Xã Vĩnh Tường, tỉnh Phú Thọ

  • Home
  • Xã Vĩnh Tường, tỉnh Phú Thọ

Xã Vĩnh Tường, tỉnh Phú Thọ Thông tin, truyền thông

Đồng chí Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Nguyễn Đình Bảng làm việc với Chi bộ thôn Quảng CưSáng ngày 14/8, đồng chí Nguyễ...
14/08/2025

Đồng chí Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Nguyễn Đình Bảng làm việc với Chi bộ thôn
Quảng Cư

Sáng ngày 14/8, đồng chí Nguyễn Đình Bảng, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy đã có buổi làm việc với Chi ủy Chi bộ thôn Quảng Cư nhằm nắm bắt tình hình phát triển Kinh tế - Xã hội, ANQP, xây dựng hệ thống chính trị tại cơ sở; Kiểm tra tình hình thực tế theo nội dung kiến nghị của Nhân dân trên địa bàn.

Thôn Quảng Cư có 114 hộ với 432 nhân khẩu, thôn có đường Quốc lộ 2C cũ và mới chạy qua. Thôn có 6,5 ha đất sản xuất nông nghiệp, ruộng đất manh mún nhỏ lẻ; nhân dân trong thôn chủ yếu đi làm tại các công ty.

Dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, Nhân dân trên địa bàn đã tích cực chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đến nay trong thôn không còn hộ nghèo, số hộ đạt gia đình văn hóa hàng năm đạt trên 95,5% trở lên. Năm 2023, thôn đã được công nhận NTM Kiểu mẫu,…

Tại buổi làm việc, Chi ủy Chi bộ nêu một số đề xuất, kiến nghị của Nhân dân, như: quan tâm đến sản xuất nông nghiệp, thủy lợi; đề nghị đặt biển báo, hạn chế tốc độ, gờ giảm tốc để đảm bảo ATGT trên trục đường thôn (tuyến đường kết nối quốc lộ 2C cũ và mới); xem xét đầu tư nâng cấp đường ngõ và hệ thống mương tưới tiêu nội đồng,…

Sau khi đi kiểm tra thực tế, đồng chí Nguyễn Đình Bảng ghi nhận và đánh giá cao tinh thần đoàn kết, nỗ lực vươn lên của cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong thôn. Đồng chí cũng mong muốn Chi bộ, đảng viên và Nhân dân trong thôn luôn phát huy tinh thần đoàn kết, khắc phục khó khăn; tập trung làm tốt công tác chính trị, tư tưởng; thực hiện tốt Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 23/7/2025 của Ban Bí thư; làm tốt công tác tuyên truyền, vận động Nhân dân chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia các phong trào thi đua, giữ gìn vệ sinh môi trường, an ninh trật tự; đẩy mạnh công tác phòng chống thiên tai, chăm sóc lúa vụ mùa và tổng vệ sinh môi trường, phòng chống dịch bệnh,...

Đối với các ý kiến, kiến nghị của Nhân dân, Đảng ủy sẽ tiếp thu đầy đủ, phối hợp cùng UBND xã tổng hợp, xem xét, giải quyết theo thẩm quyền. Đồng thời, sẽ chỉ đạo các bộ phận chuyên môn rà soát, đề xuất hướng xử lý kịp thời những vấn đề thuộc thẩm quyền cấp xã, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người dân.

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP 2-9-1945: CƠ SỞ ĐẦU TIÊN CỦA HIẾN PHÁP NĂM 1946 NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒAGiá trị của Tuyên ngôn ...
13/08/2025

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP 2-9-1945: CƠ SỞ ĐẦU TIÊN CỦA HIẾN PHÁP NĂM 1946 NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA

Giá trị của Tuyên ngôn Độc lập chính là ở chỗ mở ra một kỷ nguyên độc lập dân tộc và dân chủ cộng hòa, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và do đó đã mở ra một kỷ nguyên Hiến pháp cho Việt Nam, định hướng những tư tưởng chiến lược cho việc xác lập mọi bản Hiến pháp của nước ta trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cũng như trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Mối quan hệ mật thiết giữa Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định hiện trạng xã hội nước ta ở giai đoạn lịch sử trước và ngay sau năm 1945 là: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”.

