05/04/2020
I- Khái niệm lũ quét
Lũ quét được hình thành khi một khối lượng nước khổng lồ được mang đến bởi những cơn mưa dông, bão hay bão nhiệt đới hoặc cũng có thể do một lượng lớn băng tuyết trên núi tan chảy một cách đột ngột. Nó cũng có thể được hình thành khi đập bị vỡ hay xả lũ đập một cách vội vàng với khối lượng xả hàng ngàn mét khối/giây (số lượng để tạo thành lũ quét còn tùy vào độ rộng và độ dốc của con sông bên dưới đập).
II- Đặc tính lũ quét
Vì lũ quét là hiện tượng di chuyển của một khối nước khổng lồ từ cao xuống thấp với tốc độ ngày càng tăng cũng như sức tàn phá ngày càng lớn tùy thuộc vào độ dài, dốc cũng như sự "trơn láng" của quãng đường mà nó đi (những nơi như núi và đồi không có cây lũ quét sẽ xuất hiện thường xuyên do không có gì để chặn dòng nước), nó sẽ gây ra thiệt hại cực kỳ nghiêm trọng cho những nơi mà nó đi qua. Với tốc độ cao và khối lượng lớn nó có thể cuốn trôi nhà cửa, cây cối... gần như mọi thứ trên đường đi. Hiện tượng lũ quét thường thấy ở những nơi gần nơi có độ dốc như dưới chân đồi núi, hay ở trong thung lũng. Mặc dù mạnh và sức tàn phá cao nhưng lũ quét thường không xảy ra lâu hơn sáu tiếng.
Khi đường thoát nước của lũ quét bị chặn (do đê hay các công trình lớn dù nó không bít hết dòng chảy) nên khối lượng nước khổng lồ với tốc độ cao bị dội ngược lại thành một vòng trước khi có thể chảy tiếp cũng làm cho mực nước dâng nhanh hơn và nguy hiểm hơn. Do khối lượng nước bị dội lại sẽ va vào khối lượng nước đang đổ về gây ra nhiều xoáy nước nhấn chìm mọi thứ, các xoáy nước này cũng có thể hình thành dưới mặt nước rút mọi thứ xung quanh nó vào nên ngay cả khi có áo phao người bị rơi vào loại lũ này vẫn có thể bị nhấn chìm (dễ nhìn thấy nhất hiện tượng này khi lũ quét tràn vào thành phố hay khu dân cư xây sát nhau) gây rất nhiều khó khăn cho việc cứu hộ.
Đi cùng lũ quét có thể có nhiều trận lở đất, trượt bùn cùng những thứ mà nó cuốn theo khiến cho lũ quét càng trở nên nguy hiểm khi mà khối lượng di chuyển không chỉ có nước.
Lũ quét có thể xuất hiện trên diện rộng nhưng diện tích lũ quét càng rộng thì mức tàn phá sẽ càng kém do khối lượng nước bị phân tỏa ra chứ không tập trung gây thiệt hại.
Lũ quét không xuất hiện ở khu vực đồng bằng hay có sông lớn. Vì ở khu vực đồng bằng không có độ dốc cho nước chảy hoặc rất ít khiến cho nước từ cao đổ xuống bị mất tốc độ chỉ có thể gây ngập chứ không cuốn được bất cứ thứ gì. Còn ở khu vực có sông lớn cũng giống như ở đồng bằng con sông sẽ nhận và điều tiết lượng nước này nếu quá nhiều thì sông sẽ tràn bờ gây ra những đợt lũ thông thường chứ không tạo thành lũ quét vì nước di chuyển với tốc độ chậm hơn nhiều so với lũ quét.
III- Đặc điểm chính của lũ quét:
- Chứa lượng vật rắn rất lớn: Lũ quét thường có tỷ lệ vật chất rắn rất lớn, thường chiếm 3-10%, thậm chí trên 10% và trở thành dạng lũ bùn đá, rất hay xảy ra ở nước ta.
- Lũ quét có sức tàn phá rất lớn, gây thiệt hại lớn về người và tài sản. Vì vậy, động lực của nó rất lớn, sức tàn phá lớn xuất hiện trên lưu vực có sườn dốc cao, độ dốc lớn và hình dạng thích hợp cho mạng sông suối tập trung nước nhanh. Lũ xảy ra trong thời gian ngắn (thường vào đêm và sáng), có tốc độ lớn, quét mọi thứ trên đường đi.
- Lũ quét nghẽn dòng: do vỡ các đập tạm thời do cây cối, rác, bùn cát và các vật thể khác làm nghẽn dòng sông, suối do mưa lớn gây ra.
Lũ quét nghẽn dòng là loại hình lũ miền núi thường phát sinh từ các khu vực có nhiều trượt lở ven sông, suối. Đó là các khu vực đang có biến dạng mạnh, sông suối đào xẻ lòng dữ dội, mặt cắt hẹp, sườn núi rất dốc. Do mưa lớn kéo dài, dòng suối đột nhiên bị tắc nghẽn, nước sông suối dâng cao ngập một vùng rộng lớn thường là các vùng lòng chảo, những thung lũng. Khi dòng lũ tích tụ đến mức đập chắn bị mất ổn định và vỡ, lượng nước tích lại trong vùng lòng chảo khi bị nghẽn dòng được giải phóng đột ngột tạo thành sóng lũ lớn cho phía hạ lưu.
- Lũ bùn đá là dòng lũ đậm đặc bùn đá, cuộn chảy với động năng lớn. Lượng bùn đá trong dòng lũ chủ yếu do sạt lở núi cung cấp. Một phần bùn đá được lấy từ vật liệu có sẵn trong lòng suối. Đây là loại lũ quét đặc biệt nguy hiểm, thường gây nhiều thương vong lớn.
- Lũ quét vỡ đập, đê, hồ chứa: là lũ do vỡ hồ, đập, đê hoặc công trình thuỷ điện, thuỷ lới gây ra. Lũ quét dạng này có sức tàn phá rất lớn trong khu vực rộng.
- Lũ quét hỗn hợp là tổ hợp bất lợi giữa nhiều dạng thiên tai như sạt lở đất, lũ quét sườn dốc, lũ bùn đá. Đây là dạng lũ thường xảy ra nhiều ở vùng núi nước ta và chúng có sức tàn phá mạnh, trong khu vực rộng.
IV- Lũ quét: nhận diện và nguyên nhân
1- Nhận diện:
Khi phát sinh những trận mưa rào có lưu lượng lớn, kèm theo gió bão có thể xảy ra lũ quét, lũ bùn đá. Lũ quét, lũ bùn đá xảy ra đột ngột và nhanh chóng có tốc độ chảy lớn ở các thung lũng sông, các hẻm suối sườn núi tạo các dòng chảy tạm thời, thường chỉ trong 3 đến 5 giờ, kèm theo là những đợt sóng của dòng chảy do dòng bị tắc nghẽn, nhưng sau đó lại được khai thông do sức ép của khối vật chất mang theo mỗi lúc một nhiều, do đó thời gian có thể lại tăng lên tới 8-12 giờ.
Các dạng lũ quét chính là: lũ quét sườn, lũ quét nghẽn dòng tự nhiên, lũ quét nghẽn dòng đột biến, lũ quét vỡ dòng tự nhiên, lũ quét vỡ dòng nhân tạo, lũ bùn đá, lũ quét hỗn hợp.
Về tổng quan, một lưu vực lũ được chia thành 3 vùng:
Vùng sinh lũ: Là vùng ở thượng lưu nơi tập trung dòng chảy từ mưa được hình thành từ các sườn dốc.
Vùng ảnh hưởng: Khu vực trung lưu có cao độ thấp hơn, thường ở các chân núi. Dòng chảy lũ đã được tập trung nên đủ mạnh để cuốn theo đất, đá, cây cối,.. để đổ vào sông suối.
Vùng có lũ quét: Khu vực hạ lưu các sông, suối liền kề cửa sông. Dòng chảy có năng lượng rất lớn do đã được tập hợp các dòng chảy lũ, bùn đá thành phần từ các tiểu lưu vực.
Do vậy, dòng chảy lũ có khả năng tàn phá rất mạnh những chướng ngại trên đường đi như nhà cửa, công trình thủy lợi, đường giao thông. Thường ở khu vực này là nơi tập trung khu dân cư nên thiệt hại ở khu vực này sẽ rất lớn và trở thành thảm họa khi xảy ra lũ quét cường độ lớn.
2- Nguyên nhân:
Ngoài những yếu tố tự nhiên, theo các nhà khoa học, những hoạt động kinh tế chính của con người ở vùng miền núi cũng dẫn đến việc tăng cường lũ quét, lũ bùn đá.
Đó là việc làm mất rừng đầu nguồn; khai thác khoáng sản bừa bãi, thiếu quy hoạch; xây dựng các công trình thủy lợi, thủy điện, giao thông... làm cản trở và thu hẹp dòng chảy của các hệ thống.
Đó còn là do tập quán và điều kiện sản xuất, bà con các dân tộc thường lựa chọn sống gần nguồn nước, ven bờ sông suối, hay trên các sườn núi cao... Đây là những nơi thường hứng chịu nhiều hơn về tần suất xảy ra lũ quét, sạt lở.
Ngoài ra còn là do công tác phòng, chống lũ sau bão vẫn chưa được chú trọng nhiều bằng phòng, chống trước và trong bão.
V- Các khu vực có nguy cơ cao xảy ra lũ quét, lũ bùn đá
Theo các nhà khoa học, các tỉnh miền núi phía Bắc đã xác định các khu vực có nguy cơ cao xảy ra lũ quét, lũ bùn đá, bao gồm:
- Các sông thuộc lưu vực sông Nậm Lay ở Mường Chà, Điện Biên; Thượng nguồn sông Nậm Pô, huyện Mường Lay, Điện Biên; lưu vực các sông Nậm Lúa, Nậm Rõm, Nậm Nưa thuộc 2 huyện Điện Biên và Điện Biên Đông ở tỉnh Điện Biên; vùng thượng nguồn sông Mã ở tỉnh Điện Biên; Thượng nguồn các nhánh sông tả ngạn sông Đà ở Mường Tè, Lai Châu.
- Các nhánh sông hữu ngạn sông Hồng ở các vùng Bát Xát, Sa Pa, thị xã Cam Đường, thành phố Lào Cai thuộc tỉnh Lào Cai; thượng nguồn Ngòi Hít, Ngòi Thia thuộc các huyện Mù Căng Chải, Văn Yên, Trạm Tấu, Văn Chấn ở tỉnh Yên Bái.
Các nhánh tả ngạn sông Đà ở các huyện Mù Căng Chải, Trạm Tấu (Yên Bái) và Mường La (tỉnh Sơn La); các nhánh hữu ngạn sông Đà ở thị xã Sơn La, huyện Mường La, thuộc tỉnh Sơn La.
- Các nhánh tả và hữu ngạn sông Mã ở huyện Sông Mã, Sơn La; Các nhánh thượng nguồn sông Gâm thuộc huyện Yên Minh, thượng nguồn các nhánh ở hữu ngạn sông Lô ở 2 huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần, Hà Giang.
- Các sông nhánh thượng nguồn sông Cầu và các sông thuộc lưu vực sông Ngân Sơn, Na Rì, Nà Thác ở thị xã Bắc Kạn, 3 huyện Chợ Đồn, Bạch Thông, Na Rì ở tỉnh Bắc Kạn; thượng nguồn các nhánh sông chảy vào sông Minh Giang (Trung Quốc) thuộc huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.
VI- Các biện pháp giảm thiểu tác hại của lũ quét, lũ bùn đá
- Xây dựng các hồ chứa, khu trữ lũ và chậm lũ.
- Cải tạo lòng dẫn để tăng khả năng thoát lũ.
- Phân dòng lũ, giảm tác động của lũ vào khu vực cần bảo vệ.
Tùy theo điều kiện tự nhiên và sự phát triển kinh tế xã hội mà lựa chọn các biện pháp phòng tránh cho từng khu vực. Các biện pháp phải được xây dựng cho từng làng, bản, xã, huyện, tỉnh.
- Áp dụng các các biện pháp hợp lý trong sản xuất, nông, lâm nghiệp để giữ nước, giữ đất, chống xói mòn đất và cạn kiệt nguồn nước. Đặc biệt, chú ý biện pháp trồng rừng và bảo vệ rừng. Quy hoạch cơ sở hạ tầng hợp lý, đặc biệt là bố trí các khu dân cư tránh xa các nơi có nguy cơ lũ quét cao.
Hướng dẫn nhân dân phòng tránh lũ quét, cách nhận biết và phòng tránh lũ quét sử dụng thiết bị cảnh báo lũ quét tại chỗ và công tác bảo vệ, bảo quản hệ thống thiết bị cảnh báo.
- Trong các vùng có nguy cơ xảy ra lũ quét, lũ bùn đá cần có phương án di dân đến nơi định cư mới.