13/08/2024
BA LOẠI THAM ÁI (TAṄHĀ)
Ái có ba loại, đó là:
⑴ dục ái (kāmataṅhā), tham đắm các dục lạc thế gian;
⑵ hữu ái (bhavataṅhā) tham đắm các dục lạc thế gian kết hợp với quan niệm về sự thường hằng, hay thường kiến;
⑶ phi hữu ái (vibhavataṅhā), tham đắm các dục lạc thế gian kết hợp với quan niệm của chủ nghĩa hư vô hay đoạn kiến.
Ba loại ái này tiếp nhận và chấp nhận cái gánh nặng Bản Thân gọi là các uẩn.
I. KĀMATAṄHĀ (Dục ái)
Dục ái là khao khát những đối tượng đem lại những vui thích nhục dục. Những đối tượng này có thể bắt nguồn từ trong chính chúng ta hay trong những người khác.
Khi những điều vui thích hay đẹp đẽ hấp dẫn chúng ta, ngay lập tức chúng ta phải nhận ra rằng: tham ái đối với những vật đó đã hình thành trong chúng ta.
Ở đây, những đối tượng giác quan xinh đẹp không chỉ có nghĩa là những đối tượng chính của sự vui thích và xinh đẹp.
Khi chúng ta nói đến một cô gái đẹp hay một cậu trai đẹp, chúng ta không chỉ nói đến cô gái hay cậu trai có ngoại hình xinh đẹp, mà còn muốn nói đến những vật phụ tùng của cái đẹp đó như áo quần, …
Vì thế khi chúng ta nói tham ái đã hình thành, chúng ta không chỉ có ý nói tham ái đã phát triển đối với cảnh sắc và âm thanh thú vị, mà còn muốn nói đến những vật phụ tùng đi kèm với chúng.
Khi chúng ta nói về sự khát khao mùi thơm, vị ngon, xúc chạm khả lạc và những hình ảnh tưởng tượng trong tâm, khi chúng ta ao ước được tái sanh làm người, làm chư thiên, làm đàn ông, đàn bà, v.v… Suy xét theo cách tương tự, mọi ao ước của chúng ta đều liên quan đến các dục lạc, được trông đợi từ các dục trần sẽ xuất hiện ở sáu giác quan mà thôi.
Sự phát triển của tham ái là do vô minh (avijja). Vô minh hay si mê, vừa che đậy bản chất thực của mọi hiện tượng, vừa để lộ ra mặt trái của sự thực, vì vậy nó góp phần vào sự xuất hiện của tà tư duy.
Vì nó che đậy sự thực nên cái giả có điều kiện thuận lợi xuất hiện.
Theo cách này, vô minh cho thấy: vô thường là thường, bất toại nguyện là toại nguyện và không có thực thể là có thực thể.
Chính vì vậy vô ngã (anatta) bị lầm chấp là ngã (atta).
Tương tự như vậy, bất thiện được xem là thiện, bất tịnh được xem là tịnh,….
Khi vô minh có mặt thì tham ái và chấp thủ sanh, và do tham ái này chúng ta cố gắng hết sức để hoàn thành khát vọng của chúng ta; và khi chúng ta nỗ lực để hoàn thành khát vọng ấy, nghiệp (kamma) và các hành (saṅkhāras) bắt đầu hoạt động. Chúng tạo ra các Uẩn mới.
Vì thế, sau đời sống này chúng ta đi qua một đời sống khác trong một uẩn mới, tất cả là do tham ái được vô minh thúc đẩy. Cuối cùng chúng ta bị bỏ lại với gánh nặng phải mang.
II. BHAVATAṆHĀ (Hữu ái)
Ở trên tôi [Mahasi Sayadaw] đã đề cập đến Dục Ái (kāma taṅhā), kế tiếp tôi sẽ nói về Hữu Ái.
Có hai quan niệm sai lầm về sự sống mà hàng phàm nhân thường chấp giữ. Một được gọi là Thường Kiến (sassata diṭṭhi), và hai là Đoạn Kiến (uccheda-diṭṭhi).