Trước yêu cầu của lịch sử dân tộc, ngay sau khi giành được chính quyền và sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập vào ngày 2-9-1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 34, ngày 20-9-1945, lập Ủy ban Dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, gồm 7 người: Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy, Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng và Đặng Xuân Khu; Hồ Chí Minh làm Trưởng ban.

Trong nhiều phiên họp của Ủy ban Dự thảo Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên và đề nghị đưa quan điểm “lấy dân làm gốc” vào bản Hiến pháp với những điều luật ngang tầm với nền chính trị và pháp luật tiên tiến của thế giới lúc bấy giờ và có những điều còn có giá trị vượt thời gian cho đến hôm nay. Song để có được những giá trị chính trị và pháp lý căn bản đó, cần phải thấy rõ những tư tưởng vĩ đại trong Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo đã được quán triệt sâu sắc vào trong bản Hiến pháp năm 1946. Nhất là tư tưởng: “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập”. Tư tưởng này đã tạo cơ sở cho việc ra đời bản Hiến pháp năm 1946; “Hiến pháp năm 1946 gắn bó hữu cơ với Tuyên ngôn độc lập”; và Tuyên ngôn Độc lập là cơ sở của Hiến pháp, như Bộ trưởng Bộ Tư pháp đầu tiên của nước Việt Nam đã từng nhận định.

Ba cơ sở của Hiến pháp trong Tuyên ngôn Độc lập

Một là, Tuyên ngôn Độc lập khẳng định quyền độc lập dân tộc.

Đây là cơ sở đầu tiên của Hiến pháp. Để khẳng định quyền độc lập của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuất phát từ mọi người đều có quyền “không ai có thể chối cãi được”, đó là quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Từ đó, Người đã suy rộng ra là: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Tiếp đó, Người khẳng định với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập”.

Quyền độc lập dân tộc, quyền căn bản nhất của một quốc gia, sau này đã được Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua ngày 9-11-1946 xác lập và thành văn. Ngay từ những lời đầu tiên, những điều đầu tiên, Hiến pháp đã khẳng định: “Cuộc cách mạng tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hòa”.

Tiếp đó là việc tự xác lập chính thể của riêng mình; đặc biệt là việc khẳng định: “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia”, có Quốc kỳ, Quốc ca và Thủ đô riêng. Cùng với đó, Hiến pháp gồm 7 chương, 70 điều là sự thể hiện toàn bộ tinh thần độc lập và tự quyết dân tộc, toàn bộ thể chế chính trị và luật pháp, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, quyền và nghĩa vụ công dân… tất thảy đều do nhân dân Việt Nam tự định ra và tổ chức thực hiện, mà không được có sự can thiệp hay sự áp đặt của nước ngoài…
Tất cả nội dung và tinh thần của Hiến pháp năm 1946 đã thể hiện sự kế thừa và cụ thể hóa ý chí độc lập dân tộc và hiện thực độc lập dân tộc của nhân dân ta mà Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng định và tuyên bố.

Hai là, Tuyên ngôn Độc lập khẳng định quyền dân chủ và chủ quyền của nhân dân Việt Nam đối với vận mệnh của dân tộc mình

Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng định: “Dân ta đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”. Rõ ràng, chẳng những sự phụ thuộc với chế độ thực dân đã không còn mà những quyền uy của chế độ chuyên chế quân chủ cũng bị nhân dân ta lật nhào. Chủ thể của cuộc cách mạng xã hội mới ngay từ khi xã hội cũ bị lật đổ đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ trong Tuyên ngôn Độc lập là “Dân ta”; “Toàn thể dân tộc Việt Nam”, cụ thể là “nhân dân cả nước ta nổi dậy, giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.

Nói cách khác, chính Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng định quyền dân chủ và chủ quyền của nhân dân Việt Nam đối với vận mệnh của dân tộc mình - tự nhân dân là người thiết lập nên chính thể “Dân chủ Cộng hòa”. Mà dân chủ và chủ quyền quốc gia chính là một trong những điều kiện thiết yếu tiếp theo của Hiến pháp đã được Tuyên ngôn xác lập. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được hình thành ngay sau khi Tuyên ngôn công khai tuyên bố với toàn thế giới.

