường cong nếp gấp mềm mại trong sự diễn tả trang phục của hai nhân vật chính. Trong tranh, hoạ sĩ còn tạo sự tương phản về nóng lạnh của màu sắc để diễn tả xa gần. Vẻ mặt Đức Mẹ thanh tú được diễn tả khéo léo về ánh sáng đang cúi xuống được kết hợp với hai bàn tay đưa lên, vừa như muốn ngăn thiên sứ, vừa như chấp nhận sứ mệnh của Chúa trời trao cho.
- Bôticeli là tài năng lớn của thời kì Phục Hưng. Nhà nghiên cứu nghệ thuật người nga Ooc-lô-ra đã viết về ông như sau: ”nếu không biết đên sáng tác của ông, thì khái niệm của chúng ta về hội hoạ phưc hưng sẽ không đầy đủ”. Do tài năng, uy tín của ông trong nghệ thuật, năm 1504 Bôticeli được mời tham gia uỷ ban quyết định vị trí đật tượng Đa-vít của Mi-ken-lăng-giơ. Bo-ti-xen-li mất ngày 17 tháng 5 năm 1510. Mặc dù ông qua đời dã gần 500 năm song với những bức tranh với vẻ đẹp chuẩn mực của ông vẫn được công chúng nghệ thuật thế giới nhiều thời đại yêu thích và các thế hệ nghệ sĩ thời đại sau ông học tập.

Lịch sử mĩ thuật Thế Giới - Hội hoạ Thời kì Phục HưngMĩ thuật là mét loại h́nh nghệ thuật xuất hiện đầu tiên trên thế gi...
25/07/2020

Lịch sử mĩ thuật Thế Giới - Hội hoạ Thời kì Phục Hưng
Mĩ thuật là mét loại h́nh nghệ thuật xuất hiện đầu tiên trên thế giới. Mĩ thuật xuất hiện ngay từ khi con người có mặt trên trái đất. Nă ra đời từ thời sơ khai, con người trong thời nguyên thuỷ, vẫn c̣n ăn hang, ở lỗ, săn bắn và hái lượm. Lịch sử Mĩ thuật cùng với lịch sử thế giới trải qua các thời ḱ phát triển và các giai đoạn lắng đọng hay tàn lụi.

Mĩ thuật thời Nguyên Thuỷ
Mĩ thuật thời Ai Cập Cổ Đại
Mĩ thuật thời Hi Lạp Cổ Đại
Mĩ thuật thời La Mă Cổ Đại
Mĩ thuật thời Trung Đại
Mĩ thuật thời Phục Hưng
Mĩ thuật thời Cận Đại
Mĩ thuật thời Hiện Đại

Trong các giai đoạn đó, giai đoạn mĩ thuật thời Phục Hưng là giai đoạn có sự kế thừa, phát triển và mĩ thuật Phục Hưng I-ta-li- a đă sản sinh ra nhiều hoạ sĩ nổi tiếng có những cống hiến to lớn cho nền mĩ thuật thế giới, trong đó có ba hoạ sĩ tiêu biểu như Lờ-ụ-na đờ Vanhxi, Mi-ken-lăng-giơ, Ra-pha-en, có nhiều tác phẩm nổi tiếng nhất thế giới và là giai đoạn Mĩ thuật được đánh giá hưng thịnh nhất trong các thời ḱ. Mĩ thuật giai đoạn này phải kể đến những t́m ṭi mới lạ, đem đến một luồng khí mới, chào lưu mới cho các hoạ sĩ trên thế giới và nhất là các hoạ sĩ ở Ư về các lĩnh vực nh­: Hội Hoạ, Điêu Khắc, Kiến Trúc...

1. Vài nét khái quát về Phục Hưng

Thời kỳ Phục Hưng có gốc từ tiếng Pháp Renaissance (nghĩa là sự tái sinh), c̣n gọi là Rinascimento (tiếng Ư), là cuộc tái sinh các giá trịnghệ thuật, tư tưởng, khoa học của thời ḱ Cổ đại và sự sống lại, phát triển rực rỡ của nền văn minh phương Tây. Phong trào Phục Hưng thường được coi bắt đầu từ khoảng thế kỉ 14 tại Ư và thế kỉ 16 tại Bắc Âu. Nó cũng được coi là đánh dấu giai đoạn chuyển tiếp của châu Âutừ Thời kỳ Trung cổ sang Thời kỳ Cận đại, cũng như từ Thời kỳ phong kiến sang Thời kỳ tư bản.

