Tự Hào Người Lính Tân An

Tự Hào Người Lính Tân An Contact information, map and directions, contact form, opening hours, services, ratings, photos, videos and announcements from Tự Hào Người Lính Tân An, Digital creator, Tân An.
(1)

BỘ CHQS TỈNH TÂY NINH
BAN CHQS PHƯỜNG TÂN AN
Trang thông tin lưu giữ và chia sẻ những hình ảnh về lịch sử Việt Nam, QĐND và người lính bộ đội Cụ Hồ, các lĩnh vực về VHXH...
Tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

Khánh Hòa tiếp tục khởi công 10 căn nhà cho các gia đình bị thiệt hại do mưa lũTiếp tục thực hiện “Chiến dịch Quang Trun...
14/12/2025

Khánh Hòa tiếp tục khởi công 10 căn nhà cho các gia đình bị thiệt hại do mưa lũ

Tiếp tục thực hiện “Chiến dịch Quang Trung”, ngày 12-12, Bộ CHQS tỉnh Khánh Hòa phối hợp với UBND xã Suối Hiệp, xã Đại Lãnh và Vùng 4 Hải quân tiến hành khởi công xây dựng nhà ở cho 10 hộ gia đình có nhà bị sập do mưa lũ trên địa bàn.

Theo đó, 6 hộ dân ở thôn Hội Xương, xã Suối Hiệp gồm các ông, bà: Trần Ngọc Đỉnh, Trần Thị Mỹ Châu, Nguyễn Thị Bi, Nguyễn Thị Liên, Nguyễn Ngọc Ân, Huỳnh Thị Kim Liên, có các lô đất được UBND xã bố trí giao cho các hộ dân tại Khu tái định cư Suối Hiệp. Mỗi hộ được hỗ trợ 60 triệu đồng và 5,6 tấn xi măng.

Đại diện các hộ gia đình được hỗ trợ xây dựng nhà đã gửi lời cảm ơn sâu sắc đến địa phương, các đơn vị Quân đội, khẳng định sẽ cố gắng khắc phục khó khăn, đồng hành cùng các đơn vị hoàn thành tiến độ công trình, để sớm ổn định cuộc sống.

* Cùng ngày, Bộ CHQS tỉnh Khánh Hòa và UBND xã Đại Lãnh tiến hành khởi công xây dựng nhà ở cho 4 hộ gia đình gồm gia đình các ông: La Văn Tý, Hà Văn Hải, Nguyễn Bá Bình, Huỳnh Mông.

Bộ CHQS tỉnh điều động 40 cán bộ, chiến sĩ và lực lượng dân quân của xã Đại Lãnh để giúp 4 hộ gia đình xây dựng nhà với tinh thần thần tốc nhất. Nhân dịp này, đại diện Ban chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Khánh Hòa và Ban chỉ huy Phòng thủ Khu vực 1 - Ninh Hòa trao quà tặng các hộ dân.

* Sáng 12-12, Trung tướng Lê Ngọc Hải, Tư lệnh Quân khu 5 đến thăm, động viên cán bộ, chiến sĩ và kiểm tra tiến độ thi công xây dựng nhà ở cho gia đình chị Đặng Thị Duy Hiền, một hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bị sập nhà do mưa lũ tại thôn Khánh Thành Nam, xã Suối Dầu, tỉnh Khánh Hòa.

Trung tướng Lê Ngọc Hải đã giao nhiệm vụ cho Bộ CHQS tỉnh Khánh Hòa và chỉ huy đội công tác, bộ đội thi công và chính quyền địa phương về tiến độ, chất lượng thi công cũng như các khó khăn, vướng mắc phát sinh và nhấn mạnh tinh thần trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả thiên tai, ổn định nơi ở trước mùa mưa tiếp theo.

“Việc xây dựng lại nhà cho người dân không chỉ thể hiện trách nhiệm của Quân đội trong công tác dân vận, mà còn là hành động cụ thể góp phần ổn định đời sống, giúp nhân dân yên tâm sản xuất, sinh hoạt", Trung tướng Lê Ngọc Hải phát biểu khi thăm hỏi cán bộ, chiến sĩ và gia đình chị Đặng Thị Duy Hiền.

Gia đình chị Đặng Thị Duy Hiền chia sẻ sự xúc động và cảm ơn sự quan tâm của Quân khu 5 cùng lực lượng cán bộ, chiến sĩ Bộ CHQS tỉnh Khánh Hòa trực tiếp giúp đỡ xây dựng ngôi nhà mới, tạo điều kiện để gia đình sớm ổn định cuộc sống.

Việc xây dựng nhà ở nằm trong “Chiến dịch Quang Trung” thần tốc xây dựng và sửa chữa lại nhà cho nhân dân bị thiệt hại do mưa lũ, mà Bộ tư lệnh Quân khu 5 đã triển khai nhằm hỗ trợ người dân khôi phục nhà cửa sau thiên tai, với sự tham gia của nhiều đội công tác, cán bộ và chiến sĩ trên địa bàn các tỉnh miền Trung, trong đó có Khánh Hòa.

Theo Báo QĐND

NGHĨA TÌNH TỪ NHỮNG BƯỚC CHÂN GÌN GIỮ HÒA BÌNH Nhân dịp thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22-12, đoàn sĩ quan Quân độ...
14/12/2025

NGHĨA TÌNH TỪ NHỮNG BƯỚC CHÂN GÌN GIỮ HÒA BÌNH

Nhân dịp thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22-12, đoàn sĩ quan Quân đội và Công an Việt Nam đang làm nhiệm vụ tại Phái bộ Liên hợp quốc ở Nam Sudan (UNMISS) đã tổ chức chuyến thăm và trao quà cho người dân có hoàn cảnh khó khăn tại một khu dân cư nghèo thuộc ngoại ô Juba.

Trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt và cuộc sống còn nhiều thiếu thốn của vùng Đông Phi, sự hiện diện của các sĩ quan Việt Nam đã mang đến không chỉ sự hỗ trợ vật chất, mà còn cả hơi ấm của tình người, của tinh thần đoàn kết dân tộc và truyền thống Bộ đội Cụ Hồ.
Khu dân cư mà đoàn ghé thăm nằm ven dòng Nile Trắng, nơi những căn lều dựng tạm bằng gỗ vụn, bạt cũ và tôn méo mó là nơi trú ngụ của hàng trăm hộ dân. Chiến sự kéo dài khiến nhiều gia đình mất đi trụ cột, trẻ em phải lớn lên trong điều kiện thiếu thốn còn phụ nữ gồng mình gánh vác toàn bộ gia đình. Trong bối cảnh đó, bất kỳ sự quan tâm nào từ bên ngoài đều trở nên vô cùng quý giá.
Khi đoàn Việt Nam bước vào khu dân cư, người dân đón bằng những nụ cười nhẹ và ánh mắt đầy hy vọng. Bà Mary Kiden, góa phụ một mình nuôi 4 con nhỏ, xúc động khi nhận phần quà. Bà chia sẻ: “Người Việt Nam không chỉ mang đến những món quà, mà các bạn đến cùng với sự sẻ chia chân thành. Điều quý nhất là chúng tôi biết rằng mình không bị lãng quên”.
Câu nói mộc mạc nhưng sâu sắc ấy khiến các sĩ quan Việt Nam thấm thía rằng đôi khi điều người dân Nam Sudan cần không chỉ là lương thực hay những thứ xa vời, mà là sự lắng nghe và thấu hiểu.
Thiếu tá Nguyễn Thế Anh, sĩ quan Công an nhân dân Việt Nam, cho biết, mỗi lần tiếp xúc với người dân địa phương đều khiến anh có thêm nhiều suy ngẫm: “Có những thứ rất quen thuộc với chúng ta nhưng lại quá xa tầm với của bà con nơi đây. Khi nhìn vào cuộc sống của họ, chúng tôi càng thấm thía ý nghĩa, trách nhiệm của lực lượng Gìn giữ hòa bình ở Nam Sudan”.
Một điểm nhấn xúc động trong chuyến đi là việc các sĩ quan Việt Nam chuẩn bị thuốc xịt muỗi và kem chống muỗi để tặng phụ nữ, trẻ em - nhóm đối tượng dễ bị đe dọa nhất trong mùa sốt rét. Thiếu tá Lê Thị Bích Ngọc và Đại úy Vũ Nguyệt Anh chia sẻ lý do mang theo những vật dụng nhỏ bé nhưng thiết thực ấy: “Ở Việt Nam, thuốc chống muỗi là vật dụng quen thuộc. Nhưng tại Nam Sudan - nơi sốt rét vẫn rình rập từng gia đình, thuốc chống muỗi có thể giúp một đứa trẻ tránh được những đêm dài bị muỗi đốt và là tấm khiên giảm nguy cơ sốt rét. Chỉ một món quà nhỏ nhưng mang lại sự an tâm lớn cho người dân, nên chúng tôi cố gắng mang theo”.

Một người mẹ trẻ khi cầm trên tay lọ thuốc chống muỗi đã xúc động nói: “Tôi chưa từng có điều kiện mua thứ này. Cảm ơn vì các bạn đã nghĩ đến chúng tôi”.
Cùng đồng hành trong hoạt động, Đại úy Nguyễn Mỹ Linh, sĩ quan Công an nhân dân Việt Nam, chia sẻ: “Trước chuyến đi, anh em chúng tôi ai cũng muốn mang theo thứ gì đó thật hữu ích. Chúng tôi nghĩ đơn giản: Nếu giúp được ai đó bớt khó khăn, thì nhiệm vụ hôm nay càng trọn vẹn”.
Sự phối hợp nhịp nhàng giữa hai lực lượng Quân đội - Công an Việt Nam trong hoạt động lần này thể hiện rõ tinh thần đoàn kết dân tộc, đồng thời lan tỏa hình ảnh một Việt Nam nhân ái, trách nhiệm và tận tâm trong nhiệm vụ quốc tế. Sau buổi trao quà, ông Abraham Deng, lãnh đạo cộng đồng địa phương, đã bày tỏ sự trân trọng: “Điều chúng tôi ghi nhớ các bạn, những chiến sĩ mũ nồi xanh Việt Nam, đó là cách các bạn đến - rất tôn trọng và chân thành”.

Trong bối cảnh Nam Sudan còn nhiều khó khăn, sự ghi nhận ấy là phần thưởng tinh thần quý báu đối với mỗi sĩ quan Việt Nam đang ngày đêm hoàn thành nhiệm vụ vì hòa bình thế giới.
Hoạt động nhân văn nhân dịp 22-12 là một phần nhỏ trong chuỗi nhiệm vụ mà lực lượng Việt Nam đang đảm nhiệm tại UNMISS. Nhưng chính những hành động giản dị như trò chuyện với người dân, trao từng phần quà nhỏ hay hướng dẫn cách phòng chống muỗi… lại phản ánh rõ phẩm chất của người lính Cụ Hồ và người chiến sĩ Công an nhân dân: Luôn tận tụy, ân cần, đầy trách nhiệm và sẵn sàng sẻ chia trong mọi hoàn cảnh./.