Thực tiễn đã cho thấy, khi Hiến pháp năm 1946 được công bố thì những điều căn bản nhất về chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân mà Tuyên ngôn định ra đã được thể hiện đầy đủ nhất trong Hiến pháp. Điều thứ 1 ghi nhận: “Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Những quyền cơ bản của công dân đều được ghi rõ: Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá; đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình. Tiếp đó, những điều căn bản nhất khẳng định chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân đã được xác lập, như: Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra; Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia; Nghị viện nhân dân do công dân Việt Nam bầu ra… Như vậy, một lần nữa cho thấy, ý chí chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân mà Tuyên ngôn độc lập khẳng định đã tạo cơ sở, tiền đề cho Hiến pháp thể hiện cụ thể hơn.

Ba là, Tuyên ngôn Độc lập vạch đường hướng thiết lập chính thể dân chủ cộng hòa.

Bản Tuyên ngôn Độc lập đã đanh thép tuyên bố sự cáo chung đối với chế độ cũ: “Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ”; đồng thời “tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hẳn những Hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Còn đối với trật tự xã hội mới, bản Tuyên ngôn độc lập xác lập và khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững tự do độc lập ấy”. Chính thể mà dân ta lập nên là “Chế độ Dân chủ Cộng hòa”.

Như vậy, sau mấy trăm năm dưới sự đè nén của chế độ quân chủ chuyên chế và gần 100 năm dưới sự cương tỏa, áp bức của chế độ thực dân (chế độ cộng hòa đại nghị tư sản Pháp), lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc ta đã có một tuyên ngôn chính thức tuyên bố với thế giới rằng Việt Nam đã trở thành một nhà nước dân chủ cộng hòa. Đây chính là cơ sở cho Hiến pháp sau này thiết lập chính thể dân chủ cộng hòa cho Nhà nước Việt Nam.

Và quả đúng như vậy, ngay từ Lời nói đầu của Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, được Quốc hội thông qua ngày 9-11-1946 đã khẳng định: “Sau tám mươi năm tranh đấu, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân, đồng thời đã gạt bỏ chế độ vua quan”.

Cùng với đó, Điều thứ 1 thuộc Chương I - Chính thể, đã ghi nhận “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền lực trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Hiến pháp ghi nhận một hình thức đại diện để thực hiện quyền lực nhân dân là thông qua Nghị viện nhân dân. Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; do công dân Việt Nam bầu ra; giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài…

Có thể thấy rằng, tất cả tinh thần và lời văn, tất cả những văn bản pháp lý, bằng chứng pháp lý đầu tiên của nước Việt Nam mới đã chứng minh: Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 chính là sự thể hiện sinh động ý chí và quyền tự quyết dân tộc, chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân và con đường đi lên của dân tộc Việt Nam mà Tuyên ngôn độc lập năm 1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo và tuyên bố. Tuyên ngôn độc lập 1945 chính là cơ sở cho Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, giữa tư tưởng và hành động trong một nhân cách vĩ đại, nhân cách thời đại - Nhân cách Hồ Chí Minh, tác giả chính khởi thảo cả hai văn bản nổi tiếng: Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 và Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 càng cho thấy một chỉnh thể thống nhất giữa hai văn bản này. Giá trị của Tuyên ngôn độc lập chính là ở chỗ mở ra một kỷ nguyên độc lập dân tộc và dân chủ cộng hòa, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và do đó đã mở ra một kỷ nguyên Hiến pháp cho Việt Nam, định hướng những tư tưởng chiến lược cho việc xác lập mọi bản Hiến pháp của nước ta trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cũng như trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay.

13/08/2025

Ban Bí thư yêu cầu đổi Thẻ đảng viên trong toàn Đảng

Xã Vĩnh Tường tổ chức Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống Công an Nhân dân và 20 năm Ngày hội Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ...
09/08/2025

Xã Vĩnh Tường tổ chức Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống Công an Nhân dân và 20 năm Ngày hội Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc

Chiều ngày 08/8, Đảng ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ xã Vĩnh Tường tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống Công an Nhân dân Việt Nam (19/8/1945 - 19/8/2025) và 20 năm Ngày hội Toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc (19/8/2005 - 19/8/2025).