Hữu ái phát sanh kết hợp với thường kiến cho rằng: dục lạc là bất khả hoại, vì linh hồn sẽ tiếp tục tồn tại vĩnh hằng. Phần vật chất của thể xác có thể bị hủy hoại, nhưng phần tinh thần của nó sẽ di chuyển từ thân này đến thân khác làm phát sanh một kiếp sống mới.
Vũ trụ này có thể bị hủy hoại, nhưng linh hồn sẽ tiếp tục sống. Linh hồn là thường hằng, là bất diệt.
Quan niệm này được xem là phổ biến nhất ngoài giáo pháp của Đức Phật.
Một số người chủ trương quan niệm này cho rằng: khi một người chết, họ được đưa lên thiên đàng và ở đây họ sống vĩnh hằng, hay phải xuống địa ngục đời đời, theo ý Chúa.
Một số khác thì tin rằng: linh hồn sẽ di chuyển từ thân này sang thân khác, và tự làm mới lại theo sự vận hành của nghiệp họ đã làm.
Số khác nữa thì tin rằng: sự sống được tiền định và cố định không thể thay đổi được, nó sẽ tiếp tục vĩnh hằng như vậy theo sự tiền định.
Nói tóm lại, tin vào sự thường hằng của linh hồn là thường kiến (sassasa diṭṭhi). Theo quan niệm này, sự sống được ví giống như một con chim nhảy từ cây này sang cây khác, khi cái cây già thứ nhất nó đậu mục nát. Cũng vậy, khi thân này chết, linh hồn đi ra khỏi nó để đến một thân mới khác.
Dưới ảnh hưởng của Hữu Ái (bhava taṅhā) được hỗ trợ bởi ý niệm về sự vĩnh hằng, con người lấy làm hài lòng với ý nghĩ cho rằng: cái tôi hay cái ngã (atta) thường xuyên đi theo mình.
Họ cảm thấy như cái đang hiện hữu đây chính là họ, và tin rằng: những gì họ đang được hưởng, họ cũng sẽ được hưởng trong các kiếp sống tương lai.
Chính vì vậy, sự dính mắc của họ vào những gì họ thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và suy nghĩ ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn trong suốt cuộc luân hồi này.
Họ không chỉ thích thú trong các dục trần họ hưởng thụ trong kiếp hiện tại, mà còn thích thú trong cả những cái mà họ hy vọng sẽ được hưởng trong kiếp sau.
Họ muốn hưởng thụ cuộc sống hiện tại và họ cũng mong muốn được tiếp tục hưởng nó trong những kiếp lai sanh.
Sau khi đã được sống một kiếp sống hạnh phúc như một con người, họ thậm chí còn đi xa hơn thế nữa, đó là hy vọng được hưởng các lạc thú của cõi trời như một vị chư thiên.
Lòng tham cứ tăng trưởng mãi như vậy. Có những người thích kiếp nào sinh ra cũng được làm người nam trong khi những người khác lại nguyện được làm người nữ. Tất cả những khao khát này là công việc của hữu ái (bhava taṅḥā).
Con người không biết rằng sự mong mỏi những dục trần mà họ đã từng được hưởng thụ và chấp đắm vào chúng ấy có nghĩa là họ đã chấp nhận mang cái gánh nặng của năm uẩn.
Do đó, Hữu Ái chính là sự khát khao các dục lạc cộng với niềm tin cho rằng linh hồn hay tự ngã tồn tại vĩnh hằng.
III. VIBHAVATAṄHĀ (Phi hữu ái)
Ngắn gọn, uccheda-diṭṭhi (đoạn kiến) là tin không có đời sau. Mọi thứ đều diệt vong sau khi chết.
Đây là giáo thuyết do Ajita, một trong những ngoại đạo sư cùng thời với Đức Phật giảng dạy và rất thịnh hành thời ấy.
Giáo thuyết này cho rằng: Một cá nhân do tứ đại — đất, nước, lửa, gió — tạo thành. Khi họ chết, địa đại trở về với đất lớn; thủy đại chảy vào biển nước; hỏa đại chuyển thành hơi nóng; phong đại trở về với khối không khí. Tất cả các giác quan… Thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và suy nghĩ…. biến mất vào trong hư không.
Khi một cá nhân, dù họ là người trí hay kẻ ngu, chết, thân xác bị hủy hoại diệt mất. Chẳng còn lại gì sau khi chết cả.