ĐỒNG CHÍ TÔN ĐỨC THẮNG VỚI CÔNG TÁC MẶT TRẬN Hơn 60 năm hoạt động cách mạng, đồng chí Tôn Đức Thắng có gần 30 năm giữ cư...
14/12/2025

ĐỒNG CHÍ TÔN ĐỨC THẮNG VỚI CÔNG TÁC MẶT TRẬN

Hơn 60 năm hoạt động cách mạng, đồng chí Tôn Đức Thắng có gần 30 năm giữ cương vị lãnh đạo Mặt trận Dân tộc thống nhất. Đồng chí Tôn Đức Thắng đã phấn đấu không mệt mỏi, cống hiến sức lực, trí tuệ của mình cho sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân của Mặt trận.
Ngày 3-3-1951, tại Việt Bắc, Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh - Liên Việt khai mạc. Trước đó, thực hiện nghị quyết của Đảng về tiếp tục kiện toàn và củng cố Mặt trận Dân tộc thống nhất, đồng chí Tôn Đức Thắng đã tích cực làm công tác chuẩn bị.

Sinh thời, bà Lê Thị Xuyến, nguyên Chủ tịch đầu tiên của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam kể: “Cùng các đồng chí trong Ban Vận động, đồng chí Tôn Đức Thắng không quản ngại khó khăn, vượt đèo, lội suối, gặp gỡ và gửi thư trưng cầu ý kiến nhiều nhân sĩ, trí thức, đại diện lãnh đạo các đảng phái, chức sắc, các tôn giáo nhằm làm cho mọi người nhận thức rõ chính sách của chính phủ kháng chiến và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc chống thực dân xâm lược. Chỉ trong thời gian ngắn, số thư trả lời gần bằng số thư gửi đi. Tôi cũng nằm trong số đông tán thành ngay từ đầu. Bấy giờ, từ ý tưởng của đồng chí Tôn Đức Thắng, tôi khi ấy là Phó chủ tịch Hội Liên Việt được phân công phụ trách lựa chọn tranh, ảnh trưng bày phục vụ đại hội. Hai ngày trước buổi khai mạc, đồng chí Tôn Đức Thắng trực tiếp dẫn đoàn hơn 200 đại biểu dự đại hội đi viếng đài liệt sĩ, tham quan phòng triển lãm. Đây là hoạt động bên lề nhưng lại có ý nghĩa lớn, góp phần khích lệ tinh thần đoàn kết giữa các thành phần dự đại hội. Sự tinh tế của đồng chí Tôn Đức Thắng chính từ những điều nhỏ bé ấy”.

Ngay sau đại hội, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh, đồng chí Tôn Đức Thắng đã cùng một số đồng chí lãnh đạo khác bắt tay vào tổ chức Ban Mặt trận của Trung ương Đảng với nhiệm vụ theo dõi, nghiên cứu giúp Trung ương đôn đốc việc thực hiện chính sách trong cả nước. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp càng gần đến ngày thắng lợi, cần phải huy động tổng lực nhiều mặt, công tác của Mặt trận vì vậy ngoài động viên toàn dân dốc sức cho kháng chiến còn cần phải đẩy mạnh việc thực hiện chủ trương kiến thiết của Đảng. Ngày 24-7-1954, thay mặt Ủy ban Liên Việt toàn quốc, Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã ra Lời kêu gọi đồng bào toàn quốc và kiều bào ở nước ngoài. Trong đó nêu rõ: “Chúng ta quyết không vì thắng lợi mà tự mãn, chủ quan khinh địch, quyết không vì khó khăn mà sờn lòng nản chí. Chúng ta đã dũng cảm trong kháng chiến, chúng ta càng dũng cảm trong hòa bình. Toàn dân ta từ Bắc chí Nam, trong nước và ngoài nước, đoàn kết sắt đá trong Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi, giương cao ngọn cờ hòa bình”.

Tháng 9-1955, Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc diễn ra tại Hà Nội, quyết định lấy tên mới của Mặt trận là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch. Là phóng viên được Báo Phụ nữ Việt Nam cử đến tuyên truyền về đại hội, nhà văn Nguyệt Tú từng kể với chúng tôi: “Sau đại hội, đồng chí Tôn Đức Thắng dành thời gian trao đổi nhanh với báo chí. Đồng chí nhắc lại những nội dung cơ bản trong cương lĩnh của Mặt trận vừa được thông qua, đồng thời khẳng định: Chính sách Mặt trận của ta là chính sách liên minh giai cấp để kháng chiến vì mục đích chung là ích nước, lợi dân, chứ không phải liên minh giai cấp suông. Chúng ta cần đặc biệt chú trọng đến quyền lợi của quần chúng cần lao và đông đảo vì họ là nền tảng của Mặt trận Dân tộc thống nhất. Việc đầu tiên và cấp bách mà các nhà báo cần phải làm lúc này là làm sao đánh thông tư tưởng của mọi người, tuyên truyền giải thích bản cương lĩnh cho thật sâu, thật rộng từ Bắc đến Nam, làm cho mọi người hiểu thấu tinh thần và nội dung của cương lĩnh mà hăng hái ủng hộ”...