Dự lễ kỷ niệm có các đồng chí: Nguyễn Đình Bảng, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy; Nguyễn Phương Nam, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã; các đồng chí Thường trực HĐND, Phó Chủ tịch UBND; các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ xã; các đồng chí nguyên lãnh đạo Công an và cán bộ chiến sĩ công an xã và lực lượng an ninh cơ sở.

Diễn văn ôn lại 80 năm Ngày truyền thống lực lượng Công an Nhân dân Việt Nam (19/8/1945 - 19/8/2025) và 20 năm Ngày hội Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc (19/8/2005 - 19/8/2025) do đồng chí Phó Chủ tịch UBND xã Nguyễn Anh Tuấn trình bày tại lễ kỷ niệm nêu rõ: Ngày 19/8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, cùng với việc đập tan các cơ quan đàn áp của địch và thiết lập chính quyền cách mạng non trẻ, theo chỉ đạo của Đảng, ở các tỉnh phía Bắc đã lập Sở Liêm phóng, ở Trung bộ lập Sở Trinh sát, ở Nam bộ lập Quốc gia Tự vệ Cuộc, tuy tên gọi khác nhau, nhưng đều có chung nhiệm vụ là trấn áp bọn phản cách mạng, giữ gìn an ninh, trật tự, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhân dân. Từ đó đến nay, ngày 19/8 đã trở thành ngày truyền thống của lực lượng Công an Nhân dân Việt Nam.

Trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đã khẳng định vai trò nòng cốt, là “thanh bảo kiếm” bảo vệ Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, lực lượng Công an đã lập nhiều chiến công vẻ vang, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững trật tự an toàn xã hội, mang lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho Nhân dân. Cùng với đó, 20 năm Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đã chứng minh sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, huy động sự tham gia tích cực của mọi tầng lớp Nhân dân vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tại xã Vĩnh Tường, phong trào này đã lan tỏa sâu rộng, với các mô hình tự quản hoạt động hiệu quả, góp phần xây dựng thế trận vững chắc từ cơ sở.

Thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, lực lượng Công an xã đã nhanh chóng ổn định tổ chức, phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể để triển khai hiệu quả các nhiệm vụ chính trị. Đặc biệt, sự kiện thành lập Chi bộ Công an xã Vĩnh Tường ngày 04/7/2025 có ý nghĩa lịch sử quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, tạo nền tảng vững chắc để lãnh đạo lực lượng Công an xã thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới.

Tổ chức Lễ ra quân thực hiện đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm bảo đảm an ninh, trật tự Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và các hoạt động kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám, Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam, 80 năm Ngày truyền thống lực lượng Công an nhân dân. Tổ chức hàng chục ca tuần tra, đảm bảo an ninh, trật tự trong các sự kiện trọng đại như kỳ họp thứ nhất, thứ 2 HĐND xã khóa I và Đại hội đại biểu Đảng bộ xã lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 (diễn ra vào ngày 24 và 25/7/2025).

Thực hiện các kế hoạch tấn công tội phạm, đặc biệt là các hành vi vi phạm về môi trường như xả, đốt rác trái phép, đồng thời đảm bảo an toàn giao thông và phòng cháy chữa cháy. Công tác ứng phó với thiên tai, như cơn bão số 3 (WIPHA), cũng được triển khai kịp thời, bảo vệ an toàn tính mạng và tài sản của Nhân dân. Đặc biệt, tại Trung tâm Phục vụ hành chính công xã, lực lượng Công an đã hỗ trợ người dân xử lý thủ tục. Nhân kỷ niệm 78 năm Ngày Thương binh - Liệt sỹ (27/7/1947 27/7/2025), Công an xã tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho các gia đình thân nhân liệt sỹ Công an nhân dân trên địa bàn xã,...

