Khâm Thiên Học Đường

  • Home
  • Khâm Thiên Học Đường

Khâm Thiên Học Đường Truyền bá ứng dụng thực tế của phong thủy trong cuộc sống một cách khoa học Kiến Thức Phong Thủy quốc tế từ Đài Loan,Trung Quốc, Malaisia

Phong thủy tháng 10. Bài 4: Nhà chị Giang ở Hà Tĩnh1.Thông tin chung+Nhà tọa nhâm hướng bính (hướng nam 167 độ), đại quá...
30/10/2025

Phong thủy tháng 10. Bài 4: Nhà chị Giang ở Hà Tĩnh

1.Thông tin chung
+Nhà tọa nhâm hướng bính (hướng nam 167 độ), đại quái vận 7
+Chồng: 1983 quý hợi, mệnh 8, đại quái 6/6
+Vợ 1987 đinh mão, mệnh 2, đại quái 6/9
+Con trai 2015 ất mùi , mệnh 3, đại quái 7/6
+Con trai 2016 bính thân, mệnh 2, đại quái 4/9
`
2.Cửa chính (vào phòng khách)
- hướng cửa ở vận 7 tuy nhiên vị trí lại bị xuất quái
- Khí nạp vào 45 đây là trường hợp nạp hung khí ngũ hoàng đại sát ngũ hành thổ. Hung khí ảnh hưởng xấu đến tài, vào những năm bị kích hoạt dễ phá tài
- Khí ngũ hoàng thổ vượng ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, nhất là các bộ phận thủy trong người (bảng ngũ hành thủy tham khảo), dễ mắc bệnh thuộc thổ và thủy. Bệnh khí. Sao ngũ hoàng dễ gây bệnh nặng và bệnh lâu dài là một trong những sát khí cần phải tránh trong phong thủy
- Mệnh người không ai thuộc thủy tuy nhiên những người có bệnh nền thuộc thủy thổ khi ở nhà này ảnh hưởng mạnh nhất
3.wc tầng 1
- Nhà vệ sinh tầng 1 ở cung cấn, trùng với mệnh chủ nhà nên ảnh hưởng sức khỏe chủ nhà, bệnh dễ mắc thuộc thủy, nhà phục ngâm tọa nên mức độ xấu tang lên.
* Nhà này địa hình bên ngoài rất đặc biệt: nhà làm trên gò, cách không xa lắm là song lớn, hướng nhà ngược với dòng sông
* Tầm soát toàn bộ nhà còn nhiều vị trí xấu khác ảnh hưởng trực tiếp sức khỏe tài vận gia chủ ở đây ghi sơ bộ tham khảo.
* Với nhà nạp hung khí thế này cần có Phuong pháp điều chỉnh và hóa giải

Địa Chi và Sao Bắc ĐẩuĐịa Chi được xác định dựa trên hướng chỉ của cán sao Bắc Đẩu, tức là dựa trên việc bảy ngôi sao Bắ...
25/10/2025

Địa Chi và Sao Bắc Đẩu

Địa Chi được xác định dựa trên hướng chỉ của cán sao Bắc Đẩu, tức là dựa trên việc bảy ngôi sao Bắc Đẩu xoay quanh sao Bắc Cực một vòng tròn trong một năm để đánh dấu bốn mùa. Như câu nói: “Cán Đẩu chỉ đông, thiên hạ đều xuân; cán Đẩu chỉ nam, thiên hạ đều hạ; cán Đẩu chỉ tây, thiên hạ đều thu; cán Đẩu chỉ bắc, thiên hạ đều đông.”

Khi cán Đẩu chỉ về hướng Tý, thì đến tháng Tý (tháng Mười Một). Vào ngày Đông chí, hoàng kinh của mặt trời đạt 270°, rơi vào khoảng ngày 21-23 tháng 12 dương lịch hàng năm, lúc này cán Đẩu chỉ về hướng Tý (sao Bắc Cực nằm đúng trên đường kéo dài của cán Đẩu). Vào thời nhà Chu, tháng Tý được chọn làm tháng đầu năm, Đông chí đánh dấu điểm khởi đầu của năm mới, khi mặt trời ở Bắc bán cầu có độ cao thấp nhất, thời gian ban ngày ngắn nhất, và khi sao Bắc Cực nằm trên đường kéo dài chính xác của cán Đẩu, năm mới của nhà Chu bắt đầu.

Mùa xuân là mùa đầu tiên trong năm, và khi cán Đẩu chỉ về hướng Dần (ba tháng sau Đông chí), thiên hạ đều vào xuân. Vì vậy, các triều đại đều lấy thời điểm cán Đẩu chỉ về hướng Dần làm tháng Giêng.

Hướng chỉ của cán sao Bắc Đẩu được gọi là “Kiến”, “Kiến” biểu thị hướng chỉ của đầu cán Đẩu. Trong văn hóa truyền thống, vị trí Dần tương ứng với “Cấn vị” trong hậu thiên bát quái, là phương vị kết thúc một năm và bắt đầu một năm mới, biểu thị sự kết thúc và khởi đầu, như trong Kinh Dịch - Thuyết Quái Truyện: “Cấn, quái Đông Bắc, là nơi vạn vật kết thúc và cũng là nơi vạn vật bắt đầu.” Do đó, cán Đẩu bắt đầu từ hướng chính đông lệch bắc (vị trí Dần, tức Cấn vị trong hậu thiên bát quái), xoay một vòng qua các hướng đông, nam, tây, bắc, tạo thành một chu kỳ, gọi là một năm, và lấy ngày Lập Xuân làm điểm khởi đầu của năm.

Các tiết khí được xác định bởi hướng chỉ của cán Đẩu, bắt đầu từ Lập Xuân (Dần) và kết thúc ở Đại Hàn (Sửu). Khi cán Đẩu chỉ về hướng chính bắc “Tý” là tiết Đông chí. Khi cán Đẩu chỉ về hướng chính đông “Dần” là tiết Lập Xuân. Khi cán Đẩu chỉ về hướng bắc “Sửu” là tiết Đại Hàn.

Các tháng tương ứng với các Địa Chi khác được suy ra lần lượt: tháng Mão - tháng Hai, tháng Thìn - tháng Ba, … tháng Tý - tháng Mười Một, tháng Sửu - tháng Mười Hai.

Hai mươi tư tiết khí: Lập Xuân, Vũ Thủy (Dần), Kinh Trập, Xuân Phân (Mão), Thanh Minh, Cốc Vũ (Thìn), Lập Hạ, Tiểu Mãn (Tỵ), Mang Chủng, Hạ Chí (Ngọ), Tiểu Thử, Đại Thử (Mùi), Lập Thu, Xử Thử (Thân), Bạch Lộ, Thu Phân (Dậu), Hàn Lộ, Sương Giáng (Tuất), Lập Đông, Tiểu Tuyết (Hợi), Đại Tuyết, Đông Chí (Tý), Tiểu Hàn, Đại Hàn (Sửu).