Sau khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời tháng 12-1960, đồng chí Tôn Đức Thắng đã gửi thư chúc mừng Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam ra đời (ngày 20-4-1968) từ các phong trào đấu tranh yêu nước của học sinh, sinh viên, trí thức, đồng bào tôn giáo, công thương, nhân sĩ dân chủ tại các thành thị miền Nam. Bằng những công tác trong và ngoài nước, Liên minh đã góp sức động viên, tăng thêm sức mạnh cho khối đoàn kết toàn dân chống đế quốc Mỹ. Trên cương vị Chủ tịch, đồng chí Tôn Đức Thắng đã chỉ đạo Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cử nhiều cán bộ vào miền Nam tham gia công tác mặt trận. Đồng chí luôn dành những tình cảm sâu sắc đối với đồng bào, đồng chí miền Nam, bởi: “Từng giờ từng phút, tôi luôn luôn nghĩ đến miền Nam, nơi chôn rau cắt rốn đang bị đế quốc và bọn tay sai tàn phá. Tôi muốn được sát cánh với đồng bào trong cuộc đấu tranh, cùng đồng bào chia sẻ những gian khổ, hy sinh để giải phóng quê hương yêu dấu”.
Nhớ về đồng chí Tôn Đức Thắng, Thượng tướng Trần Văn Trà, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã kể trong hồi ký: “Ở Việt Bắc, biết có phái đoàn Nam Bộ ra báo cáo tình hình, Bác Tôn đều tới thăm ngay. Lần ấy, tôi là trưởng đoàn nên được gặp Bác lâu hơn. Bác Tôn nói với tôi rằng bác lúc nào cũng nghĩ tới đồng bào Nam Bộ, nghĩ tới chiến trường nơi đồng chí, đồng bào đang kháng chiến gian lao. Bác đã nhiều lần đề nghị với Bác Hồ và Trung ương cho trở vào cùng đồng bào Nam Bộ tham gia kháng chiến nhưng Bác Hồ chưa đồng ý. Bác đề nghị tôi về báo cáo lại với xứ ủy và đồng bào rằng Tôn Đức Thắng là người con của nhân dân Nam Bộ, lúc nào cũng nghĩ tới xứ sở mà mình đã sinh ra và từng hoạt động. Lời nói của Bác Tôn làm chúng tôi vô cùng xúc động. Chúng tôi hiểu, Bác Tôn là người tiêu biểu nhất, người con trung thành nhất của đồng bào, nhân dân Nam Bộ và của khối đại đoàn kết dân tộc nói chung mà ra sức phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ để thỏa lòng mong ước của Bác”.

Trong những giờ phút nước sôi lửa bỏng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Tôn Đức Thắng, đã động viên toàn dân kết thành một khối thống nhất, ra sức thi đua lao động sản xuất và chiến đấu, quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược. Không phải bằng lời kêu gọi mà bằng hành động thực tế hằng ngày, đồng chí Tôn Đức Thắng đã dành nhiều thời gian xuống thăm hỏi các đơn vị LLVT, động viên tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ; nhắc nhở mọi người nêu cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù. Cùng với việc chỉ đạo nhân dân đánh giặc, bảo vệ miền Bắc, đồng chí vẫn quan tâm đặc biệt đến những vấn đề quốc kế dân sinh, chăm lo mọi mặt đời sống nhân dân. Từ phong cách và các hoạt động thực tiễn cụ thể, đồng chí Tôn Đức Thắng đã cùng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam góp phần rất quan trọng vào việc đoàn kết toàn dân, đồng thời tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.

Đất nước thống nhất, trong lễ mừng chiến thắng được tổ chức tại Sài Gòn ngày 15-5-1975, phát biểu chào mừng, đồng chí Tôn Đức Thắng đã kêu gọi toàn dân hãy đoàn kết chặt chẽ hơn, hăng hái chiến đấu và sản xuất để tiến công vào thời kỳ mới. Sau khi thống nhất 3 tổ chức mặt trận ở hai miền Nam-Bắc thành một tổ chức, lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng chí Tôn Đức Thắng được tôn vinh là Chủ tịch danh dự, đồng chí Hoàng Quốc Việt được bầu làm Chủ tịch. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cho đến nay, Mặt trận luôn phấn đấu xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc vững mạnh, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Cá nhân đồng chí Tôn Đức Thắng, trên cương vị người lãnh đạo Mặt trận, đã thực hiện hiệu quả những công việc mà Đảng giao./.

Ngày 12/12/2025 - ngày thi đấu chính thức thứ 3 của SEA Games 33, Đoàn Thể thao Việt Nam tiếp tục có ngày thi đấu thành ...
14/12/2025

Ngày 12/12/2025 - ngày thi đấu chính thức thứ 3 của SEA Games 33, Đoàn Thể thao Việt Nam tiếp tục có ngày thi đấu thành công, giữ vững vị trí thứ 2 trên bảng tổng sắp huy chương toàn đoàn, với 24 HCV, 17 HCB và 43 HCĐ. Đoàn Thể thao Thái Lan đứng thứ nhất trên bảng tổng sắp huy chương với 66 HCV, 43 HCB và 28 HCĐ. Đoàn Indonesia đứng thứ 3 với 20 HCV, 28 HCB và 24 HCĐ.

HẠNH PHÚC CỦA NHÂN DÂN - THƯỚC ĐO GIÁ TRỊ CỦA MỘT NỀN ĐỘC LẬP TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINHSự nghiệp cách mạng vĩ đại của H...
14/12/2025

HẠNH PHÚC CỦA NHÂN DÂN - THƯỚC ĐO GIÁ TRỊ CỦA MỘT NỀN ĐỘC LẬP TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Hồ Chí Minh không phải bắt đầu từ cái phi thường, mà lại bắt đầu từ cái bình thường nhất, đó là tình thương, thương người cùng khổ, thương đồng bào bị áp bức.

Từ điểm xuất phát đó, cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã dấn thân, hóa thân trọn vẹn vào sự nghiệp cách mạng, để tìm đường, mở đường, đưa dân tộc Việt Nam đến độc lập, tự do, hạnh phúc.

Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề giành lại hạnh phúc cho nhân dân

Hạnh phúc là giá trị thuộc về quyền con người, có nguồn gốc tự nhiên. Nhưng cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, biến dân tộc ta thành "vong quốc nô" - kiếp đời nô lệ của một dân tộc mất nước. Lịch sử đặt ra một yêu cầu khách quan là phải tìm được con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, xây dựng xã hội mới không có áp bức, bóc lột, bất công. Hay theo cách Hồ Chí Minh lý giải giản dị, dễ hiểu, muốn sở hữu và thực hiện hạnh phúc không phải tự nhiên có được, mà phải thông qua "mưu cầu hạnh phúc", thực hiện cuộc đấu tranh cách mạng "để tranh lại thống nhất và độc lập cho Tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho Nhân dân".