Phát biểu tại buổi lễ, đồng chí Nguyễn Đình Bảng, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy ghi nhận những thành tích đã đạt được của lực lượng Công an trong thời gian vừa qua. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ đề ra đồng chí Phó Bí thư Thường trực đề nghị Chi bộ Công an xã và lực lượng Công an xã Vĩnh Tường tập trung thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm: Quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, tập trung triển khai đồng bộ các biện pháp góp phần bảo vệ an ninh trật tự. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm, tăng cường nắm tình hình, ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, đặc biệt trong thời điểm diễn ra Đại hội Đảng các cấp.

Đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các sự kiện chính trị, văn hóa, xã hội, đặc biệt là Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9. Đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, Chủ động nắm tình hình, kịp thời tham mưu giải quyết tốt các mâu thuẫn trong nhân dân, không để xảy ra sơ hở, đột xuất, bất ngờ, duy trì thế trận an ninh toàn dân. Phối hợp chặt chẽ với lực lượng Quân đội Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các ban, ngành để phát huy sức mạnh tổng hợp trong công tác đảm bảo an ninh, trật tự. Xây dựng lực lượng Công an trong sạch, vững mạnh theo tinh thần Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/3/2025 của Bộ Chính trị. Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ nghiệp vụ, pháp luật, tin học và ngoại ngữ cho cán bộ, chiến sĩ, ngăn ngừa biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ,....

Nhân dịp này, thay mặt Đảng ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ xã Vĩnh Tường, đồng chí Nguyễn Đình Bảng, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy đã tặng lẵng hoa chúc mừng lực lượng Công an xã Vĩnh Tường.

Cũng tại Lễ kỷ niệm, đồng chí Nguyễn Phương Nam – Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã đã khen thưởng cho các cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua đặc biệt chào mừng kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống Công an Nhân dân Việt Nam (19/8/1945 - 19/8/2025) và 20 năm Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc (19/8/2005 - 19/8/2025).

Trung tâm VH-TT

Đại hội XIV của Đảng: Tư duy mới cho cấu trúc mới.Hội nghị 12 B*H TW thống nhất "tích hợp" 3 dự thảo văn kiện trình Đại ...
08/08/2025

Đại hội XIV của Đảng: Tư duy mới cho cấu trúc mới.

Hội nghị 12 B*H TW thống nhất "tích hợp" 3 dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV sắp tới thành chỉ 1 văn kiện duy nhất: thay vì Ban văn kiện sẽ phải xây dựng 3 dự thảo văn kiện: Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế-xã hội, Báo cáo Tổng kết xây dựng Đảng như truyền thống xưa nay đại hội lần này gộp cả 3 thứ ấy vào làm 1, gọi là Báo cáo chính trị. Đây là điểm mới đột phá : đi thẳng vào vấn đề - tư duy tinh giản và chú trọng hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả ...

Văn kiện tinh gọn thế giúp phổ biến, nghiên cứu, học tập, quán triệt nhanh gọn và thuận lợi; giúp nội dung văn kiện đi vào đời sống cũng dễ dàng và thuận lợi hơn trước.

Để được thống nhất và quyết tâm như thế là một vấn đề khó khăn đã vượt qua, nhưng còn thực hiện được cũng không hề đơn giản khi mà thời gian từ nay đến tiến hành Đại hội không còn nhiều.

Tiểu ban Văn kiện ĐH XIV trình dự thảo văn kiện ngắn gọn, súc tích, đầy đủ nội hàm của các văn kiện trước đó, phải khoa học, chính xác, khách quan… Trung ương kết luận: khó mấy cũng phải làm; biên soạn dự thảo, thảo luận, trưng cầu góp ý... làm ngày làm đêm cho kỳ được...

Đại hội XIV sẽ chỉ có 2 văn kiện là Báo cáo chính trị (tích hợp 3 trong 1) và Báo cáo tổng kết 40 năm Đổi mới. Hai điểm mới tầm vĩ mô khái quát trong xây dựng dự thảo văn kiện trình Đại hội sắp tới.

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM QUA CÁC KỲ ĐẠI HỘI - NHỮNG QUYẾT SÁCH LỊCH SỬHướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của...
08/08/2025

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM QUA CÁC KỲ ĐẠI HỘI - NHỮNG QUYẾT SÁCH LỊCH SỬ

Hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật cho ra mắt công trình có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc: “Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ Đại hội - Những quyết sách lịch sử”, do PGS, TS Vũ Trọng Lâm làm chủ biên.