PHỐI HỢP HÌNH KHÍ TRONG PHONG THỦYKhí:Trong phong thủy, “khí” được hiểu là một loại năng lượng hoặc trường năng lượng vô...
23/10/2025

PHỐI HỢP HÌNH KHÍ TRONG PHONG THỦY

Khí:

Trong phong thủy, “khí” được hiểu là một loại năng lượng hoặc trường năng lượng vô hình, có ảnh hưởng quan trọng đến cuộc sống và vận mệnh của con người.
“Khí” được chia thành tốt và xấu. Khí tốt mang lại sự may mắn, sức khỏe và tài lộc, trong khi khí xấu có thể gây ra bệnh tật, nghèo khó và bất hạnh.
Một trong những mục tiêu chính của phong thủy là tìm kiếm và tạo ra “trường khí tốt” để hỗ trợ cuộc sống của con người.

Hình:

“Hình” đề cập đến địa hình, địa mạo cụ thể và cách bố trí, hình dạng của các công trình kiến trúc.
Trong phong thủy, “hình” được xem là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến “khí”. Một địa hình và bố cục kiến trúc tốt có thể giúp tích tụ và duy trì khí tốt, trong khi địa hình và bố cục xấu có thể gây ra sự thất thoát hoặc phá hủy khí.
Ví dụ, địa thế “tựa núi hướng sông” hoặc “âm dương hòa hợp” được coi là có lợi cho việc tích tụ “sinh khí”, trong khi cửa chính bị chắn bởi các tòa nhà cao lớn có thể khiến khí không thể lưu thông vào nhà.

Mối quan hệ giữa khí và hình:

Trong phong thủy, khí và hình là hai yếu tố không thể tách rời, cùng tạo thành một thể thống nhất.
Các nhà phong thủy khi lựa chọn và bố trí công trình sẽ xem xét toàn diện các yếu tố như địa hình, địa mạo, cách sắp xếp và hình dạng của công trình để đạt được hiệu quả khí trường tốt nhất.
Thông qua thiết kế và bố trí hợp lý, công trình có thể hài hòa với môi trường xung quanh, từ đó tạo ra một không gian sống mang lại sự cát tường và thuận lợi cho con người.

LÝ THUYẾT CỐT LÕI CỦA PHONG THỦY: “KHÍ”Những người sống trong xã hội hiện đại, muốn hiểu sâu sắc về lý thuyết phong thủy...
22/10/2025

LÝ THUYẾT CỐT LÕI CỦA PHONG THỦY: “KHÍ”

Những người sống trong xã hội hiện đại, muốn hiểu sâu sắc về lý thuyết phong thủy và thực tiễn của nó, cần phải phân tích từ góc độ tư duy của môn học này. Hệ thống tư duy lý thuyết của phong thủy, tức là cách giải thích và phát triển phong thủy, có mối liên hệ trực tiếp với triết học truyền thống Trung Quốc. Bất kỳ cuốn sách phong thủy nào cũng chứa đựng đầy rẫy các thuật ngữ triết học truyền thống như khí, âm dương, ngũ hành, bát quái, Hà Đồ, Lạc Thư. Vì vậy, thường có người nói: “Phong thủy bắt nguồn từ Kinh Dịch”, “Phong thủy chính là Dịch”, hoặc “Phong thủy tức là âm dương ngũ hành”. Tuy những cách nói này có phần phiến diện, nhưng chúng phản ánh một sự thật: các khái niệm và phạm trù triết học truyền thống được áp dụng rõ ràng trong các tác phẩm phong thủy. Để mở lối vào mê cung của phong thủy truyền thống, việc hiểu biết các lý thuyết triết học Trung Quốc liên quan là vô cùng cần thiết.
“Khí” là một trong những phạm trù quan trọng nhất trong triết học truyền thống Trung Quốc. Qua các thế hệ triết gia, nội hàm và ngoại diên của “khí” không ngừng được phát triển, trở nên vô cùng rộng lớn, và ảnh hưởng sâu sắc đến phong thủy kiến trúc truyền thống Trung Quốc. Phong thủy đã tiếp thu học thuyết “khí luận” của triết học cổ điển, áp dụng và phát triển nó từ nhiều khía cạnh, biến “khí” trở thành một trong những lý thuyết nền tảng của mình.
“Khí” là cốt lõi của phong thủy. Dù là “hình thế pháp” hay “lý khí pháp”, cả hai đều xoay quanh việc tìm kiếm vùng đất “tụ khí” để chọn địa điểm. Trong các luận thuyết phong thủy, các khái niệm như “sinh khí”, “nghênh khí”, “tàng khí”, “nạp khí”, “tụ khí” được nhắc đến liên tục, luôn xoay quanh trung tâm là “khí”. Nhiều học giả nước ngoài có tâm huyết cũng nhận ra “khí” là “yếu huyệt” của phong thủy. Ví dụ, cô Barbara Loh của Mỹ, trong cuốn sách bán chạy toàn cầu năm 1987 Phong Thủy - Nghệ thuật định vị của Trung Quốc, đã viết: “Khí là yếu tố quan trọng nhất trong phong thủy.” Cô khẳng định: “Hiểu được khí là hiểu toàn bộ phong thủy.”
Trong hàng ngàn năm thực hành kham dư phong thủy, phong thủy Trung Quốc dựa trên hiện tượng và bản chất tồn tại của “khí” để tổng kết một bộ lý thuyết khảo sát thực tiễn. Bộ lý thuyết này bao hàm cả nhận thức duy vật mộc mạc lẫn những khía cạnh tinh thần thực dụng và hữu ích. Nhận thức về “khí” trong phong thủy lấp lánh giá trị khoa học nghiêm túc, có ý nghĩa chỉ đạo đối với việc chọn địa điểm xây dựng nhà ở, tối ưu hóa môi trường, và định hình cảnh quan sinh thái trong thời cổ đại Trung Quốc. Nếu hiểu biết về “khí” mơ hồ, phong thủy - với lý thuyết cơ bản là “khí” - chỉ có thể bị giới học thuật xem là “chuẩn khoa học”, thậm chí bị coi là “giả khoa học” hay “mê tín phong kiến”. Do đó, việc khám phá sâu sắc bản chất của “khí” đã trở thành chìa khóa để phong thủy, một môn học truyền thống, bước vào cung điện khoa học.
(1) Ý nghĩa cơ bản của “Khí”
“Khí” trong phong thủy Trung Quốc được hấp thu từ học thuyết “khí luận” trong triết học cổ đại Trung Quốc, là sự ứng dụng và phát triển của “khí luận”. Vì vậy, để hiểu khái niệm “khí”, cần đặt nó trong hệ thống triết học cổ đại Trung Quốc.
“Khí” là một phạm trù quan trọng trong triết học Trung Quốc, với nội hàm và ngoại diên rất rộng, được các ngành học khác nhau dẫn dụng và diễn giải theo những cách khác nhau. Nói một cách khái quát, “khí” có một số ý nghĩa cơ bản sau:

Chỉ sự tồn tại của vật chất vô định hình, lưu động, như hơi nước, mây, mùi hương, v.v. Đây là ý nghĩa nguyên thủy của “khí”. Ví dụ, Hứa Thận thời Đông Hán trong Thuyết văn giải tự viết: “Khí, là mây khí”; hoặc “Mây, là khí của núi sông.” Trịnh Huyền trong chú giải Lễ ký - Tế nghĩa nói: “Khí, là thứ hít vào thở ra.” Trong Đại Đái Lễ - Tứ đại: “Thức ăn tạo thành mùi vị, mùi vị tạo thành khí”, v.v.
Khí được xem là đơn vị cấu thành cơ bản nhất của vạn vật trong trời đất, “tinh vi không có giới hạn bên trong, rộng lớn không có giới hạn bên ngoài” (Quản Tử - Tâm thuật), tràn đầy khắp trời đất. Sự tồn tại vô hình là khí, khí ngưng tụ thì trở thành vật chất hữu hình, xuyên suốt trong và ngoài. Như trong Trang Tử - Ngoại thiên: “Khí biến thành hình, hình biến thành sinh”; Mạnh Tử - Công Tôn Sửu: “Khí, lớn lao và cương trực, nuôi dưỡng ngay thẳng mà không bị tổn hại, thì tràn đầy giữa trời đất”; Trương Tái trong Chính Mông - Thái hòa: “Thái hư vô hình, là bản thể của khí, sự tụ tán của nó chỉ là hình thái biến hóa tạm thời.” Khí duy trì sự sống và quyết định sự biến đổi được gọi là “sinh khí”, “tinh khí”, v.v.
Trong tư duy triết lý, khí được xem là nguồn gốc của vạn vật, tức là “nguyên khí”. Trong Lão Tử: “Vạn vật cõng âm ôm dương, hòa khí để tạo thành hòa hợp”, ý nói hai khí âm dương giao thoa tạo thành vạn vật. Vương Sung trong Luận Hành - Tự nhiên: “Trời đất hợp khí, vạn vật tự sinh.” Trong Tần lục: “Trời đất thành từ nguyên khí, vạn vật dựa vào trời đất.” Hà Hưu trong Công Dương truyện giải cổ nói: “Nguyên, tức là khí. Vô hình mà khởi, hữu hình mà phân, tạo dựng trời đất, là khởi đầu của trời đất.” Nguyên khí có thể được xem là trạng thái hỗn độn thống nhất trước khi trời đất phân chia.
Trong triết học Tống Minh, khí thường được đặt ngang hàng với “lý”, gọi là “lý khí”. Chu Hy trong Văn tập - Đáp Hoàng Đạo Phu: “Giữa trời đất có lý và khí. Lý là đạo siêu hình.” Lý tồn tại trước trời đất. Trong khi đó, Vương Đình Tương cho rằng lý là thuộc tính vốn có của khí, “lý được tải trong khí”, và nói: “Khí là nguồn của vật, lý là công cụ của khí, khí là thành tựu của vật” (Thận manh - Ngũ hành). Lý chỉ là biểu hiện quy luật của khí, thực thể duy nhất trong vũ trụ.
Ngoài ra, từ tư tưởng của Doãn Văn trong Quản Tử - Nội nghiệp: “Khí đạo thông thì sinh, sinh thì tư, tư thì tri, tri thì dừng”, đến luận thuyết của Mạnh Tử trong Công Tôn Sửu: “Ta giỏi nuôi dưỡng khí hạo nhiên của mình”, “khí” được đưa vào các lĩnh vực đạo đức học, mỹ học, mang ý nghĩa về tu dưỡng đạo đức, tố chất tâm lý và cảm thụ thẩm mỹ. Trong sự phát triển của mỹ học núi sông thời Ngụy Tấn, “khí” trở thành một trong những phạm trù mỹ học quan trọng nhất. Ví dụ, các khái niệm như “khí vận”, “khí tượng”, “khí cách” trong văn luận và họa luận đều mang ý nghĩa tương đồng với các khái niệm hiện đại như “không gian”, “môi trường”, “bầu không khí”, “trường tâm lý”.

(2) Các loại nội hàm của “Khí” trong lý thuyết phong thủy
“Khí” trong phong thủy có nội dung cực kỳ phong phú, với nhiều cách diễn giải khác nhau, nhưng cơ bản được phát triển dựa trên khung khái niệm của triết học và mỹ học truyền thống về “khí”. Hầu hết các tác phẩm phong thủy còn lưu truyền đến nay đều là sản phẩm của khí luận.
Trong phong thủy hình thế thời kỳ đầu, “khí” chủ yếu là khí của núi sông. Như trong Thanh Nang Hải Giác Kinh có viết: “Núi sông là khí âm dương.” Và cho rằng: “Khí là sự tinh vi của hình, hình là sự rõ ràng của khí; khí ẩn khó biết, hình hiện dễ thấy.” Táng Kinh Dực nói: “Khí tốt thì hình tất tú nhuận, đặc biệt và trang nghiêm; khí xấu thì hình tất thô bì, nghiêng lệch và vỡ vụn.” “Đất có khí tốt, tùy theo đất mà sinh; núi có khí tốt, tùy theo phương mà dừng. Khí tụ thì đất tốt và màu mỡ; núi đẹp thì khí dừng và tốt lành.” (Thanh Ô Tiên Sinh Táng Kinh) “Nước theo núi mà chảy, núi ngăn nước mà dừng... Nước không có núi thì khí tán loạn không gắn kết, núi không có nước thì khí tắc không thông... Núi là khí thực, nước là khí hư. Đất càng cao thì khí càng dày, nước càng sâu thì khí càng lớn; đất mỏng thì khí yếu, nước cạn thì khí mỏng.” (Quản Thị Địa Lý Chỉ Mông) Trong các tác phẩm của phái hình pháp sau này, luận thuyết về “khí” được chi tiết hóa hơn.
Ví dụ, trong Kim Thị Địa Học Thúy Biên - Quy Hậu Lục Dương Cơ Chương có viết: “Âm trạch ở trong đất, chỉ dùng khí trong huyệt. Dương trạch ở trên mặt đất, không chỉ dùng địa khí, mà còn lấy môn khí. Trên khoảng không trong lành, khí vốn lưu chuyển ngang, cửa vừa mở, khí liền từ cửa mà vào, lực của nó ngang ngửa với địa khí... Cần có cửa và đất đều vượng, mới có thể chiêu mời các phúc. Ngoài cửa và đất, còn phải xem đường sá. Đường sá có thế hướng về thì được xem là khí đến; đường ngang cắt qua thì xem là khí dừng. Đường hướng đến so với long mạch, đường ngang so với giới thủy, như tam thoa, cầu cống cũng đều bị cắt đứt. Kiều là nơi cao của hàng xóm, như ở phương Cấn có nhà cao, thì khí bị chặn, ngược lại từ phương Cấn quay khí trở lại, hướng về nhà mình. Cái gọi là hồi phong phản khí, từ cao đến thấp, nhà cao nhiều thì khí dày, nhà cao ít thì khí mỏng. Nơi khuyết thiếu, như lỗ hổng ở góc nhà, có thể ở ngoài hoặc trong nhà, dẫn tám hướng gió vào; liên quan đến họa phúc, không thể không biết.” Ở đây, cái gọi là “nhất địa, nhị môn, tam thoa, tứ kiều, ngũ khuyết” được gọi chung là “ngũ cơ”, tức là năm loại khí được xem xét trong phương pháp xem dương trạch, với các đặc tính và tác dụng khác nhau, có thể hiểu như sau:

Địa khí: Chỉ các yếu tố như kích thước, độ cao thấp, chất đất, nhiệt độ và độ ẩm của nền đất, cùng với ảnh hưởng về sinh lý và tâm lý lên con người, bao gồm cả sự gắn kết hoặc thân thiện trong môi trường gia đình. Địa khí quá mạnh hoặc quá yếu đều khiến con người cảm thấy không thoải mái về sinh lý và tâm lý, cần điều chỉnh bằng môn khí hoặc các loại khí khác.
Môn khí: Cửa là yết hầu của ngôi nhà, trong phương pháp xem dương trạch thường được ví như “khí khẩu”. Thực tế, cửa không chỉ là lối giao thông trong ngoài, mà còn liên quan đến sự an toàn khi ra vào, quan hệ láng giềng, trật tự tôn ti của gia đình, và điều tiết cảnh quan, vi khí hậu trong ngoài nhà. Môn khí không nên quá mạnh hoặc quá yếu, ví dụ môn khí quá mạnh sẽ làm nhạt địa khí, bao gồm cả việc phá vỡ tính riêng tư trong nhà.
Thoa khí: Chỉ hướng đi của giao thông bên ngoài và các yếu tố ảnh hưởng từ đường sá đến ngôi nhà. Việc xem xét và điều chỉnh thoa khí cần cân nhắc đến sự tiện lợi giao thông, khả năng nhận diện, và tránh các tác động xấu từ bên ngoài.
Kiều khí: Nhà cao làm bình phong, bao bọc vừa phải sẽ tạo cảm giác an định cho không gian, nhưng bao bọc quá kín sẽ gây cảm giác áp bức. Đây là cái gọi là kiều khí, bao gồm cả việc nhà cao che chắn ảnh hưởng đến thông gió, thoát ẩm, giảm nhiệt hoặc chống gió lạnh.
Khuyết khí: Chỉ ảnh hưởng do sự lưu thông không gian trong ngoài nhà. Ngoài nhu cầu sinh lý, về mặt tâm lý, khuyết khí còn chỉ cảm giác rộng rãi, thoáng đãng hoặc thông thoáng trong mối liên kết không gian, cũng như các yếu tố bất ổn trong không gian công cộng hoặc bán công cộng.

Phong thủy lý khí phụ thuộc nhiều hơn vào tư tưởng khí luận trong triết học cổ đại Trung Quốc so với phong thủy hình pháp. Lý khí tập trung vào phương vị, kết hợp các nguyên lý ngũ hành sinh khắc, âm dương bát quái, cửu tinh cát hung, nhị thập tứ sơn hướng, cho rằng một số khu vực trong nhà là cát, một số là hung, mục đích của lý khí vẫn là xu cát tị hung, thậm chí hóa hung thành cát.
(3) Sinh khí và sát khí trong phong thủy
Theo tác dụng khác nhau của “khí” đối với người cư ngụ, phong thủy cổ đại chia “khí” thành “sinh khí” và “sát khí”. Những khí có lợi cho thân tâm người cư ngụ được gọi chung là “sinh khí”; ngược lại, các yếu tố trong môi trường trong và ngoài nhà có ảnh hưởng bất lợi được gọi là “sát khí”. Các loại sinh khí có chức năng khác nhau, như trong Tương Trạch Kinh Toản viết: “Địa khí từ dưới che chở con người, lực chậm mà bền; thiên khí nuôi dưỡng con người, lực nổi mà nhanh. Vì vậy, dương trạch thừa hưởng địa khí tốt, nhưng đặc biệt mong muốn thừa hưởng thiên khí vượng.”
Sát khí được chia thành bảy loại chính:

Hình sát: Sát có hình dạng rõ ràng, như gà mỏ sát, phản cung sát, xuyên tâm sát. Góc đường chữ thập, cầu vượt, núi đá, cây cối, đường sá kỳ dị ngoài nhà đều thuộc loại này.
Vị sát: Mùi mốc hoặc các mùi khó chịu đều thuộc vị sát.
Quang sát: Ánh sáng trong nhà thiếu hoặc quá mạnh đều gây ảnh hưởng xấu. Đèn neon ngoài nhà cũng là một loại quang sát.
Thanh sát: Tiếng ồn, tiếng đóng cọc, tiếng nước chảy khó nghe.
Lý sát: Sát của lý khí, như nhị ngũ trùng lâm, tam tuyến đồng kiến trong phi tinh. Hoặc số lượng bóng đèn chẵn lẻ, số lượng cá, v.v.
Sắc sát: Màu đen trong nhà quá nhiều thì âm khí quá thịnh, màu đỏ quá nhiều thì tinh thần căng thẳng. Màu sắc cửa đối cửa cũng có quan hệ sinh khắc. Quan trọng hơn, cần phối màu theo nhu cầu của gia chủ.
Từ sát: Từ trường ảnh hưởng lớn đến não bộ con người, phong thủy tính toán cát hung dựa trên sự thay đổi của từ trường.

Khi gặp các loại sát khí trên, phong thủy đề xuất năm phương pháp xử lý: che, chắn, hóa, đấu, tránh:

Che: Che khuất vật mang sát khí, mắt không thấy thì sạch.
Chắn: Dùng cây cối, bình phong để chắn.
Hóa: Dùng ngũ hành hóa khí, màu sắc hóa sát, v.v.
Đấu: Dùng bát quái, hình tượng kỳ lân hoặc thú dữ để đối phó.
Tránh: Ba mươi sáu kế, chạy là thượng sách.

Bài nghiên cứu về khí, tuy nhiên mỗi phái khác nhau sẽ có định nghĩa khác nhau về khí.

-------------------------------------------------
Một góc nhìn khác dễ hình dung hơn cho các bạn chịu khó đọc:

SƠ LƯỢC: “KHÍ” TRONG PHONG THỦY LÀ GÌ?

“Khí thừa phong tắc tán, giới thủy tắc chỉ, cổ nhân tụ chi sử bất tán, hành chi tiện hữu chỉ.”
(Khí theo gió thì tan, gặp nước thì dừng, người xưa tụ khí để không tan, khiến khí vận hành thì có chỗ dừng.)
Về nguyên lý phong thủy, câu nói sớm nhất chính là câu này, xuất phát từ Táng Kinh của Quách Phác thời nhà Tấn.
Câu này nói rằng, chúng ta cần tụ hợp “sinh khí” tại nơi sinh sống.
Người xưa viết sách thường không giải thích nguyên lý, chỉ nói thẳng: “Cứ làm thế này, thế kia là được”, còn tại sao lại như vậy thì tự nghiên cứu.
Điều này dẫn đến sự xuất hiện của nhiều trường phái, gây không ít khó khăn cho người mới học.
Ở đây, tôi chủ yếu nói về cách sử dụng “khí” trong phong thủy.

“Khí” là gì?
Hãy tưởng tượng chúng ta là một con cá, còn “khí” chính là nước.
Nước như thế nào thì phù hợp cho cá sống?
Trước tiên, nước phải sạch.
Tiếp theo, nước chảy động tốt hơn nhiều so với nước đọng trong ao tù.
Những người thích câu cá đều biết, trong sông lớn, nơi nào thích hợp để câu, nơi nào dễ câu được cá to?
Đó chính là những vùng nước sâu hoặc khúc sông uốn lượn, nơi nước chảy chậm lại, ổn định hơn. Cá thường tụ tập ở những nơi này.

Khi ta chuyển từ nước sang “khí”, ta sẽ hiểu rõ hơn.

Trong môi trường sống, muốn không khí tốt, nếu xung quanh có bãi rác, ao nước đọng bốc mùi, hay cống rãnh hôi hám, thì đương nhiên là không được.

Khi nào dễ xảy ra vấn đề?
Khi các hành tinh vận hành, nếu hướng của bãi rác hay ao nước hôi thối được tăng cường năng lượng, tác động tiêu cực sẽ mạnh hơn bình thường, dễ gây ra điều bất lợi. Trong thành phố, tình trạng này ít gặp vì kiến trúc được quy hoạch thống nhất và điều kiện y tế tốt, các vấn đề nhỏ về sức khỏe thường được xử lý kịp thời.
Nhưng ở nông thôn thì nhiều hơn. Nhà cửa xây dựng lộn xộn, chỉ cần đi qua vài ngôi làng là đã có thể thu thập đủ “tài liệu phong thủy”.
Trên phim ảnh, ta thấy các bậc thầy cưỡi lừa, học trò dắt dây. Khi đến trước cửa nhà nào, thầy hét lên: “Không ổn!” thì gia chủ sẽ chạy ra mời thầy vào.
Đây cũng là cách dạy học trò rất hiệu quả...
Nước đọng trong phong thủy chính là nhà không thông thoáng. Các loại khí trong phong thủy được gọi là tử khí (khí chết), oa khí (khí ứ), bò khí (khí bám). Ta thường nói: “Nhà lâu không thông gió, chết chóc u ám”.

Nhưng thông gió như thế nào mới đúng?
Đây là vấn đề liên quan đến dòng chảy của nước có gấp gáp hay không. Ở nơi nước chảy xiết, dù có cá, nhưng không phải là chỗ để cá nghỉ ngơi.
Con người cũng vậy, gió mang đến sự lưu thông của “khí”, nhưng cũng có thể thổi tan “sinh khí” đã tích tụ.
Hồi nhỏ, vào những ngày nóng bức, chúng ta thường ngủ trên sân thượng hoặc nơi lộ thiên. Khi chọn chỗ ngủ, người lớn thường dặn: “Đừng ngủ ở chỗ gió lùa, tìm nơi chắn gió mà ngủ, nếu không sáng mai dễ bị khó chịu, đau đầu.”
Vì thế, ta thường nói cửa chính và cửa sổ phía sau không nên thông thẳng, nếu không sẽ tạo thành xuyên đường phong (gió lùa qua nhà), tức là xuyên đường sát trong phong thủy.
Cách xử lý rất đơn giản: đặt một vật ở giữa để làm chậm dòng khí, giảm sức gió.

Sát khí bên ngoài trong phong thủy, nếu liệt kê sơ qua cũng có đến năm sáu chục loại. Không dễ nhớ hết, nhưng khi hiểu được dòng chảy của “khí”, việc ghi nhớ sẽ dễ hơn nhiều.
Ví dụ: lộ xung (đường đâm), liêm đao sát (sát hình lưỡi liềm), kiềm đao sát (sát hình lưỡi kéo).
Dù tên gọi khác nhau, bản chất của các loại sát này đều là do xe cộ di chuyển tạo ra dòng khí, đâm thẳng vào nhà. Xe có thể đã rẽ hướng, nhưng khí vẫn lao thẳng tới.
Luồng gió mạnh này không chỉ làm tan “sinh khí” mà còn mang theo bụi bẩn, vi khuẩn vào nhà.
Vậy nó sẽ gây ra bệnh gì? Tùy thuộc vào hướng, kết quả sẽ khác nhau, có thể dựa vào nhị thập tứ sơn (24 hướng) để phán đoán.
Nhị thập tứ sơn giống như cách ta nói về hướng 12 giờ, 1 giờ, v.v.
Kiếm đao sát cũng tương tự. Hai con đường đều có xe chạy tốc độ cao, khí từ hai đường hợp lại thành một luồng mạnh hơn, dữ dội hơn.

Cách giải quyết?
Ví dụ sát khí ngã ba
Để hóa giải ảnh hưởng từ dòng khí này, cách tốt nhất là dùng cây xanh. Cây cối giúp chắn gió, cố định đất cát, và rất hiệu quả trong việc hóa giải dòng khí đâm thẳng.
Chiều cao bao nhiêu là phù hợp?
Thông thường, ở khu vực gần đường có xe qua lại với tốc độ không quá nhanh, nếu có lộ xung, làm bồn hoa cao dưới 1 mét là đủ (nhưng thường chính quyền không cho phép). Ở một số nơi công cộng, người ta thường làm bồn hoa lớn, hình tròn là phổ biến, để phân tán dòng khí.
Với dòng chảy chậm, chỉ cần làm một ngưỡng cửa là đủ.
Như vậy, khí mang theo các hạt nhỏ sẽ khó vào nhà hơn.
Về chiều cao ngưỡng cửa? Hãy thử rắc một ít giấy vụn và xem gió thổi cao đến đâu.
Tuy nhiên, không phải cứ có đường trước nhà là gọi là lộ xung. Tôi từng thấy trong một khu chung cư, trước cửa nhà có con đường nhỏ, hầu như không ai qua lại, ngắn ngủn, làm sao có dòng khí đâm vào nhà được? Nhưng ngẩng đầu lên, nhà đó lại treo một tấm bát quái kính…
Tương đối mà nói, dòng khí do nước chảy mang lại sẽ tốt hơn nhiều. Khí không gấp gáp, nước còn có thể hút đi nhiều tạp chất. Ta thường nói “nước là tài”, nước chảy qua trước nhà là tốt.
Nhưng cần lưu ý, cái ta muốn là khí do dòng nước mang lại, chứ không phải chính nước đó.

Nếu nước đọng trước nhà thành ao tù hôi thối, thì không tốt.
Trong phong thủy có câu: “Lai thủy yếu minh, khứ thủy yếu ám” (Nước đến phải sáng, nước đi phải tối). Ý là nguồn nước đến phải lộ thiên, mang theo khí. Nước đi thì chảy vào cống ngầm, nước đi nhưng khí ở lại.
Điều quan trọng vẫn là khí.
Đây chỉ là một phần nhỏ của phong thủy, nhưng cũng là phần rất quan trọng.
Trong hình loan (phong thủy hình thế), cách dùng tứ tượng cũng khá phổ biến, nhưng bản chất của nó tôi vẫn chưa hiểu rõ, chỉ biết cách dùng nên tạm không nói đến.
Khi xét đến việc đánh giá bên trong ngôi nhà, các trường phái bắt đầu đa dạng hơn.
Kiến trúc hiện đại và cổ đại khác nhau quá lớn về quy mô và cấu trúc, nên hiện nay chưa có trường phái nào hoàn toàn phù hợp với kiến trúc hiện đại. Phổ biến nhất là Bát trạch và Huyền không, thường được dùng kết hợp.
Việc điều chỉnh phong thủy cơ bản cũng đơn giản: đầu tiên xác định chỗ nào trong nhà tốt, chỗ nào xấu. Chỗ tốt thì kích hoạt để khí lưu động, chỗ xấu thì làm cho khí yên tĩnh. Mỗi năm thay đổi một lần.
Học phong thủy không khó, so với bói toán thì đơn giản hơn nhiều. Nhưng khó ở chỗ tìm được một người thầy sẵn lòng dạy tử tế.

TOÀN DIỆN VỀ CỬU TINH (st)CỬU TINHNgười mới học Phong Thủy thường có nhận thức chưa đầy đủ về Cửu Tinh, không biết rằng ...
21/10/2025

TOÀN DIỆN VỀ CỬU TINH (st)

CỬU TINH
Người mới học Phong Thủy thường có nhận thức chưa đầy đủ về Cửu Tinh, không biết rằng Cửu Tinh được phân thành nhiều loại như: Hình Trạng Cửu Tinh, Phương Vị Cửu Tinh, Thủy Pháp Cửu Tinh, Nguyên Vận Cửu Tinh, Sơn Pháp Cửu Tinh. Vì có nhiều điều chưa hiểu rõ, bài viết này đã tổng hợp kiến thức về Cửu Tinh từ nhiều phương diện, hy vọng sẽ giúp ích cho người mới bắt đầu.

Cái gọi là "Cửu Tinh" bao gồm: Nhất Tham Lang, Nhị Cự Môn, Tam Lộc Tồn, Tứ Văn Khúc, Ngũ Liêm Trinh, Lục Vũ Khúc, Thất Phá Quân, Bát Tả Phụ, Cửu Hữu Bật. Do công năng khác nhau, nên có các loại như Hình Trạng Cửu Tinh, Phương Vị Cửu Tinh, Loan Đầu Cửu Tinh, Nguyên Vận Cửu Tinh, Du Niên Cửu Tinh, Thời Khí Cửu Tinh. Cửu Tinh bắt nguồn từ bảy ngôi sao của chòm Bắc Đẩu, cộng thêm hai sao Tả Phụ và Hữu Bật ở hai bên của "đẩu bính" (cán gáo). Ngoài ra, mỗi sao trong Cửu Tinh đều có ý nghĩa vật tượng riêng.

PHẦN 01: HÌNH TRẠNG CỬU TINH
Tham Lang thuộc Mộc. Cự Môn, Lộc Tồn thuộc Thổ. Văn Khúc thuộc Thủy. Liêm Trinh thuộc Hỏa. Vũ Khúc, Phá Quân thuộc Kim. Cửu Tinh còn được phối với Bát Quái, theo thứ tự biến hào là Thượng, Trung, Hạ, Trung, Thượng, Trung, Hạ, Trung. Vì vậy, quẻ Càn lấy quẻ Đoài làm Tham Lang, quẻ Khôn lấy quẻ Cấn làm Tham Lang. Trong Cửu Tinh, Tham Lang, Cự Môn, Vũ Khúc là ba sao tốt (Tam Kiết). Nạp giáp của ba sao tốt này được gọi là Lục Tú.

PHẦN 02: PHƯƠNG VỊ CỬU TINH
Phương Vị Cửu Tinh chính là các sao Tử Bạch trong Lạc Thư, phối hợp Cửu Cung của Lạc Thư với phương vị của Hậu Thiên Bát Quái.

Nhất Bạch Khảm Thủy ở phương Bắc gồm Nhâm, Tý, Quý.

Cửu Tử Ly Hỏa ở phương Nam gồm Bính, Ngọ, Đinh.

Tam Bích Chấn Mộc ở phương Đông gồm Giáp, Mão, Ất.

Thất Xích Đoài Kim ở phương Tây gồm Canh, Dậu, Tân. Đây là bốn phương chính Tý, Ngọ, Mão, Dậu.

Nhị Hắc Khôn Thổ ở phương Tây Nam gồm Mùi, Khôn, Thân.

Bát Bạch Cấn Thổ ở phương Đông Bắc gồm Sửu, Cấn, Dần.

Tứ Lục Tốn Mộc ở phương Đông Nam gồm Thìn, Tốn, Tỵ.

Lục Bạch Càn Kim ở phương Tây Bắc gồm Tuất, Càn, Hợi. Đây là bốn phương góc (tứ隅) Càn, Khôn, Cấn, Tốn.

Ngũ Hoàng ở Trung Cung, hợp thành Cửu Trù. Ngũ hành thì quẻ Khảm là Thủy, quẻ Ly là Hỏa, quẻ Chấn và Tốn là Mộc, quẻ Khôn và Cấn là Thổ, quẻ Càn và Đoài là Kim. Dựa vào Lạc Thư và Tam Nguyên Cửu Vận để suy luận thời vận.

PHẦN 03: DU NIÊN CỬU TINH
Bốn phương vị tốt (Tứ Cát) bao gồm:

Sinh Khí Tham Lang thuộc Dương Mộc.

Diên Niên Vũ Khúc thuộc Dương Kim.

Thiên Y Cự Môn thuộc Dương Thổ.

Phục Vị Phụ Bật (Tả Phụ, Hữu Bật) thuộc Âm Mộc.

Bốn phương vị xấu (Tứ Hung) bao gồm:

Tuyệt Mệnh Phá Quân thuộc Âm Kim.

Ngũ Quỷ Liêm Trinh thuộc Âm Hỏa.

Họa Hại Lộc Tồn thuộc Âm Thổ.

Lục Sát Văn Khúc thuộc Dương Thủy.

Đây là Cửu Tinh Đại Du Niên. Lý thuyết về sự sinh khắc giữa cung và sao có thể dùng để nghiên cứu cách bố trí các phòng. Ví dụ, sao Phá Quân (Kim) bay đến cung Chấn (Mộc), có thể dùng vật phẩm phong thủy thuộc hành Thủy để bố trí, giúp hóa giải hung thành cát.

Du Niên Cửu Tinh phổ biến được khởi từ cung của Tọa sơn, theo thứ tự biến hào Thượng, Trung, Hạ, Trung, Thượng, Trung, Hạ, Trung, sau tám lần biến đổi sẽ quay về cung Tọa sơn. Ngoài ra, tùy theo các trường phái lý khí khác nhau, có thể khởi Du Niên từ hướng cửa hoặc từ Mệnh cung của gia chủ khi bước vào cửa.

PHẦN 04: LOAN ĐẦU CỬU TINH
Phân loại các hình dạng và thế núi khác nhau, dùng địa bàn chính châm của la bàn để xác định phương hướng, dùng Ngũ hành để phân biệt các loại hình tinh thể, xem loan đầu là tinh thể nào khởi thế, từ đó chia thành chín loại lớn. Tiền nhân có câu: "Tại trời thành tượng, tại đất thành hình, lấy thiên tượng để quan sát, lấy hình thể để phân biệt." Phương Vị Cửu Tinh cũng được gán cho những ý nghĩa tượng trưng về cát hung.

Tham Lang Tinh (Mộc): Đỉnh núi như măng xuân nhú khỏi mặt đất, thân thẳng mà dài. Đỉnh núi nhọn, tròn, bằng phẳng là thượng cách. Nếu nghiêng lệch, đỉnh lệch là hạ cách. Chủ về nhân đinh, tài lộc, quý hiển, trường thọ.

Cự Môn Tinh (Thổ): Đỉnh núi không nhọn không tròn, đỉnh bằng, thân vuông vức như cái tủ, hơi dài và nghiêng, phía trước có nhiều tiểu tinh phong đến hộ vệ là thượng cách. Chủ về phát tài làm giàu.

Lộc Tồn Tinh (Thổ): Đỉnh núi như cái trống, đỉnh tròn bằng, thân vuông, có nhiều chân tỏa ra như quả bầu, tương tự Cự Môn Tinh. Nếu phía trước có đỉnh nhỏ, là cách "Lộc Tồn đới Lộc", chủ thượng cách. Nếu như răng bừa, nghiêng lệch thì là hung. Chủ về tai họa lớn.

Văn Khúc Tinh (Thủy): Không có chủ phong nổi bật, đỉnh núi không cao, uốn lượn liên tiếp như sóng nước, hình dạng như con lươn sống là chính cách. Nếu mặt bên thành đỉnh, thân thẳng như sợi chỉ là thiên cách. Chủ về thị phi, kiện tụng.

Liêm Trinh Tinh (Hỏa): Thường là Thái Tổ Sơn, đỉnh núi cao vút, nhọn, không có vai. Đỉnh núi kết đá như hình cái ô, lưỡi cày, cờ đỏ rực rỡ, trên đỉnh có đất. Núi cao thì lực mạnh, là thượng cách; núi thấp thì lực yếu, là hạ cách. Chủ về mệt mỏi, bệnh tật.

Vũ Khúc Tinh (Kim): Đỉnh núi tròn và cao耸, hình dạng như chuông úp, nồi úp, và thường có các đỉnh tròn khác đi kèm, là thượng cách. Nhưng nếu thấp thì trở thành Phụ tinh. Chủ về quan vận hanh thông.

Phá Quân Tinh (Kim): Đỉnh núi cũng tròn, hình núi hùng vĩ, bên cạnh thường có ba sao tốt là Tham Lang, Cự Môn, Vũ Khúc đi kèm. Đầu cao đuôi thấp, nứt vỡ nghiêng lệch, chân núi tán loạn, hình như ô rách là chính cách. Chủ về phá tài, tổn hại nhân đinh.

Tả Phụ Tinh (Kim): Tương tự Vũ Khúc Tinh, nhưng không có các đỉnh tròn khác đi kèm. Đỉnh núi như đầu mũ, trước cao sau thấp, thân dài như trống cơm, như bướu lạc đà là chính cách. Chủ về vượng nhân đinh, trường thọ.

Hữu Bật Tinh (Thủy): Tương tự Văn Khúc Tinh, nhưng có một chủ phong. Hình núi ẩn tàng không rõ rệt, như nhện qua sông, như cá lên bãi, như rắn trườn, nơi đứt đoạn thì ẩn mình, mạch đứt không thấy dấu vết, là chính cách. Chủ về nửa tốt nửa xấu.

PHẦN 05: THỦY PHÁP CỬU TINH
Đối với âm trạch và dương trạch, dùng loan đầu để phân biệt thủy pháp, luận cát hung của nước đến (lai thủy) và nước đi (khứ thủy). Ví dụ: Tam Hợp Thủy Pháp, Long Môn Bát Cục, Phụ Tinh Thủy Pháp... Trong đó, Cửu Tinh Thủy Pháp là khởi sao Phụ Bật từ Hướng, sau đó dùng Phiên Quái Chưởng, theo thứ tự Phụ Bật, Vũ Khúc, Phá Quân, Liêm Trinh, Tham Lang, Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc để xác định lai thủy và khứ thủy là loại nước gì. Nếu nước đến và đi là Tham Lang Thủy, Cự Môn Thủy, Vũ Khúc Thủy, Phụ Bật Thủy thì luận là nước tốt (kiết thủy). Nếu là Phá Quân Thủy, Liêm Trinh Thủy, Lộc Tồn Thủy, Văn Khúc Thủy thì luận là nước xấu (hung thủy).

PHẦN 06: SƠN PHÁP CỬU TINH
Sơn Pháp Cửu Tinh lấy loan đầu làm chủ, để phân biệt cát hung của việc lập hướng theo long, tiêu sa, nạp thủy, cũng không thoát ly việc vận dụng Cửu Tinh. Phương pháp sử dụng Sơn Pháp Cửu Tinh tương tự như Thủy Pháp Cửu Tinh. Nhưng điểm khác biệt là, Sơn Pháp Cửu Tinh khởi Tham Lang từ cung đối diện của long nhập thủ hoặc của tọa sơn, dùng Phiên Quái Chưởng, rồi theo thứ tự Tham Lang, Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, Phụ Bật để phán đoán long. Dương long lập dương hướng, âm long lập âm hướng.

PHẦN 07: NGUYÊN VẬN CỬU TINH
Phương Vị Cửu Tinh luân chuyển qua tám phương chín cung theo năm, tháng, ngày, giờ, tạo ra các quang sắc khác nhau. Khi con người tiếp xúc, do sự sinh khắc ngũ hành của các cung mà sinh ra những cảm ứng khác nhau, ảnh hưởng đến sự cát hung của dương trạch. Đây là một khía cạnh của nó. Dùng nó để xem xét khí số của sông núi, quan sát sự thịnh suy của năm tháng cũng có lý lẽ sâu sắc.

Chín cung vị của Lạc Thư phối với Cửu Tinh: Nhất là Tham Lang, Nhị là Cự Môn, Tam là Lộc Tồn, Tứ là Văn Khúc, Ngũ là Liêm Trinh, Lục là Vũ Khúc, Thất là Phá Quân, Bát là Tả Phụ, Cửu là Hữu Bật. Lấy một chu kỳ Lục Thập Hoa Giáp làm một Nguyên, chia thành Thượng, Trung, Hạ Tam Nguyên. Mỗi Nguyên quản ba số, tức là mỗi Nguyên quản ba sao. Từ một đến chín là một chu thiên của Tam Nguyên, tổng cộng 180 năm, sau đó lại bắt đầu từ Thượng Nguyên.

Thượng Nguyên quản ba sao: Nhất Tham Lang, Nhị Cự Môn, Tam Lộc Tồn.

Trung Nguyên quản ba sao: Tứ Văn Khúc, Ngũ Liêm Trinh, Lục Vũ Khúc.

Hạ Nguyên quản ba sao: Thất Phá Quân, Bát Tả Phụ, Cửu Hữu Bật.

Phối số của Lạc Thư với Bát Quái:

Nhất Bạch Khảm là Tham Lang.

Nhị Hắc Khôn là Cự Môn.

Tam Bích Chấn là Lộc Tồn.

Tứ Lục Tốn là Văn Khúc.

Ngũ Hoàng Trung là Liêm Trinh.

Lục Bạch Càn là Vũ Khúc.

Thất Xích Đoài là Phá Quân.

Bát Bạch Cấn là Tả Phụ.

Cửu Tử Ly là Hữu Bật.

Vì Liêm Trinh ở trung cung (Ngũ Hoàng) không có quẻ, nên 20 năm của Vận 5 được chia đều, 10 năm cho Tứ Lục Tốn và 10 năm cho Lục Bạch Càn, do đó Vận 4 và Vận 6 mỗi vận kéo dài 30 năm (đây là một thuyết, thuyết phổ biến hiện nay là Vận 5 vẫn kéo dài 20 năm).

Khí số này vận hành dựa trên Hà Đồ và Lạc Thư làm thể và dụng cho nhau, đồng thời phối hợp các sao Bắc Đẩu với khí của Hậu Thiên Bát Quái để vận hành không ngừng. Dương hết thì âm sinh, âm hết thì dương sinh, có bắt đầu thì có kết thúc, kết thúc rồi lại bắt đầu. Trung cung (Ngũ) làm cực, Càn Tốn làm thiên cương, Khôn Cấn làm địa kỷ, ở bốn góc (tứ duy) để vận hành trục trung tâm. Khảm Ly Chấn Đoài là Thủy Hỏa, ở bốn phương chính (tứ chính) làm dụng của trời đất.

Để luận đoán Nguyên Vận, cần phải biết mệnh tinh của gia chủ và các thành viên trong gia đình. Để tính mệnh tinh, phải phân chia Tam Nguyên, và Tam Nguyên có chín Vận. Để xem sự sinh khắc của mệnh tinh, phải phối hợp với tinh bàn để luận đoán cát hung. Mệnh tinh bao gồm: Nhất Bạch Khảm Thủy, Nhị Hắc Khôn Thổ, Tam Bích Chấn Mộc, Tứ Lục Tốn Mộc, Ngũ Hoàng Trung Thổ, Lục Bạch Càn Kim, Thất Xích Đoài Kim, Bát Bạch Cấn Thổ, Cửu Tử Ly Hỏa. Ví dụ: Người có mệnh cung Nhị Hắc thuộc Thổ, ưa thấy Cửu Tử Ly Hỏa, vì Hỏa sinh Thổ, là "sinh cho ta", nên tốt. Nhưng không ưa thấy Tam Bích, Tứ Lục Mộc, vì Mộc khắc Thổ, là "khắc ta", nên xấu. Nếu thấy Nhất Bạch Khảm Thủy, vì Thổ khắc Thủy, là "ta khắc", trong phong thủy "ta khắc" là Tài, nên tốt. Nói đơn giản là dùng lý lẽ sinh khắc của Ngũ hành để suy ra.

PHẦN 08: THỜI KHÍ CỬU TINH
Thời Khí Cửu Tinh chính là Huyền Không Đại Ngũ Hành của Tưởng Đại Hồng, sử dụng 64 quẻ kép của Tiên Thiên Bát Quái làm dụng. Sơ đồ ngang của Tiên Thiên Bát Quái là: Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn, phối với số của Hà Đồ: Cửu Càn, Tứ Đoài, Tam Ly, Bát Chấn, Nhị Tốn, Thất Khảm, Lục Cấn, Nhất Khôn. Mỗi số quản 20 năm, là chủ宰 của thời khí 20 năm đó.

Vận 1: Số của Khôn là 1, nên tất cả các quẻ kép do Khôn phối với Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn (như Địa Thiên Thái, Địa Trạch Lâm...) đều thuộc Vận 1, chủ quản 20 năm đầu của Thượng Nguyên. Số 1 của Hà Đồ là Thủy, nên Ngũ hành cũng thuộc Thủy.

Vận 2: Tốn là 2, tất cả các quẻ kép do Tốn phối (như Phong Thiên Tiểu Súc, Phong Trạch Trung Phu...) đều thuộc Vận 2. Số 2 của Hà Đồ là Hỏa, nên Ngũ hành thuộc Hỏa, chủ quản 20 năm giữa của Thượng Nguyên.

Vận 3: Ly là 3, tất cả các quẻ kép do Ly phối đều thuộc Vận 3. Số 3 của Hà Đồ là Mộc, nên Ngũ hành thuộc Mộc, chủ quản 20 năm cuối của Thượng Nguyên.

Vận 4: Đoài là 4, tất cả các quẻ kép do Đoài phối đều thuộc Vận 4. Số 4 của Hà Đồ là Kim, nên Ngũ hành thuộc Kim, chủ quản 30 năm đầu của Trung Nguyên.

Vận 5: Số 5 ở trung tâm, là Hoàng Cực bất động, cai quản tám phương.

Vận 6: Cấn là 6, tất cả các quẻ kép do Cấn phối đều thuộc Vận 6. Số 6 của Hà Đồ là Thủy, nên Ngũ hành thuộc Thủy, chủ quản 30 năm cuối của Trung Nguyên.

Vận 7: Khảm là 7, tất cả các quẻ kép do Khảm phối đều thuộc Vận 7. Số 7 của Hà Đồ là Hỏa, nên Ngũ hành thuộc Hỏa, chủ quản 20 năm đầu của Hạ Nguyên.

Vận 8: Chấn là 8, tất cả các quẻ kép do Chấn phối đều thuộc Vận 8. Số 8 của Hà Đồ là Mộc, nên Ngũ hành thuộc Mộc, chủ quản 20 năm giữa của Hạ Nguyên.

Vận 9: Càn là 9, tất cả các quẻ kép do Càn phối đều thuộc Vận 9. Số 9 của Hà Đồ là Kim, nên Ngũ hành thuộc Kim, chủ quản 20 năm cuối của Hạ Nguyên.

Address


Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Khâm Thiên Học Đường posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Business

Send a message to Khâm Thiên Học Đường:

  • Want your business to be the top-listed Media Company?

Share