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc không chỉ giành lại chủ quyền quốc gia, mà còn là đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân. Trong đó, giá trị về hạnh phúc luôn được Người đánh giá cao - là thước đo của một nền độc lập và là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Vì vậy, ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh soạn thảo, nêu rõ chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Cụ thể hóa mục tiêu đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp, đoàn kết toàn dân đánh đuổi thực dân, đế quốc xâm lược, thực hiện mục tiêu dân tộc độc lập, thì mới giải phóng được nhân dân khỏi thân phận nô lệ, mang lại cuộc sống tự do, hạnh phúc cho Nhân dân.

Trong hai cuộc kháng chiến toàn dân chống thực dân, đế quốc, Hồ Chí Minh đã khẳng định chân lý thời đại: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Theo lời hiệu triệu của Người, Nhân dân Việt Nam đã tự nguyện dâng hiến, sẵn sàng hy sinh, kiên quyết đấu tranh để bảo vệ niềm hạnh phúc của con người tự do. Trong Di chúc, ở giai đoạn cuối cùng của cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn trăn trở về công việc "đầu tiên đối với con người", những lời căn dặn lại tuyệt nhiên không có gì ngoài sinh mệnh của Tổ quốc, hạnh phúc của Nhân dân. Từ đó để minh chứng rằng, thực tiễn cách mạng Việt Nam do Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo đã khẳng định: Hạnh phúc là đích đến của cách mạng!

Hạnh phúc của nhân dân - thước đo giá trị của độc lập dân tộc

Với thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, qua bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công bố trước toàn thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - với tiêu chí "Độc lập, tự do, hạnh phúc". Khi chính quyền cách mạng thuộc về đại đa số quần chúng Nhân dân, Người nêu rõ triết lý "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Hồ Chí Minh đã lãnh đạo thực hiện ngay những nhiệm vụ làm cho nhân dân hạnh phúc, xứng đáng với công dân tự do của một nước độc lập.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc không chỉ giành lại chủ quyền quốc gia, mà còn là đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân. Trong đó, giá trị về hạnh phúc luôn được Người đánh giá cao - là thước đo của một nền độc lập và là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ Cách mạng lâm thời, ngày 3.9.1945 - ngay sau 1 ngày Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách. Nhiệm vụ thứ nhất là diệt giặc đói, "chúng ta phải làm sao để người dân được no ấm?". Nhiệm vụ thứ hai là mở một chiến dịch để diệt giặc dốt, vì "một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Thứ ba "tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu". Thứ tư "là phải giáo dục lại Nhân dân chúng ta" để tất cả người dân hưởng quyền tự do của một nước Việt Nam độc lập. Thứ năm, bỏ những thứ thuế vô lý. Thứ sáu, ra tuyên bố tự do tín ngưỡng và đoàn kết lương giáo, tập hợp được đông đảo chức sắc, tín đồ các tôn giáo hết lòng vì sự nghiệp cứu nước, kiến quốc.

Những nhiệm vụ cấp bách đó là làm sao cho người dân "ai cũng có cơm ăn, ai cũng được học hành", đó chính là giá trị đích thực của độc lập tự do. Bởi, nước độc lập thì dân phải được hưởng hạnh phúc, tự do.

Với 6 nhiệm vụ cấp bách được Hồ Chí Minh nêu trên, đã phản ánh rõ sự thống nhất biện chứng giữa giải quyết các vấn đề thiết yếu của đời sống Nhân dân với việc định hình con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Hồ Chí Minh cũng khẳng định: "Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn, mặc đủ".

Vì vậy, Người đề nghị phải làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở và được học hành; cao hơn nữa, người dân là người chủ thật sự, được sống trong tự do, được tôn trọng phẩm giá, đó là mục đích mà chúng ta phải đi tới để củng cố tự do độc lập và để xứng đáng với tự do độc lập. Bởi, khi mỗi người dân được tôn trọng, thì niềm hạnh phúc ấy sẽ không chỉ là đích đến, mà trở thành mạch nguồn vô tận, chuyển hóa thành động lực phi thường, thôi thúc hàng triệu người dân huy động cả trái tim và khối óc để cống hiến, dựng xây và kiên cường bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc.

Chính từ thực tiễn cách mạng Việt Nam đã minh chứng rằng, độc lập, tự do của dân tộc, hạnh phúc của Nhân dân là động lực làm nên mọi thắng lợi. Từ khát vọng về một cuộc sống tự do, ấm no đã biến thành ngọn lửa trong Cách mạng Tháng Tám, tạo bước ngoặt có ý nghĩa vĩ đại nhất trong tiến trình lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc; thành ý chí sắt đá qua hai cuộc kháng chiến thần thánh và là kim chỉ nam cho công cuộc đổi mới hôm nay. Mỗi chặng đường lịch sử gian lao mà vinh quang đó, đều được soi chiếu bởi chân lý bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh "Độc lập, tự do, hạnh phúc".

Bảo đảm hạnh phúc của nhân dân - mục tiêu chiến lược, xuyên suốt của Đảng

Tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc của Nhân dân, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội không chỉ là tầm nhìn, mà còn là yêu cầu của dân tộc, là khát vọng của mỗi người dân để xây dựng một nước Việt Nam thật sự độc lập, tự do, hùng cường.

Thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, để xác định đặc trưng của mô hình xây dựng đất nước, đặc trưng thứ tư của Cương lĩnh năm 1991 đã chỉ rõ: Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội lần thứ XI, đặc trưng thứ năm, Đảng đã khẳng định: Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

Như vậy, hạnh phúc, tự do của Nhân dân là một trong những mục tiêu chiến lược trong đường lối cách mạng của Đảng, được thể hiện xuyên suốt từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên (năm 1930) đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Đây còn là một trong những nhiệm vụ quan trọng của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, các cấp chính quyền không chỉ chăm lo cho con người, mang lại cuộc sống ấm no về vật chất cho nhân dân, mà còn tạo mọi điều kiện để con người phát triển toàn diện, được lao động, được cống hiến và được thụ hưởng thành quả lao động của mình. Đó là ý nghĩa lớn lao của cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của mỗi người dân.