Cuốn sách là một nỗ lực tổng hợp, phân tích và hệ thống hóa hành trình lịch sử của Đảng thông qua 13 kỳ đại hội, với điểm nhấn là những quyết sách lớn đã định hình vận mệnh dân tộc qua các thời kỳ.

Lịch sử 95 năm của Đảng Cộng sản Việt Nam là lịch sử của những bước ngoặt, của sự lựa chọn đúng đắn và kịp thời trong những thời điểm then chốt. Cuốn sách không chỉ dừng lại ở việc ghi lại các kỳ đại hội, mà đi sâu phân tích lý do ra đời, bối cảnh lịch sử và tầm ảnh hưởng của từng quyết sách lớn tại mỗi kỳ đại hội.

Từ việc lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chính quyền non trẻ, tổ chức kháng chiến toàn dân, thống nhất đất nước đến công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế và phát triển đất nước bền vững trong thế kỷ XXI, tất cả đều được trình bày một cách nhất quán, logic và súc tích.

Tác phẩm thể hiện rõ rằng, mỗi quyết sách lớn của Đảng không phải là sản phẩm ngẫu nhiên, mà là kết quả của một quá trình vận động nội tại, kết tinh trí tuệ tập thể và bản lĩnh chính trị vững vàng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trước những thử thách lịch sử. Quyết định phát động Toàn quốc kháng chiến năm 1946, chủ trương đổi mới năm 1986 hay xác lập mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2045 đều là những ví dụ điển hình của tư duy chính trị có tầm nhìn chiến lược.

Bên cạnh việc làm nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng, cuốn sách cũng khẳng định tầm quan trọng của việc gắn lý luận với thực tiễn, xây dựng Đảng gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị. Đây chính là điểm nhấn tại Đại hội XIII khi Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ then chốt là tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh để đáp ứng những yêu cầu phát triển mới. Quan điểm này được cuốn sách thể hiện rõ qua việc phân tích những bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo xuyên suốt từ Đại hội VI đến Đại hội XIII, đặc biệt là những bài học về công tác cán bộ, kiểm soát quyền lực và phát huy dân chủ.

Không chỉ dành cho cán bộ, đảng viên, cuốn sách còn là tài liệu hữu ích cho công tác giảng dạy, nghiên cứu chính trị và giáo dục truyền thống cách mạng trong các nhà trường, học viện, tổ chức chính trị-xã hội. Với lối viết mạch lạc, ngôn ngữ chuẩn xác, cô đọng và cách tổ chức nội dung khoa học, tác phẩm giúp người đọc dễ dàng tiếp cận những nội dung vốn được cho là khô khan, khó tiếp cận của tư liệu chính trị.

Từ một góc nhìn rộng hơn, cuốn sách còn là lời nhắc nhở về vai trò then chốt của tầm nhìn chiến lược, năng lực đổi mới và sự trung thành với lợi ích của nhân dân, đó là ba yếu tố đã làm nên một Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng lớn mạnh, luôn tự làm mới mình để tiếp tục sứ mệnh lịch sử lãnh đạo đất nước phát triển phồn vinh, thịnh vượng.

Trong thời đại chuyển đổi số, toàn cầu hóa, nhiều giá trị truyền thống bị xói mòn, thì sự trở lại với gốc rễ lịch sử, với những quyết sách từng định hình quốc gia chính là cách để củng cố niềm tin, nuôi dưỡng khát vọng và vững bước trên con đường phát triển./.

THẮNG LỢI CỦA SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘCCách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công do Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Min...
08/08/2025

THẮNG LỢI CỦA SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công do Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo đã thực hiện tốt đường lối đoàn kết toàn dân tộc, liên hiệp mọi lực lượng yêu nước, không phân biệt tôn giáo, xu hướng đảng phái chính trị, giai cấp, đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Dân tộc thống nhất cùng đứng lên đánh đuổi đế quốc Pháp và phát xít Nhật, lật đổ ách thống trị của đế quốc thực dân gần 100 năm, giành chính quyền về tay nhân dân, giành độc lập cho Tổ quốc.

Đây chính là thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, biết chớp thời cơ, vùng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Thế nhưng, đây đó vẫn có một số người cố tình xuyên tạc, bóp méo tính chất và ý nghĩa về vấn đề lịch sử này.

Do không nhận thức được vai trò, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhất tề vùng lên, triệu người như một dưới sự lãnh đạo của Đảng mà một số người cho rằng, đó là hành động “bột phát, vô thức” của người dân phẫn uất do bị áp bức, bóc lột đứng lên giành chính quyền. Khi nhìn nhận về vai trò của các tầng lớp, các giai cấp trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, họ cho rằng, giai cấp nông dân Việt Nam đã nhận thức được “mệnh trời” và vai trò của mình. Từ cái nhìn hẹp hòi, thiển cận đó, theo cách nói của họ, vai trò nổi dậy của giai cấp nông dân Việt Nam mới là quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng.

Giọng điệu trên cũng không nằm ngoài mục tiêu phủ nhận giá trị lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, phủ nhận sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng họ đã lầm. Cách nhìn nhận phi lý, phản khoa học, những luận điệu sai trái của họ không thể đánh lừa được nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới và những người Việt Nam chân chính.

Thực tiễn đã chứng minh, dù cách thể hiện trong từng giai đoạn có khác nhau nhưng ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định rất rõ nhiệm vụ cách mạng là đánh đổ đế quốc thực dân và phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, đưa người dân từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước... Chính nhiệm vụ chung đó của cách mạng là sợi dây kết nối cả dân tộc Việt Nam đoàn kết lại với nhau. Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn nhất quán và đặt nội dung ấy vào nhiệm vụ trung tâm của cách mạng. Không thể phủ nhận rằng, từ năm 1930 đến 1945, Việt Minh và Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã bám sát tình hình thế giới và trong nước, có rất nhiều chủ trương, đường lối, giải pháp cách mạng phù hợp để lãnh đạo toàn dân kết thành một khối đứng lên đấu tranh giành thắng lợi.

Đặc biệt, trước những chuyển biến mạnh mẽ của tình hình trong nước và những biến động to lớn, mau lẹ của tình hình thế giới, tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Đảng họp dưới sự chủ trì của lãnh tụ Hồ Chí Minh để quyết định sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Nghị quyết hội nghị đã chỉ rõ: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

Để thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ đó, vấn đề đặt ra là phải tập hợp, đoàn kết được mọi lực lượng, mọi giai tầng trong xã hội vào một Mặt trận Dân tộc thống nhất. Để giải quyết vấn đề này, ngày 19-5-1941, Mặt trận Việt Minh đã ra đời. Trong tuyên bố của mình, Việt Minh đã chỉ rõ: “Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”. Bằng những chủ trương đúng đắn, chỉ trong thời gian ngắn dưới vai trò quy tụ, tập hợp của Mặt trận Việt Minh, mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội đã phát huy cao độ tinh thần cố kết cộng đồng, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh anh dũng, quật cường của toàn dân tộc để góp phần vào thành công của cuộc cách mạng.

Mặt khác, đại đoàn kết đã trở thành nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam được kiểm chứng qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. “Nước mất thì nhà tan”, mỗi người dân Việt Nam luôn ý thức sâu sắc điều này và tinh thần ấy luôn thường trực trong mỗi người con đất Việt.

Từ thực tiễn lịch sử, nhân dân Việt Nam cũng từng tổng kết, đúc rút, chỉ có không ngừng xây dựng, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thì mới tập hợp phát huy được sức mạnh nội lực của đất nước, mới xây dựng, bảo vệ nước nhà được hòa bình, thịnh vượng. Chính trên nền tảng ấy mà nhân dân ta đã không cam chịu thân phận, kiếp đời nô lệ, một lòng đi theo Đảng, triệu người như một quyết vùng lên giành độc lập, tự do cho dân tộc, giành địa vị làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh cho mình.

Có thể khẳng định, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là biểu tượng tuyệt vời của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Cùng với đó cần phải khẳng định rõ rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra và thành công gắn với vai trò lãnh đạo của Việt Minh, của Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Chúng ta không phủ nhận vai trò to lớn của quần chúng nhân dân, trong đó có giai cấp nông dân. Nhưng cần phải nhớ rằng, sự nhất tề vùng lên của quần chúng nhân dân nói chung, của giai cấp nông dân nói riêng không phải là “vô thức, bột phát” vì “phẫn uất” như một số người từng xuyên tạc, mà đó là sự vùng lên có giác ngộ, có tổ chức, theo đường hướng lãnh đạo của Việt Minh, của Đảng ta.

Như vậy, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với vai trò trung tâm của Mặt trận Việt Minh đã góp phần quyết định vào thành công của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Thành quả, giá trị của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là rất rõ ràng. 80 năm nhìn lại, chúng ta càng hiểu hơn về sự kiện vĩ đại nhất của Việt Nam trong thế kỷ XX, càng thấy rõ hơn giá trị của độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất. Thế nhưng, đâu đó vẫn có những quan điểm sai trái, những cái nhìn thiển cận, những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ lịch sử, phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Tám, phủ nhận vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, vai trò của Mặt trận Việt Minh, của Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Chúng ta phải có trách nhiệm kiên quyết đấu tranh phản bác để loại bỏ nó ra khỏi đời sống xã hội.

Thường trực Đảng uỷ dự sinh hoạt chi bộ tháng 8/2025Trong 2 ngày 04-05/8/2025, các đồng chí Thường trực đi dự sinh hoạt ...
05/08/2025

Thường trực Đảng uỷ dự sinh hoạt chi bộ tháng 8/2025

Trong 2 ngày 04-05/8/2025, các đồng chí Thường trực đi dự sinh hoạt chi bộ tại các chi bộ trực thuộc: đồng chí Hà Văn Quyết, TUV, Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch HĐND xã dự sinh hoạt chi bộ tại chi bộ thôn Xuân Lai; đồng chí Nguyễn Đình Bảng, Phó Bí thư Thường trực Đảng uỷ dự sinh hoạt chi bộ tại Chi bộ thôn Nhật Tân; đồng chí Nguyễn Phương Nam, Phó Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch UBND xã dự sinh hoạt chi bộ tại thôn Phong Doanh.

Tại buổi sinh hoạt, các Chi bộ đã trình bày Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ tháng 7, triển khai các nhiệm vụ trọng tâm tháng 8. Trong tháng qua, Chi bộ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo hệ thống chính trị ở cơ sở phát huy hiệu quả trong công tác tuyên truyền về mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, tuyên truyền về Đại hội Đảng bộ xã Vĩnh Tường lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Công tác đảm bảo an ninh trật tự và vệ sinh môi trường được duy trì, lực lượng an ninh cơ sở tổ chức tuần tra thường xuyên, không để xảy ra vụ việc bất ngờ,… Các Chi bộ đã quán triệt, phổ biến Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 23/7/2025 của Ban Bí thư về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong giai đoạn mới.

Thảo luận tại buổi sinh hoạt, các đảng viên tập trung thảo luận sôi nổi các nội dung liên quan đến công tác VSMT, sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, tu sửa nhà văn hóa thôn, xây dựng hệ thống cống rãnh tiêu thoát nước thải, việc hoạt động của HTX nông nghiệp,…

Phát biểu tại buổi sinh hoạt, các đồng chí Thường trực Đảng ủy đã thông tin một số nội dung điều hành và hoạt động của xã trong tháng 7; biểu dương tinh thần trách nhiệm, đoàn kết và kết quả mà Chi bộ đã đạt được, đồng thời lắng nghe, trao đổi làm rõ ý kiến, kiến nghị của các đồng chí đảng viên chi bộ; đề nghị các Chi bộ và mỗi cán bộ, đảng viên tiếp tục phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu; thực hiện hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên; tuyên truyền, vận động Nhân dân chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; tích cực tham gia các phong trào thi đua, giữ gìn vệ sinh môi trường, an ninh trật tự; đẩy mạnh công tác phòng chống thiên tai, chăm sóc lúa vụ mùa và tổng vệ sinh môi trường, phòng chống dịch bệnh,...

Address


Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Xã Vĩnh Tường, tỉnh Phú Thọ posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Shortcuts

  • Address
  • Alerts
  • Claim ownership or report listing
  • Want your business to be the top-listed Media Company?

Share