Thuật ngữ Rinascenza (tái sinh) được nhà sử học Giorgio Vasari dùng ban đầu vào năm 1550 để chỉ sự hồi sinh và phát triển rực rỡ các hoạt động nghệ thuật và khoa học bắt đầu tại Ư vào thế kỷ 13. Sau đó, thuật ngữ Renaissance được Jules Michelet dùng trong tiếng Pháp và nhà sử học Thụy Sỹ Jacob Burckhardt phát triển (khoảng những năm 1860). Tái sinh ở đây có hai nghĩa: một là sự khám phá lại các sách vở cổ điển và đem ứng dụng vào trong khoa học và nghệ thuật; hai là để chỉ kết quả của các hoạt động văn hóa đó mang lại sựhồi sinh cho văn hóa châu Âu nói chung. Như vậy Phục Hưng có thể hiểu theo hai cách chính tuy khác biệt nhưng đều có ư nghĩa là sự tái sinh của nền giáo dục cổ điển Tây phương thông qua sách vở, tài liệu kinh điển của phương Tây và hồi sinh của văn hóa châu Âu nói chung.Từ Hỏn-Việt viết hoa Phục hưng, hay Phục Hưng, là thuật ngữ tương đương với khái niệm này.

Thời kỳ Phục Hưng được gọi như thế v́ đặc tính cơ bản của thời kỳ này là sự hồi sinh của tinh thần thời kỳ Cổ đại. Chủ nghĩa Nhân vănchính là phong trào tinh thần cơ bản của thời kỳ này. Việc hồi sinh thể hiện ở chỗ nhiều yếu tố của tư tưởng thời kỳ Cổ đại được tái khám phá và sống lại (văn học, tượng đài kỷ niệm, tác phẩm điêu khắc, triết học,...và hơn cả đó là hội hoạ).
Tiên đề cho tư tưởng mới của thời kỳ Phục Hưng là những ư tưởng tự tin của các nhà thơ người Ư của thế kỷ 14 như Francesco Petrarca, người thông qua các nghiên cứu rộng lớn về các nhà văn thời kỳ Cổ đại và với Chủ nghĩa Cá nhân của ụng đó cổ động cho niềm tin về giá trị của sự đào tạo nhân văn và ủng hộ cho việc nghiêm cứu vềngôn ngữ, văn học, lịch sử và triết học bên ngoài quan hệ với tôn giáo.

Ảnh hưởng của những học giả nói tiếng Hy Lạp cũng rất đáng kể. Một số học giả đến Ư trong thế kỷ 13 và thế kỷ 14 từ Đế quốc Byzantin. Đặc biệt là sau khi người Thổ Nhĩ Kỳ chinh phụcConstantinople vào năm 1453 th́ càng có nhiều học giả đến Venezia(tiếng Anh: Venice) và những thành phố Ư khác, những người đă mang theo kiến thức về nền văn hóa thời Cổ đại đă được lưu trữ gần 1.000 năm trong Đế quốc Byzantin sau khi Đế quốc Tây La Mă suy tàn. Cho đến năm 1400 Homer, Herodot, Platon và Aristoteles vẫn c̣n được rất nhiều người nhắc đến trong Đế quốc Byzantin. Một vài năm trước khi Đế quốc Byzantin sụp đổ, Giovanni Aurispa đă đến Constantinople và mang về Ư trên 200 bản viết tay các tác phẩm văn học ngoại đạo.

Trong một nghĩa rộng người ta hiểu Phục Hưng là sự hồi sinh của thời kỳ Cổ đại với các ảnh hưởng của thời kỳ này đến khoa học, văn học, xă hội, cuộc sống của những tầng lớp thượng lưu và sự phát triển của con người đi đến tự do cá nhân ngược lại với chế độ đẳng cấp của thời kỳ Trung cổ. Trong nghĩa hẹp hơn Phục Hưng là một thời kỳ của lịch sử nghệ thuật – “thời ḱ của hội hoạ.

2. Vài nét khái quát về mĩ thuật Phục Hưng I-ta-li-a

Ở châu Âu thế kỉ XI, những thành thị được h́nh thành đă phá vỡ các lănh địa phong kiến, từ đó xuất hiện tầng lớp thị dân giầu có - đây là tiền thân của giai cấp tư sản. Tại I-tali- a, nhiều thành thị trung tâm ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, …nhu cầu đời sống tinh thần được nâng cao, giai cấp tư sản muốn có một nền văn hoá chống lại giai cấp phong kiến, đó là nguyên nhân sự ra đời của văn hoá Phục hưng ở I-ta-li-a, sau lan sang một số nước ở châu Âu như: Pháp, Đức,…Phong trào mĩ thuật Phục hưng ở I-ta-li-a được khởi đầu vào cuối thế kỉ XIII bởi hai hoạ sĩ Xi-ma-bu-ờ và Gi-ốt-tụ, phong trào ra đời nhằm khôi phục và làm hưng thịnh lại nền văn hoá cổ đại Hi-Lạp, La-Mó (nền văn hoá đề cao giá trị vật chất và tinh thần của con người) mà thời Trung cổ đă huỷ hoại; đưa cái đẹp phục vụ cuộc sống con người, đồng thời nâng cao hơn trong hoàn cảnh mới để đạt tới sự mẫu mực, hoàn chỉnh. Sang thế kỉ XIV đến giữa thế kỉ XV, phong trào mĩ thuật Phục hưng ở I-ta-li- a phát triển rực rỡ trên cơ sở những phát minh khoa học: t́m ra luật viễn cận, t́m ra chất liệu sơn dầu,…Cỏc hoạ sĩ thời Phục hưng thường lấy đề tài tôn giáo dể thể hiện cái đẹp, để diễn tả cuộc sống, diễn tả con người, họ không vẽ theo công thức g̣ bó như nghệ thuật Trung cổ (tranh thời Trung cổ mang tính trang trí hơn tính tạo h́nh, chỉ diễn tả không gian hai chiều nên không diễn tả được chiều sâu; h́nh dáng con người thường c̣m nhom, ốm yếu, thiếu sức sống…) mà học hỏi cái đẹp từ thời Hy Lạp, La Mă, từ thiên nhiờn. Cỏc hoạ sĩ đưa không gian thấu thị vào tranh và áp dụng những luật vờn khối theo sáng tối, nhờ đó con người và thiên nhiên được diễn tả rất sâu về khối, t́nh cảm, y phục và bối cảnh, các qui luật về bố cục, màu sắc không gian, tỉ lệ, ánh sáng đến cách diễn tả đều đạt tới sự hoàn hảo. Mĩ thuật Phục hưng I-ta-li- a đă sản sinh ra nhiều hoạ sĩ nổi tiếng có những cống hiến to lớn cho nền mĩ thuật thế giới, trong đó có ba hoạ sĩ tiêu biểu như Lờ-ụ-na đờ Vanhxi, Mi-ken-lăng-giơ, Ra-pha-en; Thời kỳ Phục Hưng kéo dài từ năm 1400 đến 1600, Trung tâm ở Florence.

Tên gọi trong tiếng Ư, rinascita, theo nghĩa cho khái niệm của một thời kỳ, đó cú từ Giorgio Vasari, người đă viết một trong những tác phẩm miêu tả các nhà nghệ thuật Phục Hưng quan trọng nhất. Vasari chia sự phát triển của nghệ thuật ra làm 3 thời kỳ:

1. Thời kỳ rực rỡ của Cổ đại Hy Lạp – La Mă

2. Thời kỳ suy tàn trung gian bắt đầu thời kỳ Trung Cổ.
-ST-
Nguồn khác: https://bit.ly/32RUkA5

Address

Quận 8

Telephone

0908084027

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Hội họa & Đồ họa tranh posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share

Category

Our Story

Nghệt thuật, giúp mang những giá trị tinh thần đến tất cả những ai yêu mến bộ môn này, nghệ thuật cũng tồn tại song song bên cuộc sống của chúng ta như hơi thở vậy.