Đến Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, cụm từ HẠNH PHÚC xuất hiện với tần suất nhiều, thể hiện ở tất cả các nội dung của Văn kiện. Bởi, hạnh phúc, ấm no của Nhân dân là mục tiêu phấn đấu của Đảng, của cả hệ thống chính trị. Khi xác định mục tiêu tổng quát, Văn kiện Đại hội lần thứ XIII khẳng định "Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại". Có thể khẳng định, hạnh phúc của Nhân dân là điểm nhấn trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng thể hiện tính con người, tính nhân văn đậm hơn.

Hướng tới Đại hội lần thứ XIV, quan điểm của Đảng một lần nữa khẳng định tính nhất quán, quyết tâm trong định hướng phát triển tại Dự thảo văn kiện "Mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải thật sự xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân; lấy hạnh phúc, sự hài lòng của Nhân dân làm thước đo và mục tiêu phấn đấu".

Đặc biệt, phát biểu tại cuộc họp báo quốc tế ngay sau lễ nhậm chức sáng 3.8.2024, Tổng Bí thư Tô Lâm cho biết, sẽ kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối đổi mới của Đảng, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, lấy hạnh phúc của Nhân dân là niềm vui, lẽ sống; chăm lo đầy đủ và sâu sắc đến đời sống Nhân dân.

Đất nước sau gần 40 năm đổi mới, cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế đã được nâng lên một tầm cao mới, vươn tới những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ một nước nghèo, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá, bị bao vây, cô lập, đến nay Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức quốc tế, diễn đàn đa phương quan trọng…

Quy mô nền kinh tế năm 2024 đã đạt trên 470 tỉ USD, đứng thứ 32 thế giới và nằm trong nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài. Đời sống của người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, hiện chỉ còn 1,93% (theo chuẩn đa chiều) so với mức 60% năm 1986.

Báo cáo Hạnh phúc thế giới năm 2025 cho thấy Việt Nam đứng thứ 46, cải thiện tích cực so với vị trí 54 của năm 2024, vị trí thứ 65 của năm 2023 và chỉ đứng sau Singapore tại khu vực Đông Nam Á.

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đó là kết quả của cả quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, khẳng định Nhân dân là chủ thể của công cuộc đổi mới, là trung tâm của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Bắt đầu từ mục đích ra đi tìm đường cứu nước của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, đến Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cho đến Di chúc thiêng liêng Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho muôn đời sau, đầu tiên và cuối cùng cũng đều vì "Độc lập, tự do, hạnh phúc" cho con người, vì con người. Đó chính là mệnh lệnh của cuộc sống để triệu triệu trái tim hồng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng tự cường, tự tin, tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, vì hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.

Báo Thanh Niên

14/12/2025

"Đò lên Thạch Hãn xin chèo nhẹ. Đáy sông còn đó bạn tôi nằm. Có tuổi hai mươi thành sông nước. Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm"

14/12/2025

CHIẾN DỊCH QUANG TRUNG THẦN TỐC 🤩

14/12/2025

TRẬN ĐẤU NÀY THUA CÓ THỂ CHẤP NHẬN ĐƯỢC 🥰🥰😊

“CHIẾN DỊCH QUANG TRUNG" THẦN TỐC - VÌ NHÂN DÂN QUÊN MÌNH”🇻🇳"KHÔNG NÓI KHÔNG, KHÔNG NÓI KHÓ", CÁN BỘ, CHIẾN SĨ TRUNG ĐOÀ...
14/12/2025

“CHIẾN DỊCH QUANG TRUNG" THẦN TỐC - VÌ NHÂN DÂN QUÊN MÌNH”
🇻🇳"KHÔNG NÓI KHÔNG, KHÔNG NÓI KHÓ", CÁN BỘ, CHIẾN SĨ TRUNG ĐOÀN BB971 QUYẾT TÂM ĐẨY NHANH TIẾN ĐỘ XÂY DỰNG NHÀ Ở GIÚP NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK VÀ CÁC XÃ ĐÔNG GIANG, TÂY GIANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG🇻🇳

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh: Thầy thuốc Nhân dân Nguyễn Kim Nữ Hiếu - Sáng ngời phẩm c...
14/12/2025

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh: Thầy thuốc Nhân dân Nguyễn Kim Nữ Hiếu - Sáng ngời phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ - Bài 1: “Bông hồng thép” ở chiến trường

Từ những năm tháng mang thai vẫn xung phong ra chiến trường đến quãng đời miệt mài cống hiến trong ngành y, Đại tá, PGS, TS, Thầy thuốc Nhân dân Nguyễn Kim Nữ Hiếu, nguyên Phó giám đốc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 luôn tỏa sáng bằng nghị lực, trí tuệ và lòng nhân hậu. Dù ở bất kỳ cương vị nào, nữ thầy thuốc quân y Nguyễn Kim Nữ Hiếu luôn giữ vững phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, nỗ lực phấn đấu, tận hiến.

Nhắc đến Đại tá, PGS, TS, Thầy thuốc Nhân dân Nguyễn Kim Nữ Hiếu, người ta không chỉ nhớ đến bà với những công trình nghiên cứu y học có giá trị mà còn là hình ảnh của một phụ nữ kiên cường, mang thai nhưng vẫn xung phong ra chiến trường...

Từ giảng đường ra chiến trường...

Thầy thuốc Nhân dân Nguyễn Kim Nữ Hiếu - Sáng ngời phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ - Bài 1: “Bông hồng thép” ở chiến trường
Bác sĩ Nguyễn Kim Nữ Hiếu tại chiến trường Quảng Trị, năm 1972. Ảnh do nhân vật cung cấp
Nguyễn Kim Nữ Hiếu sinh năm 1942, tại làng Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức (nay là xã Hoài Đức, TP Hà Nội) trong một gia đình trí thức danh giá: Bố là Nguyễn Văn Huyên từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) lâu nhất trong lịch sử Việt Nam (29 năm); mẹ là Vi Kim Ngọc-con gái Tổng đốc Vi Văn Định. Là con thứ ba trong gia đình có 4 người con đều thành đạt và cống hiến cho đất nước (chị cả là Nguyễn Kim Nữ Hạnh, kỹ sư đường sắt; chị hai là PGS, TS Nguyễn Kim Bích Hà, chuyên ngành hóa học; em trai là PGS, TS Nguyễn Văn Huy, nguyên Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam), Nguyễn Kim Nữ Hiếu không theo nghề các thành viên trong gia đình mà học ngành y và phục vụ trong Quân đội, để rồi trở thành một trong những nữ bác sĩ tiêu biểu của nền y học Quân đội nước nhà.

Năm 1965, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước vào giai đoạn ác liệt, hưởng ứng Phong trào “Ba đảm đang” do Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động, Nữ Hiếu đang là sinh viên năm cuối Trường Đại học Y khoa Hà Nội đã tình nguyện nhập ngũ. Những ngày đầu trong quân ngũ là chuỗi ngày rèn luyện khắc nghiệt tại Viện Nghiên cứu Y học Quân sự (nay là Học viện Quân y). Hoàn thành khóa huấn luyện, bác sĩ Nữ Hiếu lần lượt công tác tại Phân viện 9 (nay là Bệnh viện Quân y 109), Đội điều trị 11 (thuộc Cục Quân y, Tổng cục Hậu cần) rồi Viện Quân y 108 (tiền thân của Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 ngày nay).

Đầu năm 1972, Nữ Hiếu nhận lệnh tham gia Đoàn chuyên khoa sâu 730B lên đường vào chiến trường Quảng Trị. Đây là thời điểm thiêng liêng nhất trong cuộc đời nữ bác sĩ trẻ khi vừa xây dựng gia đình với thầy giáo Nguyễn Lân Dũng (sau này là GS, TS, Nhà giáo Nhân dân) được 4 tháng và đang mang thai đứa con đầu lòng. “Thời điểm đó, tôi phải giấu tổ chức về tình trạng mang thai để được ra chiến trường, chỉ có mẹ, chị cả và chồng tôi biết. Tôi giãi bày với người thân rằng chiến trường đang rất cần các y, bác sĩ vào cứu chữa cho bộ đội, mình phải gác nỗi lo riêng tư, vì mục tiêu cao cả là giành độc lập cho dân tộc. Thật hạnh phúc vì người thân của tôi ủng hộ quyết định đó và tôi lên đường ra mặt trận, trở thành nữ bác sĩ đầu tiên của Viện Quân y 108 trực tiếp tham gia chiến đấu, cứu chữa thương binh trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”.

Hành trình vào chiến trường ngày đó vô cùng gian khổ, phải hành quân bộ băng rừng, lội suối, vượt qua những ngọn núi cao từ Quảng Bình (cũ) vào Quảng Trị. Đoàn hành quân xuyên rừng, đến đoạn chuẩn bị vượt Bãi Hà (Quảng Bình) thì bác sĩ Nữ Hiếu và y tá Thúy Quỳnh bắt đầu đuối sức. Nhận thấy hai người quay lại cụm mặt trận H1. Giây phút chia tay, hai chị em cứ nước mắt lăn dài... Thay vì nản chí, họ động viên nhau sớm hồi phục, rèn luyện thật nhanh để kịp trở lại chiến trường cùng đồng đội.

Trở lại cụm mặt trận H1, hai người phụ nữ nhỏ bé miệt mài luyện tập. Một tuần sau, khi nghe tin có đoàn của Đội điều trị 204 vào Quảng Trị, họ liền xin gia nhập để vào chiến trường. Tới Quảng Trị, gặp lại các thành viên trong Đoàn chuyên khoa sâu 730B, ai cũng ngạc nhiên khi thấy Nữ Hiếu và Thúy Quỳnh vào chiến trường nhanh đến vậy, họ tưởng rằng hai cô gái ấy sức khỏe yếu đã ra miền Bắc rồi. Chưa kịp vui mừng khi đoàn tụ với mọi người, bác sĩ Nữ Hiếu được phân công điều trị một chiến sĩ bị hôn mê. Với những kiến thức đã được học, Nữ Hiếu nhanh chóng xác định bệnh nhân bị sốt rét ác tính và tiêm thuốc cho bệnh nhân. Đêm hôm ấy, Nữ Hiếu thức trắng đêm để theo dõi tình trạng bệnh nhân và thật mừng là đến sáng hôm sau, bệnh nhân đã tỉnh lại.

Thầy thuốc Nhân dân Nguyễn Kim Nữ Hiếu - Sáng ngời phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ - Bài 1: “Bông hồng thép” ở chiến trường
Bác sĩ Nguyễn Kim Nữ Hiếu chăm sóc các chiến sĩ bị thương tại chiến trường Quảng Trị, năm 1972. Ảnh do nhân vật cung cấp
Đoàn chuyên khoa sâu 730B được tăng cường cho Đội điều trị 204, đóng quân ở một làng thuộc huyện Hướng Hóa (cũ), tỉnh Quảng Trị-nơi bom đạn địch ngày, đêm giội xuống ác liệt. Thời điểm đó, phòng mổ không khi nào ngưng nghỉ bởi thương binh đưa về liên tục; các y, bác sĩ vừa phải đào hầm tránh bom vừa gùi gạo, dựng lán, xây hầm mổ dã chiến giữa rừng.