Những người theo thuyết hư vô của trường phái Ajita này không nhìn nhận sự hiện hữu của thức. Tất cả các căn, thấy, nghe, …. là do vật chất tạo thành. Vì thế khi đề cập đến các căn này họ dùng từ Indriya, căn hay giác quan. Theo họ, khi một người chết, vật chất bị hủy diệt, các căn của người ấy tan rã vào hư không.
Bất kể người nào chết, dù là trí hay ngu, sự sống của họ bị “cắt đứt” hay chấm dứt. Khi một người ngu chết, sẽ không có tái sanh nên người ấy không cần phải có những day dứt hay hối tiếc về những ác nghiệp của mình, cũng giống như người trí bình thản trước những thiện nghiệp của họ vậy.
Tóm lại, đây là cách suy nghĩ của Ajita. Tất nhiên, giáo lý của ông hấp dẫn đối với những người thích làm điều ác, và cảm thấy khó chịu khi làm điều thiện.
Vì giáo lý này mặc nhiên công nhận không có sự sống sau khi chết, nó có thể bị vặn lại là có sự sống trước khi chết chăng?
Nếu nói rằng có, nó có thể bị hỏi thêm: “Sự sống trước khi chết là gì?”
Câu trả lời, theo phương châm lý luận của Ajita và những người cùng quan điểm với ông thì sự sống trước khi chết là atta (bản ngã) hay satta (chúng sinh). Điều này gợi ý rằng: bất chấp quan niệm của họ là chỉ có tứ đại, atta hay satta vẫn hiện hữu.
Đây là sự chấp thủ vào bản ngã thuần tịnh và đơn giản. Những người chủ trương đoạn kiến ước định rằng: con người không nên phí thì giờ làm điều thiện cho những kiếp lai sanh (vì sẽ không có sự sống sau khi chết), thay vào đó hãy dành hết thì giờ để hưởng thụ kiếp sống hiện tại, kiếp sống duy nhất con người có.
Tham ái xuất phát từ quan niệm Phi Hữu Ái (vibhavataṅhā) này thúc đẩy con người lao vào hưởng thụ các dục lạc trong khi còn sống, vì mọi thứ sẽ tàn lụi sau khi chết.
Lẽ đương nhiên, hệ tư tưởng này có một sức hấp dẫn rất lớn đối với những người thích làm điều ác, ngại làm các điều thiện như bố thí, giữ giới, tu thiền. Vì không có gì xảy ra sau khi chết, nên không cần thiết phải tạo trữ phước thiện.
Những người say mê quan niệm này sẽ không thích ý niệm cho rằng: cuộc sống luôn luôn đổi mới và quả của thiện nghiệp cũng như ác nghiệp sẽ đi theo dấu vết của họ.
Nếu không có đời sống mới xảy ra sau khi chết, mọi ác nghiệp của họ sẽ chấm dứt cùng với cái chết của họ, và họ sẽ không phải chịu trách nhiệm về bất cứ hậu quả thiện ác nào. Thực sự những ác nghiệp mà họ làm sẽ bị xóa sạch sau khi họ chết, và xuất ra khỏi họ như một con cừu vô tội, Phi Hữu Ái luôn luôn tìm được sự thỏa mãn trong những ý niệm về sự hủy diệt hoàn toàn như vậy.
Tôi sẽ tóm lại những gì đã được nêu ra từ trước đến nay:
Cái gì là gánh nặng? Năm uẩn là gánh nặng.
Ai mang gánh nặng? “Người” do năm uẩn tạo thành mang gánh nặng.
Ai chấp nhận vận chuyển gánh nặng này? Tham ái (taṅhā) chấp nhận vận chuyển gánh nặng này.
Nguồn trích dẫn: GIẢNG GIẢI KINH GÁNH NẶNG
Thiền Sư Mahasī Sāyadaw.
Fb Tỳ Kheo Sumangala Bhikkhu Viên Phúc
Trích lược và chia sẻ:
Thực Hành Vipassana x Tứ Niệm Xứ x Thiền Minh Sát
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammasambuddhassa. Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammasambuddhassa. Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammasambuddhassa.