Phanxipang2

Phanxipang2 Quân đội Nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.
(1)

01/11/2025
01/11/2025

⚡️Không chờ đợi, không do dự – khẩn trương hành động!
Giữa lúc thiên tai khốc liệt, những người lính Cụ Hồ lại chạy đua cùng bão lũ, giành giật từng phút – giây để cứu dân, giúp dân, vì dân 💪🇻🇳🌊

Du khách quốc tế chung tay cùng người dân Hội An khắc phục hậu quả mưa lũHình ảnh những du khách quốc tế cùng người dân ...
01/11/2025

Du khách quốc tế chung tay cùng người dân Hội An khắc phục hậu quả mưa lũ

Hình ảnh những du khách quốc tế cùng người dân địa phương lội nước trao quà cứu trợ đã lan tỏa thông điệp nhân ái và sẻ chia, làm ấm lòng giữa mùa lũ lịch sử.

Từ sáng sớm, những vị khách đến từ nhiều quốc gia khác nhau đã cùng người dân địa phương khuân vác thùng hàng cứu trợ, sữa, nước uống, thực phẩm, len lỏi vào các khu dân cư bị cô lập để trao tận tay từng hộ dân. Nụ cười, cái bắt tay và những lời động viên vượt qua nghịch cảnh khiến nhiều người dân xúc động, cảm nhận được sự ấm áp giữa mùa mưa lạnh.

Một trong những người trực tiếp kết nối hoạt động thiện nguyện này là bà Lương Thúy Hà, chủ cơ sở lưu trú Beachside Boutique Hội An. Chỉ trong thời gian ngắn, bà cùng bạn bè, du khách quốc tế và người nước ngoài sinh sống tại Hội An đã vận động được hàng trăm triệu đồng, quyên góp mua nhu yếu phẩm, hỗ trợ người dân vùng ngập sâu. Riêng hai du khách châu Âu khi biết tin đã ủng hộ ngay 10 triệu đồng.

Du khách Jai, 39 tuổi, đến từ Úc, chia sẻ:
-“Được cùng mọi người tham gia cứu trợ là một trải nghiệm đáng nhớ. Chúng tôi đến Hội An không chỉ để ngắm phố cổ mà còn muốn đóng góp một phần nhỏ bé cho nơi mình tạm trú – nơi mà chúng tôi cảm thấy như ngôi nhà thứ hai.”

Sau khi hỗ trợ người dân tại Hội An, đoàn cứu trợ sẽ tiếp tục đến các khu vực ngập sâu ở xã Nam Phước (huyện Duy Xuyên) để trao quà và nhu yếu phẩm.

Trong dòng nước lũ mênh mông, những đôi tay nối dài giữa người dân địa phương và du khách quốc tế đã tạo nên một hình ảnh đẹp - hình ảnh của tình người, của sự sẻ chia không biên giới, giúp Hội An thêm ấm áp giữa mùa bão lũ.
[nguồn VTV]

TÌNH BÁO QUỐC PHÒNG TRONG CHIẾN DỊCH “ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG” Chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không" tháng 12-1972 là ...
01/11/2025

TÌNH BÁO QUỐC PHÒNG TRONG CHIẾN DỊCH “ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG”

Chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không" tháng 12-1972 là một kỳ tích trong lịch sử chiến tranh hiện đại. Quân át chủ bài “pháo đài bay” B-52 bất khả chiến bại của đế quốc Mỹ đã thất bại trên bầu trời Hà Nội. Đóng góp không nhỏ vào kỳ tích này là chiến công của lực lượng tình báo quốc phòng Việt Nam.

Hà Nội không bất ngờ

Đầu tháng 12-1972, tại Paris, Mỹ đã tự ý sửa đổi 69 điều trong dự thảo Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Phái đoàn ta kiên quyết phản đối. Hội nghị lâm vào bế tắc. Ngày 13-12-1972, Mỹ tuyên bố: “Hành động duy nhất để đạt được mục đích là đẩy mạnh ném bom, buộc miền Bắc Việt Nam phải chấp nhận giải pháp do Mỹ đưa ra”.

Ngày 14-12-1972, Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta, đe dọa nếu không tiếp tục đàm phán sau 72 giờ, miền Bắc sẽ phải gánh hậu quả nghiêm trọng. Cùng ngày, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân lập kế hoạch Chiến dịch Linebacker II sử dụng máy bay B-52 đánh phá Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương hòng “đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá”, xoay chuyển thế cờ trên bàn đàm phán ở Paris.

Đầu năm 1972, đồng chí Phạm Xuân Ẩn (bí số X6) phân tích nguồn tin và dự báo: “Mỹ sẽ ném bom miền Bắc nhằm phong tỏa cảng Hải Phòng”. Đồng chí Đặng Trần Đức (Ba Quốc), cán bộ điệp báo của ta tại Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo ngụy, cũng đã thu thập và báo cáo tin: Mỹ ném bom miền Bắc không phải để kéo dài chiến tranh mà là để gây sức ép với ta tại Hội nghị Paris.

Ngoài nguồn tin điệp báo chiến lược, công tác hỏi cung tù binh cũng góp phần quan trọng. Tháng 6-1972, thông qua hỏi cung phi công Mỹ, Cục Tình báo đã nắm được tin: Mỹ đang tổ chức hiệp đồng giữa máy bay B-52 và các loại máy bay khác để chuẩn bị đánh Hà Nội. Cục Tình báo cũng nắm được nội dung liên lạc giữa B-52 với lực lượng yểm trợ, khu vực tiếp nhiên liệu trên không, trên đường bay từ Thái Lan và Guam vào Việt Nam. Từ những tin tức đó, ta đã nắm được quy mô, lực lượng không quân chiến lược B-52, thông số kỹ-chiến thuật, kế hoạch tập kích, đội hình tập kích, đường bay từ các căn cứ ở Guam và Utapao tiếp cận các mục tiêu đánh phá.

Trước đó, sau Tết Mậu Thân 1968, lực lượng điệp báo ở ngoài nước cũng tổ chức đánh vào sào huyệt, nơi xuất phát của máy bay B-52 tại các căn cứ không quân Mỹ ở Udorn và Utapao, làm hoang mang tinh thần của giặc lái. Cụ thể, cuối tháng 2-1968, hai tổ điệp báo chiến lược do tình báo quốc phòng thành lập lên đường sang Thái Lan, thực hiện kế hoạch tập kích sân bay Udorn và Utapao. Tháng 7-1968, các tổ đã tập kích sân bay Udorn, phá hủy 1 máy bay vận tải C-41, 2 máy bay F-4, 1 trực thăng, phá hủy đường băng, tiêu diệt và làm bị thương 42 tên lính. Tháng 8-1968, các tổ điệp báo tiếp tục tập kích sân bay Utapao, phá hủy 2 máy bay B-52, làm hỏng nặng 2 chiếc khác và đài chỉ huy bay khiến không quân Mỹ phải mất một tuần để khắc phục.

Ở trong nước, được sự giúp đỡ của chuyên gia Liên Xô, ta đã tiếp thu và sử dụng thành thạo các trang bị mới như máy thu đa hướng P347 (JupiterB), máy định hướng P359. Giữa năm 1971, trinh sát kỹ thuật bắt đầu nghiên cứu, nắm tính năng kỹ-chiến thuật cũng như những thông tin liên quan đến B-52. Tháng 7-1972, thông qua chặn thu điện liên lạc giữa phi công B-52 với đài chỉ huy, trinh sát kỹ thuật đã phát hiện ra bộ sóng quản lý đường bay, trong đó có đường bay của B-52. Qua đó, ta lập được đường bay của B-52 từ lúc cất cánh cho đến mục tiêu và bay về căn cứ. Ta cũng nắm chắc kế hoạch di chuyển của quan chức cấp cao Tập đoàn không quân số 7, số 8 và số 13 của Mỹ từ các căn cứ ở Thái Lan, Philippines và miền Nam Việt Nam, hoạt động di chuyển của máy bay tìm kiếm cứu nạn từ Đà Nẵng sang Udorn, Nakhon Phanom, điều chỉnh lực lượng không quân và điều kiện, yêu cầu bảo đảm vận hành máy bay B-52... Từ những tin tức đó, cơ quan tình báo quốc phòng báo cáo lên trên nội dung: “Không quân Mỹ đang chuẩn bị cho một đợt hoạt động lớn ra ngoài vĩ tuyến 20, chú ý Hà Nội, Hải Phòng”.

Ngày 17-12-1972, trinh sát kỹ thuật báo cáo: Bộ tư lệnh Thái Bình Dương dừng đi phép đối với tất cả phi công, phi công sẵn sàng chờ lệnh; ngày 18-12, trinh sát kỹ thuật tiếp tục báo cáo, Mỹ không chủ trương sử dụng lực lượng không quân trong hai ngày 16 và 17-12. Trên cơ sở đó ta nhận định: Đây là động thái báo hiệu Mỹ đang chuẩn bị cho một trận đánh lớn.

Chiến dịch diễn ra

Nói với phóng viên Báo Quân đội nhân dân về vai trò của trinh sát kỹ thuật thuộc tình báo quốc phòng trong Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không”, Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh, nguyên Phó cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, người đảm nhiệm trực ban tác chiến phòng không tại Tổng hành dinh ngay ngày đầu tiên diễn ra chiến dịch, cho biết: Tin tức của tình báo, đặc biệt là trinh sát kỹ thuật có tác dụng rất lớn, giúp cả nước chủ động, không bị bất ngờ. Vị tướng già hồi tưởng: “Những tin tức về B-52 của Cục Tình báo luôn được báo cáo đầu tiên. Đến khi chiến dịch diễn ra, tôi nhớ như in là tin tức tình báo đã giúp ta đưa toàn quân vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất trước hai ngày. Trong chiến dịch, tin tức trinh sát kỹ thuật luôn báo sớm ít nhất 5 giờ trước khi B-52 đến”.

15 giờ 30 phút ngày 18-12-1972, trinh sát kỹ thuật báo cáo: B-52 đã cất cánh! Máy bay tiếp nhiên liệu KC-135 cũng đã cơ động từ căn cứ Clark, dự kiến B-52 sẽ đánh vào miền Bắc. Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh hồi tưởng: “Nhận được tin B-52 cất cánh từ Guam ra đánh miền Bắc, người tôi sởn g*i ốc, lo lắm, nhưng phải trấn an bản thân cần phải bình tĩnh. Tin radar phòng không đến sau một lúc. Được sự phân công của đồng chí Vũ Lăng, Cục trưởng Cục Tác chiến, đồng chí Nguyễn Văn Ninh tiến hành đo, vẽ và khớp tin từ lực lượng trinh sát kỹ thuật và thông tin radar phòng không để biết thời điểm B-52 đến Hà Nội".

16 giờ 30 phút ngày 18-12-1972, trinh sát kỹ thuật thông báo hoạt động tiếp nhiên liệu trên không của các tốp B-52 đang ở khu vực Đông Nam Philippines. 17 giờ, tốp B-52 đầu tiên vào đến đảo Cồn Cỏ, bay ngoặt lên phía Bắc. Tiếp sau đó, lực lượng thu nhận đầy đủ và báo cáo kịp thời hoạt động của các tốp máy bay B-52 khi chúng đến cửa sông Hồng chuẩn bị tiếp cận mục tiêu.

Theo Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh, sau khi phân tích thông tin tình báo và tin radar, đồng chí đồ giải khoảng 19 giờ 30 phút, B-52 sẽ ném bom Hà Nội và báo cáo cấp trên. Được lệnh, đồng chí kéo còi báo động phòng không cho toàn thành phố; các đơn vị sẵn sàng chiến đấu. “Đứng về mặt phòng không mà chủ động báo cho nhân dân, chứ chưa nói Quân đội, vì Quân đội là nhanh nhất rồi; trước được 25 phút cho đến 30 phút là quý lắm”, Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh cho biết.

19 giờ 45 phút ngày 18-12-1972, cả Hà Nội rung lên, những tia chớp dọc ngang xé toạc bầu trời tĩnh lặng. Tiếng loa phát thanh, còi báo động, bom rơi, cao xạ nổ, trời đất rung chuyển. Máy bay địch đã vào tầm ngắm, lực lượng tên lửa phòng không của ta phóng những quả đạn đầu tiên mở màn chiến dịch. Trận quyết tử bắt đầu!

3 đóng góp của tình báo quốc phòng

Nhờ có được nguồn tin tổng hợp tình báo báo trước, nhất là tin của trinh sát kỹ thuật nắm cụ thể các đợt tập kích của B-52, quân và dân Hà Nội hoàn toàn không bất ngờ và đã bình tĩnh đánh trả, trong khi vẫn tiết kiệm đạn, bảo đảm công tác phòng không nhân dân, bảo đảm giao thông vận tải, không ngừng chi viện cho chiến trường miền Nam.

Theo Đại tá Đào An Việt, Phó chủ nhiệm Chính trị Tổng cục II, chiến công của tình báo quốc phòng trong Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” có thể khái quát trong 3 nội dung sau: “Thứ nhất, lực lượng điệp báo chiến lược đã nắm rất sớm ý định của đế quốc Mỹ về việc ném bom miền Bắc nhằm mục đích gây sức ép với ta tại bàn đàm phán Paris hòng buộc ta phải chấp nhận các điều kiện của Mỹ. Việc tình báo chiến lược của ta nắm được từ sớm âm mưu này giúp ta chuẩn bị lực lượng phòng không đủ sức đánh địch. Thứ hai, khi trực tiếp vào chiến dịch, trinh sát kỹ thuật đã sớm chặn thu và nắm được sớm (từ 5 đến 9 giờ đồng hồ) những hành động của không quân Mỹ trong chuẩn bị, tổ chức đội hình máy bay B-52 để ném bom Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh miền Bắc, giúp lực lượng phòng không của chúng ta có được thế chủ động đón đánh B-52. Thứ ba, từ các nguồn tin tình báo tổng hợp, kết hợp khai thác tù binh Mỹ, trong đó có phi công Mỹ, tình báo quốc phòng đã phối hợp cùng Quân chủng Phòng không-Không quân xây dựng và hoàn chỉnh cẩm nang đỏ về cách đánh B-52 ngay từ sớm, bảo đảm cho chúng ta có được chiến thuật và kỹ thuật chiến thắng được B-52, làm nên kỳ tích lịch sử "Điện Biên Phủ trên không’”.

Về “Điện Biên Phủ trên không”, giới quân sự phương Tây đã phải thốt lên: Việt Nam đánh thắng trên bộ, trên thủy thì còn hiểu được, nhưng Việt Nam đánh thắng ở trên không thì không thể hiểu được, vì đó là một cuộc chiến tranh công nghệ cao đầu tiên trên thế giới mà Mỹ phát động. Tại sao Việt Nam lại chiến thắng? Câu hỏi đó trong thời gian dài từng làm đau đầu giới chuyên gia quân sự phương Tây./.

Quân đội nhân dân

HOÀN THIỆN CẤU TRÚC HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM TRONG KỶ NGUYÊN MỚINgày 1/11, tại trụ sở Bộ Tư pháp, Ban Nội chính Trung...
01/11/2025

HOÀN THIỆN CẤU TRÚC HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM TRONG KỶ NGUYÊN MỚI

Ngày 1/11, tại trụ sở Bộ Tư pháp, Ban Nội chính Trung ương, Bộ Tư pháp, Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội tổ chức Hội thảo khoa học cấp quốc gia “Hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”.

Đồng chí Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính Trung ương chủ trì hội thảo. Đồng chủ trì hội thảo có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng, Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh.

Tham dự hội thảo có các đồng chí đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương, lãnh đạo và đại diện một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các chuyên gia, nhà khoa học, các nhà quản lý và hoạt động thực tiễn.

Phát biểu khai mạc, Phó Thủ tướng Lê Thành Long đánh giá hội thảo là sự kiện quan trọng, góp phần làm sáng tỏ các khía cạnh lý luận, nhận diện vấn đề thực tiễn, tham khảo kinh nghiệm quốc tế để thực hiện mục tiêu đưa thể chế và pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh, đóng vai trò dẫn dắt phát triển đất nước.

Phó Thủ tướng khẳng định, Đảng, Nhà nước luôn đặc biệt quan tâm công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật, xác định đây là một trong ba đột phá chiến lược; đã ban hành, triển khai thực hiện hiệu quả nhiều chủ trương, đường lối, cơ chế, chính sách đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, thi hành pháp luật và đạt được nhiều kết quả quan trọng, đã ban hành, triển khai thực hiện hiệu quả nhiều chủ trương, đường lối, cơ chế, chính sách đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, thi hành pháp luật và đạt được nhiều kết quả quan trọng.

"Đặc biệt, chúng ta đã ban hành Nghị quyết 27 về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nghị quyết 66 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Đây là những chủ trương mang tính lịch sử, định hướng cho sự phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam trong thời gian vừa qua và trong thời gian tới", đồng chí nhấn mạnh.

Theo Phó Thủ tướng, công tác xây dựng và thực thi pháp luật thời gian qua đã đổi mới về cả tư duy, cách làm; nhiều cơ chế, chính sách đã được ban hành, kịp thời tháo gỡ nhiều "điểm nghẽn" trong hệ thống pháp luật, xử lý nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình phát triển.

Hệ thống pháp luật đã xác lập được sự phân tầng giữa các loại văn bản với trật tự thứ bậc hiệu lực pháp lý cơ bản rõ ràng, phù hợp; nhiều kỹ thuật lập pháp hiện đại đã được tiếp thu và ứng dụng tại Việt Nam.

Chỉ ra những hạn chế, bất cập trong công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật còn những hạn chế, bất cập, Phó Thủ tướng đề nghị tại Hội thảo hôm nay, các cơ quan, các chuyên gia, nhà khoa học tham gia, đóng góp ý kiến, đề xuất sáng kiến cho quá trình tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; trong đó tập trung thảo luận, làm rõ căn cứ lý luận, nền tảng cho việc hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật để đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.

Đồng thời, đánh giá thực trạng cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay cũng như xác định cụ thể phương hướng, giải pháp, lộ trình hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam để khắc phục những hạn chế, bất cập, xây dựng một cấu trúc hệ thống pháp luật hoàn thiện hơn để Nhà nước và các chủ thể phát huy đúng vai trò, vị trí, trách nhiệm trong tiến trình phát triển của đất nước.

Tại hội thảo, các đại biểu tập trung làm sáng tỏ cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về thiết kế cấu trúc hệ thống pháp luật, đồng thời nhận diện đầy đủ nội hàm cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của Việt Nam; Nhận diện rõ bối cảnh, tính cấp thiết và yêu cầu cần đáp ứng khi hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới; Đánh giá toàn diện thực trạng cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, những ưu điểm và thành tựu cần được tiếp tục kế thừa, những hạn chế, bất cập (nếu có) và những vấn đề đặt ra cần xử lý để hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới;

Các đại biểu cũng đề xuất định hướng, giải pháp hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam, hướng tới việc đề xuất khung cấu trúc tổng thể, hiện đại, hợp lý, bao phủ được những ngành, lĩnh vực mới phát sinh trước tác động của cuộc cách mạng công nghệ và các xu hướng phát triển mới hiện nay./.

Báo Nhân dân

Nhận diện và hóa giải những "điểm nghẽn" trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của ĐảngDự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp h...
01/11/2025

Nhận diện và hóa giải những "điểm nghẽn" trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội XIV của Đảng đã đánh giá: “Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được triển khai quyết liệt, đồng bộ, có hiệu quả”, nhưng để công tác này đạt hiệu quả cao như kỳ vọng, cần dũng cảm nhìn thẳng vào những “điểm nghẽn” đang tồn tại để hóa giải, nhằm bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch trong kỷ nguyên phát triển mới.

Đâu là những “điểm nghẽn”?

Từ thực tiễn bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chúng tôi chỉ ra một số điểm nghẽn cơ bản sau:

“Điểm nghẽn” đầu tiên: Nhận thức, trách nhiệm chưa ngang tầm

Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả người làm công tác lãnh đạo, quản lý, nhà báo, nhà khoa học vẫn chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Có người cho rằng đây là công việc riêng của cơ quan tuyên giáo hay Ban chỉ đạo 35, dẫn đến tình trạng “khoán trắng”, thiếu sự vào cuộc đồng bộ, quyết tâm.

Bên cạnh đó, có nơi còn tách rời giữa nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng với nhiệm vụ phản bác quan điểm sai trái, thù địch, khiến công tác triển khai thiếu tính hệ thống, hiệu quả không cao, kiến nhận thức chưa đầy đủ và hành động thiếu quyết liệt.

“Điểm nghẽn” thứ hai: Cuộc chiến “không cân sức” trên không gian mạng

Các thế lực thù địch sở hữu tiềm lực công nghệ vượt trội, có mạng lưới truyền thông chuyên nghiệp, được tài trợ mạnh mẽ từ các chính phủ, từ lực lượng trá hình núp trong các tổ chức thao túng không gian mạng, thông qua nền tảng mạng xã hội, phát tán thông tin sai trái với tốc độ cực nhanh, đa chiều. Trong khi đó, lực lượng ta, đặc biệt ở cấp cơ sở, chủ yếu là kiêm nhiệm, thiếu điều kiện tiếp cận thông tin, thiếu kỹ năng, phương tiện hiện đại để nhận diện và đấu tranh hiệu quả ngay từ ban đầu.

Không ít trường hợp, thông tin vì trải qua quy trình biên tập nhiều tầng, khiến phản ứng của lực lượng đấu tranh bị động, “chạy theo sự kiện”, có lúc chưa thật sự tạo được “thế chủ động”.

“Điểm nghẽn” thứ ba: Nguồn lực và cơ chế bảo đảm còn bất cập

Nhiệm vụ nặng nề, nhưng điều kiện vật chất, chính sách hỗ trợ cho lực lượng đấu tranh vẫn còn rất hạn chế. Nhiều cán bộ, đảng viên làm nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng vẫn “tay không bắt giặc”, tự trang bị thiết bị, mạng Internet, dữ liệu di động để làm việc. Cơ chế, chính sách động viên, khích lệ, khen thưởng chưa tương xứng với tính chất đặc thù, nguy hiểm của công tác này.

“Điểm nghẽn” thứ tư: Thiếu cơ chế bảo vệ người đấu tranh

Đây là “điểm nghẽn của điểm nghẽn”. Một thực tế đáng quan tâm là những người trực diện phản bác thường bị đe dọa, bôi nhọ, thậm chí bị cô lập trong môi trường công tác. Khi bị vu khống hoặc kiện cáo, họ chưa nhận được sự bảo vệ kịp thời từ tổ chức, rất dễ rơi vào trạng thái tâm lý bất an, khi được “minh oan” lại rơi vào hoàn cảnh “được vạ thì má đã sưng”. Điều đó làm suy giảm tinh thần đấu tranh, chỉ dám “múa gậy trong bị”, bảo vệ và đấu tranh cầm chừng.

Phá “điểm nghẽn” như thế nào?

Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội XIV của Đảng tiếp tục chủ trương: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị”. Vì vậy, một trong những vấn đề đặt ra cấp bách là phải phá vỡ các điểm nghẽn nêu trên, để công tác này thực sự đạt hiệu quả cao nhất, với những giải pháp cụ thể sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của chủ thể, lực lượng đấu tranh

Cấp ủy, tổ chức đảng, Ban chỉ đạo 35 các cấp phải quán triệt sâu sắc cần nâng cao nhận thức về ý nghĩa sống còn của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch và thấy rõ những điểm nghẽn để kịp thời hóa giải.

Tạo sự thống nhất giữa nhận thức và hành động của các chủ thể, lực lượng trong nhận diện và đấu tranh; trong đó, lực lượng nòng cốt, chuyên sâu phải chủ động phối hợp với cơ quan báo chí, đơn vị chức năng, tổ chức chính trị - xã hội, để hình thành “thế trận tư tưởng thống nhất”.

Cần kết hợp giữa lực lượng chuyên trách và bán chuyên trách; giữa nhà lý luận với người làm truyền thông; giữa “chiến sĩ tư tưởng” và “chiến sĩ công nghệ”. Khi toàn hệ thống chính trị cùng chung tiếng nói, sức lan tỏa của công tác đấu tranh sẽ mạnh hơn gấp bội.

Mỗi cá nhân, cơ quan, đơn vị cần có kế hoạch đấu tranh cụ thể, xác định trọng tâm, trọng điểm, phân công trách nhiệm rõ ràng; khơi dậy tinh thần trách nhiệm, lòng tự hào, ý chí xung kích trong mỗi cán bộ, đảng viên - những người đang ngày đêm giữ vững “trận địa tư tưởng” của Đảng.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách bảo đảm và bảo vệ người đấu tranh

Phải có cơ chế đãi ngộ, khen thưởng, hỗ trợ vật chất và tinh thần xứng đáng với nhiệm vụ đặc biệt này. “Cuộc chiến” này không chỉ đòi hỏi tri thức, mà còn là sự dũng cảm, bền bỉ và chấp nhận rủi ro. Vì vậy, cần có quy định pháp lý rõ ràng bảo vệ người trực tiếp đấu tranh; tuyệt đối không để các lực lượng tiên phong này “đơn thương, độc mã” trên mặt trận tư tưởng - văn hóa.

Cùng với đó, Đảng và Nhà nước cần nghiên cứu, bổ sung chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao tham gia lĩnh vực bảo vệ nền tảng tư tưởng, nhất là các chuyên gia công nghệ, chuyên viên an ninh mạng, nhà báo, nhà khoa học trẻ, chuyên gia lý luận hàng đầu. Các cơ quan báo chí, nền tảng truyền thông số cần tăng cường sản xuất nội dung tích cực, sáng tạo, hấp dẫn, có tính lan tỏa cao. Khi thông tin chính thống chiếm lĩnh không gian mạng, thì luận điệu sai trái tự khắc bị đẩy lùi.

Không công nghệ nào thay thế được trí tuệ con người. Lực lượng làm công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng cần được đào tạo toàn diện về lý luận chính trị, truyền thông, công nghệ và tâm lý xã hội. Đặc biệt, cần quan tâm thế hệ trẻ - những người am hiểu công nghệ, năng động, sáng tạo - để họ trở thành lực lượng xung kích trên không gian mạng. Đồng thời, xây dựng cơ chế tôn vinh, bảo vệ, khích lệ người tham gia đấu tranh, giúp họ yên tâm, tự tin, giữ vững khí tiết và bản lĩnh.

Ba là, đầu tư nguồn lực, phương tiện hiện đại

Trong thời đại số, nếu không có công cụ mạnh, không thể đấu tranh hiệu quả. Cần đầu tư hệ thống hạ tầng kỹ thuật, trung tâm dữ liệu, công cụ, phần mềm phân tích nhận diện thông tin xấu độc, công cụ quản lý nội dung số; khắc phục tình trạng “tay không bắt giặc” trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng. Đồng thời, đẩy mạnh truyền thông tích cực, lan tỏa giá trị nhân văn, tôn vinh tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác này.

Bên cạnh đó, cần tổ chức đào tạo chuyên sâu về kỹ năng phản bác, khai thác thông tin, viết bài lý luận, phản biện xã hội; kết hợp huấn luyện tác chiến trên không gian mạng cho các lực lượng 35 toàn quốc.

Phá “điểm nghẽn”, cởi “nút thắt” chính là hành động tự đổi mới của Đảng trên mặt trận tư tưởng. Khi cơ chế, chính sách thông thoáng; khi người đấu tranh được bảo vệ và khích lệ; khi mỗi cán bộ, đảng viên đều ý thức được vai trò của mình - thì công tác đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch chắc chắn sẽ đạt được hiệu quả cao hơn, bền vững hơn.

Ứng dụng công nghệ hiện đại, chủ động tấn công địch trên không gian mạng. Đấu tranh tư tưởng trong kỷ nguyên số không thể “đánh tay không”. Cần chủ động ứng dụng công nghệ (AI, Big Data) để giám sát, phân tích, dự báo, nhận diện sớm các chiến dịch truyền thông chống phá. Bên cạnh đó, hình thành các trung tâm dữ liệu chiến lược, nhóm phản ứng nhanh, đội ngũ chuyên gia công nghệ, phối hợp với nhà lý luận, báo chí, an ninh mạng để xử lý, phản bác kịp thời.

Kinh nghiệm từ thực tế cho thấy, nếu chủ động nắm bắt, dự báo đúng xu hướng, phản ứng nhanh bằng lý lẽ sắc bén, chúng ta có thể chuyển từ “phòng thủ” sang “tấn công”, chiếm lĩnh trận địa tư tưởng.

Bốn là, củng cố “thế trận tư tưởng” trong kỷ nguyên số

Không gian mạng hôm nay không chỉ là môi trường giao tiếp, mà đã trở thành “mặt trận tư tưởng” sôi động và phức tạp nhất. Ở đó, từng dòng trạng thái, từng video, từng bình luận đều có thể là “viên đạn bọc đường” tác động vào nhận thức từng người và toàn xã hội. Cuộc chiến này không tiếng súng, nhưng nóng bỏng từng giờ. Nó đòi hỏi sự tỉnh táo, kiên định và bản lĩnh của mỗi người - nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Vì vậy, cần xây dựng "thế trận nhân dân" trên không gian mạng. Không thể chỉ trông chờ vào lực lượng chuyên trách, mà mỗi đảng viên, mỗi công dân yêu nước đều có thể là “chiến sĩ”, biến sức mạnh của toàn dân thành lá chắn vững chắc trước mọi thông tin xấu độc, tạo “bức tường thành” vững chắc trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thực chất là một nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng; một nội dung quan trọng của bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới, đòi hỏi phải có giải pháp tổng thể; trong đó, nhất thiết nhận diện và hóa giải những “điểm nghẽn” nêu trên như là một giải pháp có tính đột phá.

Chuyển đổi số: "Tấm khiên" chống thiên taiTrong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, Việt Nam trở thành một tro...
01/11/2025

Chuyển đổi số: "Tấm khiên" chống thiên tai

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai. Từ bão, lũ, sạt lở cho đến hạn hán, những thảm họa tự nhiên đòi hỏi một phương thức quản trị mới - nơi công nghệ và khoa học cùng phát huy vai trò chủ đạo trong bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân.

Thiên tai không còn là hiện tượng bất thường, mà là thực tế thường trực. Mỗi năm, Việt Nam ghi nhận hàng trăm trận mưa lớn, trên dưới mười cơn bão và nhiều vụ sạt lở nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn về người và tài sản, môi trường. Trong bối cảnh đó, chuyển đổi số trong quản trị thiên tai không chỉ là một xu thế, mà là yêu cầu cấp bách, là “tấm khiên số” giúp đất nước chủ động phòng ngừa, ứng phó và phục hồi hiệu quả.

Ông Mai Văn Khiêm, Giám đốc Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn quốc gia cho biết: Ở góc độ khoa học – công nghệ, chuyển đổi số trong lĩnh vực này dựa trên ba trụ cột chính. Toàn bộ thông tin khí tượng, thủy văn, hải văn được thu thập từ mạng lưới cảm biến IoT, trạm quan trắc tự động, radar thời tiết, vệ tinh, và hệ thống camera giám sát mưa lũ. Dữ liệu này được truyền theo thời gian thực về các trung tâm xử lý quốc gia và khu vực, tạo nên “bức tranh số” về diễn biến mưa, bão, lũ, sạt lở đất trên phạm vi toàn quốc. Hai là, dựa trên nền tảng điện toán đám mây, Big Data và trí tuệ nhân tạo (AI), các mô hình dự báo số trị được tối ưu liên tục, có thể giúp mô phỏng hàng trăm kịch bản mưa – lũ khác nhau. Các thuật toán học máy được ứng dụng để hiệu chỉnh đầu ra của mô hình toàn cầu và khu vực, từ đó tăng độ chính xác của dự báo mưa, lũ, và cảnh báo sớm lũ quét, sạt lở đất. Ba là, hệ thống thông tin địa lý (GIS) và bản đồ rủi ro thời gian thực cho phép các nhà quản lý nhanh chóng đánh giá nguy cơ, khoanh vùng ảnh hưởng, đưa ra phương án ứng phó kịp thời. Các nền tảng cảnh báo đa kênh – bao gồm SMS, ứng dụng di động, bản đồ tương tác và truyền hình – giúp thông tin đến được tận người dân ở các địa phương

Khi ba tầng công nghệ này được tích hợp, mỗi thông tin thời tiết, mỗi dòng dữ liệu từ cảm biến đều trở thành cơ sở để cảnh báo sớm, chỉ đạo nhanh, giảm thiểu thiệt hại tối đa.

Nhập từ khóa tìm kiếm...
Xã hội/Các vấn đề
Chia sẻ
Thứ bảy, 01/11/2025 - 12:20
Theo dõi Báo Quân đội nhân dân trênFollow on Google News
Chuyển đổi số: "Tấm khiên" chống thiên tai
Tác giả: THẢO NGUYÊN
THẢO NGUYÊN

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai. Từ bão, lũ, sạt lở cho đến hạn hán, những thảm họa tự nhiên đòi hỏi một phương thức quản trị mới - nơi công nghệ và khoa học cùng phát huy vai trò chủ đạo trong bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân.

Thiên tai không còn là hiện tượng bất thường, mà là thực tế thường trực. Mỗi năm, Việt Nam ghi nhận hàng trăm trận mưa lớn, trên dưới mười cơn bão và nhiều vụ sạt lở nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn về người và tài sản, môi trường. Trong bối cảnh đó, chuyển đổi số trong quản trị thiên tai không chỉ là một xu thế, mà là yêu cầu cấp bách, là “tấm khiên số” giúp đất nước chủ động phòng ngừa, ứng phó và phục hồi hiệu quả.

Ông Mai Văn Khiêm, Giám đốc Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn quốc gia cho biết: Ở góc độ khoa học – công nghệ, chuyển đổi số trong lĩnh vực này dựa trên ba trụ cột chính. Toàn bộ thông tin khí tượng, thủy văn, hải văn được thu thập từ mạng lưới cảm biến IoT, trạm quan trắc tự động, radar thời tiết, vệ tinh, và hệ thống camera giám sát mưa lũ. Dữ liệu này được truyền theo thời gian thực về các trung tâm xử lý quốc gia và khu vực, tạo nên “bức tranh số” về diễn biến mưa, bão, lũ, sạt lở đất trên phạm vi toàn quốc. Hai là, dựa trên nền tảng điện toán đám mây, Big Data và trí tuệ nhân tạo (AI), các mô hình dự báo số trị được tối ưu liên tục, có thể giúp mô phỏng hàng trăm kịch bản mưa – lũ khác nhau. Các thuật toán học máy được ứng dụng để hiệu chỉnh đầu ra của mô hình toàn cầu và khu vực, từ đó tăng độ chính xác của dự báo mưa, lũ, và cảnh báo sớm lũ quét, sạt lở đất. Ba là, hệ thống thông tin địa lý (GIS) và bản đồ rủi ro thời gian thực cho phép các nhà quản lý nhanh chóng đánh giá nguy cơ, khoanh vùng ảnh hưởng, đưa ra phương án ứng phó kịp thời. Các nền tảng cảnh báo đa kênh – bao gồm SMS, ứng dụng di động, bản đồ tương tác và truyền hình – giúp thông tin đến được tận người dân ở các địa phương

Khi ba tầng công nghệ này được tích hợp, mỗi thông tin thời tiết, mỗi dòng dữ liệu từ cảm biến đều trở thành cơ sở để cảnh báo sớm, chỉ đạo nhanh, giảm thiểu thiệt hại tối đa.

Chuyển đổi số: "Tấm khiên" chống thiên tai
Người dân di chuyển bằng thuyền trên các tuyến đường chính ở trung tâm thành phố Huế. Ảnh: TTXVN
Trong vài năm gần đây, Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng về hệ thống giám sát thiên tai quốc gia, mạng lưới quan trắc của Cục Khí tượng Thủy văn, cùng các nền tảng bản đồ số của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, giúp tích hợp dữ liệu liên ngành, chia sẻ thông tin kịp thời giữa Trung ương và địa phương.

Công nghệ số còn phát huy hiệu quả ở khâu cảnh báo đến người dân. Nhiều địa phương đã triển khai ứng dụng di động, tin nhắn cảnh báo, bản đồ số về vùng ngập, sạt lở. Các ứng dụng như ViRain, hệ thống cảnh báo sớm lũ quét, hay kênh thông tin của Cục Quản lý đê điều và Phòng chống thiên tai đã giúp người dân chủ động trước rủi ro.

Tại Quảng Ninh, Đà Nẵng, TP Huế và một số tỉnh, thành phố khác, các trung tâm điều hành thông minh (IOC) đang kết nối dữ liệu từ cảm biến, camera, bản đồ số để hỗ trợ lãnh đạo địa phương ra quyết định phòng, chống thiên tai.

Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy không ít hạn chế. Dữ liệu về thiên tai vẫn phân tán, thiếu chuẩn hóa, khiến việc chia sẻ và khai thác gặp khó khăn. Nhiều địa phương chưa có hệ thống giám sát đủ mạnh, thiếu nhân lực vận hành công nghệ. Khoảng cách số giữa miền núi và đồng bằng khiến việc tiếp nhận cảnh báo không đồng đều.

Một số mô hình dự báo, dù hiện đại, nhưng chưa được tích hợp vào quy trình chỉ huy thực tế, dẫn đến “đứt gãy” giữa phân tích và hành động. Nhiều nơi vẫn ứng phó thiên tai theo phương pháp truyền thống, thiếu công cụ số hỗ trợ ra quyết định nhanh.

Để chuyển đổi số thực chất, cần đồng thời triển khai cả khoa học dữ liệu, công nghệ và quản trị. Thứ nhất, xây dựng cơ sở dữ liệu thiên tai quốc gia thống nhất, liên thông giữa các ngành: Khí tượng, thủy lợi, giao thông, quốc phòng, y tế. Dữ liệu phải được tiêu chuẩn hóa, cập nhật thời gian thực và sẵn sàng chia sẻ.

Thứ hai, phát triển mạng lưới cảm biến thông minh và ảnh vệ tinh tại các vùng rủi ro cao; ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong phân tích dòng chảy, cảnh báo lũ quét, dự báo mưa cực đoan.

Thứ ba, thiết lập nền tảng cảnh báo đa kênh (SMS, app, truyền thanh, mạng xã hội), đảm bảo mọi tầng lớp nhân dân đều tiếp cận thông tin kịp thời, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa.

Thứ tư, đào tạo đội ngũ cán bộ số trong lĩnh vực thiên tai, giúp họ làm chủ công cụ, phân tích và vận hành hệ thống. Cùng với đó, hoàn thiện hành lang pháp lý và quy trình ứng phó số hóa, bảo đảm thông tin được xử lý thống nhất từ Trung ương đến cơ sở.

Quản trị thiên tai bằng công nghệ số không chỉ giúp nâng cao năng lực dự báo, mà còn hình thành một hệ thống phản ứng nhanh, chính xác và nhân văn. Khi dữ liệu được chia sẻ, công nghệ vận hành thông suốt và người dân được trang bị thông tin sớm, mỗi cộng đồng sẽ trở thành “pháo đài số” vững chắc trước thiên tai.

Chuyển đổi số trong quản trị thiên tai vì thế không chỉ là câu chuyện kỹ thuật, mà là cam kết bảo vệ sự sống và phát triển bền vững. Đây chính là trách nhiệm của Nhà nước, của từng địa phương và cũng là nhiệm vụ khoa học - công nghệ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong thời đại số.

Address

Vân Phú
Viet Tri
19

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Phanxipang2 posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share