Tại chiến trường, Nữ Hiếu có nhiệm vụ chăm sóc thương binh, bệnh binh, đảm nhận công việc của cả bác sĩ, y tá lẫn hộ lý. Nữ Hiếu vừa rửa vết thương, tiêm thuốc vừa đun nước, đút cơm, động viên tinh thần bộ đội. Giữa những khoảng thời gian ngắn ngủi trong ca trực, nữ bác sĩ trẻ lại tranh thủ tự học, trau dồi chuyên môn, đồng thời cùng đồng nghiệp tổ chức giảng bài, tập huấn nghiệp vụ. “Những ngày ấy, mỗi lần nhìn thấy bộ đội bị thương, mất đi một phần thân thể hay khi tiễn đưa đồng đội nằm lại chiến trường, chúng tôi chỉ có suy nghĩ duy nhất là làm hết sức mình để quyết thắng giặc”, PGS, TS Nguyễn Kim Nữ Hiếu xúc động nhớ lại.

Giữa bom đạn khốc liệt nơi chiến trường, nhiều đêm, Nữ Hiếu thì thầm với đứa con trong bụng, mong con khỏe mạnh để cùng mẹ vượt qua gian khổ. Rồi bác sĩ được đơn vị gửi ra miền Bắc để chuẩn bị sinh con và người con ấy sau này là PGS, TS Nguyễn Lân Hiếu, Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội-một trong những chuyên gia tim mạch hàng đầu Việt Nam.
.. đến người lãnh đạo tận tâm

Sau khi sinh con, bác sĩ Nữ Hiếu trở lại công tác tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Dù không còn trực tiếp ở chiến trường, bác sĩ Nữ Hiếu vẫn hướng ra mặt trận và phấn đấu đóng góp bằng những đề tài nghiên cứu về sốt rét và lỵ trực khuẩn (hai bệnh mà bộ đội mắc nhiều nhất tại chiến trường) nhằm có phác đồ điều trị hiệu quả, giảm tử vong, bảo đảm sức chiến đấu cho bộ đội.

Thầy thuốc Nhân dân Nguyễn Kim Nữ Hiếu - Sáng ngời phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ - Bài 1: “Bông hồng thép” ở chiến trường
PGS, TS Nguyễn Kim Nữ Hiếu (đứng thứ tư, từ trái sang) cùng các bác sĩ của Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 thăm khám bệnh nhân, năm 1999. Ảnh do nhân vật cung cấp
Nguyễn Kim Nữ Hiếu kinh qua nhiều vị trí công tác rồi trở thành Phó giám đốc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Không chỉ làm tốt nhiệm vụ quản lý và khám, chữa bệnh cho bộ đội, PGS, TS Nguyễn Kim Nữ Hiếu còn có gần 50 công trình khoa học đăng trên các tạp chí và là đồng tác giả của 4 cuốn sách về các bệnh truyền nhiễm, chức trách của cán bộ, nhân viên y dược. Đặc biệt, trên cương vị lãnh đạo, bà rất quan tâm đến đời sống của cán bộ, nhân viên Bệnh viện. Bà là người có công lớn khi trực tiếp xin các cấp lãnh đạo phê duyệt dự án xây khu nhà ở dành cho cán bộ, nhân viên của Bệnh viện tại phố Lạc Trung, quận Hai Bà Trưng (nay thuộc phường Vĩnh Tuy), TP Hà Nội.

Từng là đồng nghiệp và cũng là học trò của PGS, TS Nguyễn Kim Nữ Hiếu, Thiếu tướng, GS, TS Lê Hữu Song, Giám đốc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 bày tỏ: “Khi tôi mới về công tác tại Bệnh viện, cô Nữ Hiếu đã giữ cương vị Phó giám đốc Bệnh viện. Cô là bậc tiền bối có trình độ chuyên môn cao, luôn tận tụy, hết lòng vì sự phát triển của Bệnh viện. Dù đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo, cô vẫn rất gần gũi, chân thành, luôn sẵn sàng chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn cho thế hệ trẻ như chúng tôi. Điều đặc biệt là sau khi nghỉ hưu, cô vẫn luôn dõi theo, quan tâm đến sự phát triển của Bệnh viện và các thế hệ sau. Trong mọi sự kiện quan trọng của đơn vị, cô đều có mặt, đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết, thiết thực cho sự phát triển của Bệnh viện. Cô còn là cầu nối giữa các thế hệ cán bộ, bác sĩ, từ lớp đi trước đến lớp kế cận. Những công trình khoa học, bài giảng và những cuốn sách chuyên môn của cô Nữ Hiếu là nguồn tài liệu quý, nền tảng vững chắc cho các nghiên cứu tiếp theo, góp phần nâng cao chất lượng chẩn đoán, khám và điều trị bệnh cho nhân dân”.

Thầy thuốc Nhân dân Nguyễn Kim Nữ Hiếu - Sáng ngời phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ - Bài 1: “Bông hồng thép” ở chiến trường
Vợ chồng Đại tá, PGS, TS, Thầy thuốc Nhân dân Nguyễn Kim Nữ Hiếu. Ảnh do nhân vật cung cấp
Sau hơn 36 năm công tác tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, PGS, TS Nguyễn Kim Nữ Hiếu nghỉ hưu năm 2003. Mang trái tim của người lính-phụ nữ và khối óc của người thầy thuốc, bà tâm niệm giản dị rằng: “Đã là Bộ đội Cụ Hồ thì không ngừng làm việc, còn sức lực là còn cống hiến cho đất nước”. Vậy là một hành trình mới của PGS, TS Nguyễn Kim Nữ Hiếu lại mở ra...

(còn nữa)

Address

Tân An

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Tự Hào Người Lính Tân An posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share