Lightstalker Linguistic Lair

  • Home
  • Lightstalker Linguistic Lair

Lightstalker Linguistic Lair Contact information, map and directions, contact form, opening hours, services, ratings, photos, videos and announcements from Lightstalker Linguistic Lair, Digital creator, .

Aspiring linguist

Also love talking about translation/translation theory

Mayor of Yapsville, The Yappening, Sir Yappalot, fluent in Yapanese, The Yapatron 3000

Personal account: https://www.facebook.com/daviezlightstalker/

[“Trực giác người bản xứ” của Noam Chomsky và sức mạnh của ngôn ngữ học khối liệu (corpus linguistics)]Mọi ngừi ấn vào t...
23/10/2024

[“Trực giác người bản xứ” của Noam Chomsky và sức mạnh của ngôn ngữ học khối liệu (corpus linguistics)]

Mọi ngừi ấn vào từng ảnh để xem nha 🥹 Bài hơi dài tí nên mình tách ra với thêm ảnh minh họa cho nó đỡ chán.

[Tại sao dịch game khó thế?]Từ lúc lập blog đến giờ mình nhận ra là mình chưa viết tí gì về Dịch thuật dù học dịch ở HAN...
09/06/2024

[Tại sao dịch game khó thế?]

Từ lúc lập blog đến giờ mình nhận ra là mình chưa viết tí gì về Dịch thuật dù học dịch ở HANU và thích tìm hiểu về dịch thuật nói chung ;D nên hôm nay lên bài khác 1 tí nha cả nhà. Một tí thông tin bên lề là hồi xưa khi viết khóa luận thì mình có lựa chọn viết về dịch thuật hoặc ngôn ngữ học. Mình đã chọn dịch thuật (cụ thể hơn là viết về dịch game vì t cũng thích chơi game) vì nghĩ là sau này học cao lên về NNH thì đầy cơ hội viết về nó nhưng chỉ có lúc này mới có động lực và cơ hội viết khóa luận về dịch thôi. Tất cả những gì trong bài này là bê từ cái khóa luận tốt nghiệp dài 100 trang ở Khoa Anh HANU =)) - tới giờ vẫn là cái công trình mình tâm đắc nhất trên con đường học thuật fr

Trước khi bắt đầu thì một cái lưu ý nhỏ là thực ra mình nên dùng từ chuẩn hơn là “bản địa hóa” (localization) nhưng trong bài này dùng tạm “dịch” (translation) như một từ đơn giản và dễ hiểu hơn nhé. Có ai thắc mắc về khái niệm thì mình xin nợ sang một bài khác để giải thích ạ T.T

1. Thể loại

O’Hagan và Mangiron (2013) cho rằng “thể loại game một phần quyết định quy ước văn bản” cũng như yêu cầu bộ kĩ năng khác nhau từ người dịch. Cách phân loại rõ nhất có lẽ là mô hình “Thực tế - Viễn tưởng” của Dietz (2006) khi đặt các thể loại game lên một trục với một đầu là game thực tế (realistic games, đa phần là các game giả lập lịch sử, chiến tranh, thể thao) và đầu kia là game viễn tưởng (fantastic games, bao gồm các thể loại như khoa học viễn tưởng).

Game thực tế thường nghiêng về việc tái tạo lại thế giới một cách hoàn chỉnh nhưng vẫn cho người chơi cảm giác nắm quyền điều khiển. Những game thuộc nhóm này thường có nhiều thuật ngữ và từ chuyên ngành. Người dịch vì thế cần có vốn hiểu biết và khả năng nghiên cứu, tìm tòi để giữ được cảm giác thế giới được giả lập hoàn chỉnh. Trong AH-64 Longbow, một game giả lập chiến đấu máy bay, cụm “Winchester ammo” (sắp hết đạn) đã bị dịch sai do dịch giả chưa hiểu được mật mã của hàng không quân sự. Ngược lại thì các game viễn tưởng lại yêu cầu sự sáng tạo cao vì những khái niệm trong game không hề tồn tại ngoài đời.

Một câu chuyện nhỏ vui vui liên quan tới thể loại game là ngày xưa nhóm làm game 688(I) Hunter/Killer, một game giả lập tàu ngầm của Mỹ, đã bị Hải quân Mỹ yêu cầu phải bỏ một vài yếu tố đi do quá giống với thông tin tuyệt mật của quân đội Mỹ :))

2. Realia và irrealia

Cách đơn giản nhất để định nghĩa realia là tất cả những gì liên kết với thế giới thực ngoài đời, những reference tới con người (tên riêng), văn hóa, địa danh có thực đều là realia; và ngược lại những từ thể hiện sự liên kết với thế giới ảo của riêng game (như khái niệm không có thực) là irrealia. Về cơ bản thì realia và irrealia tương ứng với hai thể loại game như ở trên, game càng thực tế thì càng nhiều realia và ngược lại. Việc phân biệt cái gì là realia hay irrealia có thể có ích cho việc dịch vì những chiến thuật dịch khác nhau sẽ phù hợp với một trong hai nhóm trên.

Tuy nhiên có một ví dụ mình rất thích dùng để miêu tả một trường hợp mà ranh giới giữa realia và irrealia cũng không rõ ràng mấy. Trong “Guild Wars 2” có một class tên là Scrapper, nếu kiểm tra nghĩa của scrapper trong từ điển thì cả 2 nghĩa đều rất hợp với background nhân vật trong game: là người thu thập/xử lý sắt vụn (scrap) và đồng thời với nét nghĩa thứ 2 là một chiến binh hung hăng. Điều này khiến mình nghĩ scrapper là một realia, một liên hệ tới thế giới thực thế nhưng khi nhìn vào câu chuyện trong nó thì scrapper lại mang thêm một nét nghĩa rất khác chỉ có trong thế giới ảo của game.

Các scrappers trong Guild Wars 2 từng bị coi thường và hạ nhục vì làm một công việc thấp kém là tái chế sắt vụn; và thậm chí “scrapper” còn trở thành một slur để sỉ nhục những người không phải scrapper. Thế nhưng sau này scrappers đã chuyển sang chế tạo máy móc để chiến đấu và biến công việc của mình thành vũ khí ra trận rồi từ đó được kính trọng và nể phục. Chính cách mà game miêu tả những nhân vật này cũng thay đổi theo thời gian, từ “không đáng tin cậy, điên rồ, không đáng làm chiến sĩ” tới “thiên tài, tháo vát, bậc thầy chế tạo”. Vậy thì cụm này là realia hay irrealia, và dịch nó như nào?

Các phiên bản của Guild Wars 2 cũng không thống nhất được cách dịch. Tiếng Đức dịch từ này thành “Schrotter” (schrott là sắt vụn và họ thêm phụ tố -er), hình như tiếng Tây Ban Nha dịch word-by-word thành Chatarrero, nhưng dở nhất là tiếng Pháp dịch thành “Mécatronicien” (kỹ sư cơ điện tử? - mất hoàn toàn sắc thái nghĩa). Các ngôn ngữ cùng hệ còn dễ dịch các từ như này hơn chứ mang về tiếng Việt thực sự rất khó dịch “Scrapper” để vừa giữ được mối liên hệ với đời thực vừa thể hiện được sắc thái nghĩa riêng biệt trong game.

Cuốn “The Translation of Realia and Irrealia in Game Localization” (2022) của Sylvia Pettini viết về chủ đề này rất chi tiết và thú vị, mọi người có thể tìm và đọc nếu có hứng thú nhé ạ.

3. Văn hóa

Thôi cái này khỏi cần giới thiệu ha, ai cũng biết văn hóa và dịch thuật có một mối quan hệ khá phức tạp rồi. Ở đây mình chỉ đưa ra hai ví dụ mà mình thấy khá hay thôi:

Trong Final Fantasy X bản tiếng Nhật, khi chào tạm biệt crush của mình là Tidus thì Yuna đã nói “ありがとう” (cảm ơn) và cúi đầu, nhưng bản tiếng Anh của game đã dịch cụm này thành “I love you”. Mangiron (2004) cho rằng trong lời cảm ơn đặt trong văn hóa Nhật là đủ để truyền tải một cảm xúc sâu hơn ẩn dưới bề mặt câu chữ, nhưng với khán giả Mỹ thì lời cảm ơn lại bị coi là kì lạ nên người dịch đã chọn cách “thẳng thắn” hơn để bày tỏ cảm xúc của Yuna.

Một ví dụ nữa mình để ý khi chơi Slay the Spire là cách MercTrans dịch hiệu ứng “Divinity” sang tiếng Việt. Divinity có nguồn gốc từ “divus” (thuộc về chúa) và nếu kiểm tra những từ hay đi cùng nó bằng một công cụ khối liệu thì ta sẽ thấy “Divinity” thường được dùng trong bối cảnh Thiên chúa giáo. MercTrans chọn dịch từ này thành “Thế Phật” để hợp với việc Phật giáo là tôn giáo chính tại Việt Nam, một điều mình ưng vô cùng. Slay the Spire nói chung có một bản dịch tiếng Việt vô cùng tuyệt vời và đây chỉ là một ví dụ nhỏ thôi :D

4. Thiếu chỗ trong UI

Vấn đề này thường thấy nhất ở các game được phát triển bằng các ngôn ngữ với hệ chữ cái không phải Latin như Nhật hay Trung, khi mà chỉ một vài kí tự có thể diễn đạt được một ý tưởng rất dài.

O’Hagan và Mangiron (2013) lấy tên của hai vũ khí từ Final Fantasy X để mô tả vấn đề này. “花鳥風月” dịch word-by-word ra sẽ thành “hoa, chim, gió, trăng” với nét nghĩa là “vẻ đẹp thiên nhiên” còn “雪月花” là “tuyết, trăng, hoa” với vét nghĩa “vẻ đẹp bốn mùa”. Khi phải dịch tên hai vũ khí này thì Alexander O. Smith, dịch giả của Final Fantasy X, phải đảm bảo tên tiếng Anh chỉ chứa tối đa 18 ký tự để vừa với UI của game. Smith cân nhắc yếu tố UI cũng như hiệu ứng vũ khí và yếu tố hài hước để sau đó dịch tên hai vũ khí này lần lượt thành “Painkiller” (do vũ khí cho người chơi gấp 3 kinh nghiệm và “giảm thiểu nỗi đau cày level”) và “Divider” (gấp đôi kinh nghiệm, “chia đôi” quá trình cày level).

Một ví dụ nữa nếu ai chơi Genshin Impact chắc sẽ biết là cái artifact 平息鸣雷的尊者 trong bản gốc mang nghĩa "the reverent who pacifies the roaring thunder" và 渡过烈火的贤人 "the wise who treads the searing flames" được dịch cực kì ngắn gọn lại thành "Thundersoother" và "Lavawalker". Với Genshin thì mình nghĩ là họ không thiếu chỗ đâu vì cũng có những artifact tên dài ngoằng như "Nighttime Whispers in the Echoing Woods", nhưng có một cái tên ngắn gọn và xúc tích như trên luôn là một điểm cộng cho người chơi.

Vẫn còn nhiều vấn đề như dịch yếu tố hài hước hay tránh những rủi ro về pháp lý tại các thị trường nước ngoài, nhưng tạm thế đã nhé tại người viết lười quá T.T

Reference

Dietz, F. (2006). Issues in localizing computer games. In K. J. Dunne, Perspectives on localization (pp. 121–134). John Benjamins Publishing.

Mangiron, C. (2004). Localizing Final Fantasy–bringing fantasy to reality. LISA Newsletter Global Insider, 13(1.3), 5.

O’Hagan, M., & Mangiron, C. (2013). Game localization: Translating for the global digital entertainment industry. Amsterdam: John Benjamins. DOI, 10, 1075.

Pettini, S. (2021a). The Translation of Realia and Irrealia in Game Localization: Culture-Specificty between Realism and Fictionality. Routledge.

[Vada a chicken’s dolly eek - Mật ngữ của cộng đồng người đồng tính: Polari]Tại Anh, người đồng tính vẫn bị coi là tội p...
31/05/2024

[Vada a chicken’s dolly eek - Mật ngữ của cộng đồng người đồng tính: Polari]

Tại Anh, người đồng tính vẫn bị coi là tội phạm cho tới tận năm 1967 khi Đạo luật về Phạm tội Tình dục chính thức hợp pháp hóa các “hành vi đồng tính riêng tư”. Trước khi đạt được thành tựu này, những người đồng tính tại Anh vẫn phải đối mặt với nguy cơ bị cô lập, kì thị, hay thậm chí là bị truy tố. Để ngầm giao tiếp với nhau, họ “phát minh” ra một thứ ngôn ngữ bí mật mang tên Polari.

Mượn từ vựng và tiếng lóng từ nhiều ngôn ngữ khác nhau như tiếng Ý, Romani, Yiddish, hay là từ cả giọng Cockney; Polari giúp những người đồng tính tại Anh tìm bạn bè hay bạn tình mà không sợ lộ thân phận và đặt bản thân vào những tình huống nguy hiểm. Xuất phát từ chỉ 20 từ vựng căn bản như bona (tốt), ajax (gần), eek (khuôn mặt), cod/naff (xấu, tệ); Polari đã tiến hóa thành một ngôn ngữ riêng được dùng không chỉ bởi cộng đồng người đồng tính mà còn phổ biến tại những nơi như chợ cá, nhà hát, rạp xiếc hay hội chợ tại London. Sức ảnh hưởng của Polari vẫn còn hiện diện tới tận ngày nay khi rất nhiều từ lóng trong cộng đồng LGBTQ+ có nguồn gốc từ ngôn ngữ bí mật này, ví dụ như camp, butch hay trade.

Nhân tiện nói về “camp”: một phần rất lớn trong kho từ vựng của Polari được dùng để nói về các chủ đề như tình dục, tìm bạn tình tại những nơi công cộng, trang điểm và làm tóc trong cộng đồng drag. Polari cho phép những người đồng tính xây dựng một danh tính rất đặc biệt mà ngày nay ta gọi là “camp” - một phong cách pha trộn giữa sự ngông cuồng, hào sảng, sống động, táo bạo, hay thậm chí là tự châm biếm chính mình. Cả camp lẫn Polari dần tiến vào văn hóa đại chúng với việc đài BBC sản xuất một chương trình mang tên “Round the Horne” với hai nhân vật Julian và Sandy. Sự khoa trương và cường điệu của Julian và Sandy, hai chàng trai không-công-khai-nhưng-nhìn-vào-biết-ngay-là-gay với giọng nói yểu điệu thục nữ đã thu hút chín triệu người xem chương trình - một con số khổng lồ vào thời đó - vào hai rưỡi chiều Chủ Nhật hàng tuần.

Thế nhưng chính Julian và Sandy lại một phần khiến hình ảnh người đồng tính rơi vào trạng thái dở khóc dở cười: được khán giả yêu quý giữa một thời đại mà nạn kỳ thị đồng tính vẫn hoành hành, nhưng lại không được lòng với chính những người cùng cộng đồng. Hình ảnh người đàn ông đồng tính “ẻo lả” bị cường điệu thái quá theo phong cách camp của Julian và Sandy đi ngược lại với tầm nhìn của các nhóm hoạt động đòi quyền lợi cho cộng đồng LGBTQ+ thời đó. Khi những người đồng tính chỉ muốn trình diện bản thân mình như “những người bình thường”, thì mọi thứ đậm chất camp - bao gồm Polari - đều phải nhường chỗ như một sự hi sinh cần có để đổi lấy quyền lợi chính đáng cho họ. Bên cạnh đó, sau khi đồng tính dần không còn bị coi là tội phạm nữa với sự phát triển của các phong trào giải phóng và thúc đẩy quyền lợi, người ta dần dần cũng không cần dùng Polari như mật ngữ của riêng một cộng đồng nhỏ nữa.

Những nỗ lực bảo tồn Polari như một phần tất yếu của lịch sử q***r tại Anh vẫn còn đó: Jez Dolan và Joseph Richardson cùng nhau thành lập Sứ mệnh Polari - một dự án từ điển và bài giảng về lịch sử của ngôn ngữ này, Karl Eccleston và Brian Fairbairn sản xuất một bộ phim ngắn mang tên “Putting on the Dish” với lời thoại hoàn toàn bằng Polari. Từ những người từng nói tiếng Polari trong thập niên 50, Julian và Sandy của thập niên 60, những nhà hoạt động drag của thập niên 90, tới những học giả và nghệ sĩ gắng sức nghiên cứu và bảo tồn Polari của hiện tại, tất cả họ đều hiểu một thông điệp quý giá theo lời của Paul Baker - tác giả của cuốn sách “Câu chuyện của Polari - Mật ngữ đồng tính”: “Hãy cứ cười cợt chính những khuyết điểm của mình, cười cợt chính những thử thách mà cuộc đời liên tục ném vào mình. Tiếng cười không thể ngăn chặn được nỗi đau, nhưng sẽ cho người ta một con đường để chống chọi và vượt qua nó”.

Chúc mừng tháng Tự hào!

Gần đây blog hơi chết vì mình bận học với cũng k có năng lượng research xem nên viết cái gì 💀Dù nobody asked nhưng mình ...
03/05/2024

Gần đây blog hơi chết vì mình bận học với cũng k có năng lượng research xem nên viết cái gì 💀Dù nobody asked nhưng mình cũng muốn chia sẻ một phần xem mình học cái gì ở chương trình Thạc sĩ Ngôn ngữ học Đồng đại (Synchronic Linguistics) của mình, chủ yếu để có cái đăng lên blog mà không cần tìm hiểu quá nhiều =)))

Ngôn ngữ học Đồng đại (ngược với Lịch đại - Diachronic: so sánh hai thời đại với nhau) về cơ bản là nghiên cứu ngôn ngữ trong một thời đại cụ thể (có thể là hiện tại hoặc quá khứ, nhưng thường k có so sánh). Các mảng mình thích nhất trong Linguistics nói chung là Morphology/Semantic (Hình thái/Ngữ nghĩa) và Pragmatics (Ngữ dụng) và mình cũng may mắn được học các môn đa số về mảng này. Một số môn mình đã và đang học là:

1. Literary Linguistics (Ngôn ngữ học văn chương): áp dụng các lý thuyết về Hình thái hoặc Ngữ dụng vào phân tích các tác phẩm văn học trên phương diện ngôn ngữ. Góc nhìn (point of view) ảnh hưởng như nào tới viết văn, ẩn dụ (metaphor) trong văn chương, xây dựng thế giới (world building) qua góc nhìn của hình thái/ngữ nghĩa, … là một vài chủ đề được nhắc đến trong môn này. Cuối kì môn này mình viết essay về chủ đề “Tác động của lời nói trực tiếp và gián tiếp lên xây dựng nhân vật trong 'Chúa ruồi' của William Golding"

2. Diachronic explanation for present-day irregularities (Hướng giải thích Lịch đại cho sự bất quy tắc thời hiện đại): Về cơ bản là nhìn lại quá khứ theo các góc độ Ngữ âm, m vị, Hình thái, Cú pháp, etc. để hiểu tại sao tiếng Anh lại có những cái bất quy tắc kiểu foot => feet, thief > thieves, HAVE-perfect (hiện tại hoàn thành với HAVE thay vì BE như nhiều ngôn ngữ khác), đại từ nhân xưng ngôi thứ 2 không phân số nhiều, …

3. Pragmatics (Ngữ dụng học) & Historical Pragmatics (Ngữ dụng học lịch sử): Đào sâu hơn tất cả những cái khái niệm trong Ngữ dụng như trực chỉ (deixis), phương châm (maxims) và hàm ngôn (implicature) của Grice cũng như các lý thuyết đi sau Grice, tiền giả định (presupposition), lý thuyết lịch sự (politeness theory), hành vi lời nói / hành ngôn (speech acts), … và xem chúng nó thay đổi như nào qua lịch sử. Trước khi học lên Master’s mình luôn nghĩ Pragmatics là cái dễ nhất xong giờ mới thấy khó lòi cl =))

4. Etymology (Từ nguyên học): Nguồn gốc của từ. Không phải chỉ dạo chơi xem từ này ngày xưa nghĩa là gì mà còn học biến đổi âm thanh/hình thái, bối cảnh văn hóa lịch sử, tái tạo lại ngôn ngữ cổ lòi mắt 🥲 Nhưng mà môn này cũng có nhiều cái rất hay (duh, kiểu gì nó cũng hay vì có nhiều từ với nguồn gốc rất lạ), không chỉ về nguồn gốc từ mà còn cả những hiện tượng xã hội gây ra những sự biến đổi về ngôn ngữ (sẽ lên bài sau nhé 🥲)

5. Corpus Linguistics (Ngôn ngữ học khối liệu): Môn hay nhất và cũng khiến t sợ nhất vì học đ hiểu gì =)) Nghiên cứu ngôn ngữ và các hiện tượng liên quan bằng cách sử dụng các khối liệu (corpus - corpora pl.) - một đống văn bản ghi chép lại ngôn ngữ mà mọi người đã sử dụng/nói/viết, về cơ bản là dữ liệu “thật” - để tìm ra các xu hướng, hiện tượng bất thường. T đã luôn muốn học về corpus vì nó đưa ra một giải pháp rất cụ thể, rất chính xác so với việc chỉ suy đoán hay phỏng vấn vài chục cá nhân, nhưng cũng sợ vì môn này kiểu có cả toán với thống kê 💀

Một cái update nho nhỏ như vậy thôi ạ, tác giả sẽ cố gắng không trượt môn và viết bài tiếp =))) Thanks for your support

[Lời xin lỗi đi vào lòng đất của Giám đốc Nhã Nam - Hedging (ngôn ngữ thận trọng), epistemic modality (tình thái nhận th...
18/04/2024

[Lời xin lỗi đi vào lòng đất của Giám đốc Nhã Nam - Hedging (ngôn ngữ thận trọng), epistemic modality (tình thái nhận thức), euphemism (uyển ngữ)]

Nói chung là tôi nghĩ mọi người cũng không cần thêm thông tin về vụ này nữa vì nó quá nổi rồi. Quả xin lỗi kiểu "Ừ đây xin lỗi được chưa?" này chứa nhiều chiến thuật trong ngôn ngữ để lảng tránh trách nhiệm và giảm thiểu thiệt hại dã man 🤡

1. Hedge & epistemic modality

Hedge hay hedging trong ngôn ngữ học là những từ hoặc cụm từ thường được xếp vào nhóm ngôn ngữ liên quan tới tình thái nhận thức (epistemic modality): dùng để diễn tả sự không chắc chắn, mơ hồ, khả năng hay sự dè chừng với một thông tin được đưa ra. Những ví dụ của hedging trong lời xin lỗi này có thể kể đến những cụm từ như "những điều tôi không lường được" hay "vô tình", "có thể".

2. Euphemism

Cái này chính là nói giảm nói tránh đó quý zị :)) Che đậy sự QRTD bằng sự hoa mỹ của "hành động thể hiện sự quan tâm, quý mến", nói "gây bối rối, làm phiền" để không nhắc tới tổn hại về tinh thần nhân viên phải chịu đựng. Uyển ngữ là một dạng của doublespeak - ngôn ngữ được sử dụng để cố tình che dấu hoặc bóp méo sự thật, và hình như cũng có một chút doublespeak ở đoạn "bị làm phiền bởi rất nhiều tin đồn sai lệch trên mạng". Gurl, what rumors?

Tôi nghĩ nếu phân tích kỹ ra thì còn 1 tá những điều sai lệch về cái lời xin lỗi này, nhưng thế là đủ rồi. This is such a non-apology that it's making Colleen Ballinger look like an amateur 🤷‍♂️.

[Meo meo meo - Nói chuyện khách sáo (phatic expression)]Trước khi bọn mèo được thuần hóa bởi loài người cỡ 10000 năm trư...
15/04/2024

[Meo meo meo - Nói chuyện khách sáo (phatic expression)]

Trước khi bọn mèo được thuần hóa bởi loài người cỡ 10000 năm trước, chúng nó độc hành lang thang ngoài thiên nhiên và rất hiếm khi gặp những con mèo khác. Vì thế, chúng nó không cần dùng giọng nói để giao tiếp làm gì, mà sẽ dùng những phương thức khác như khứu giác hay xúc giác (như cọ cọ vào nhau hay đi tè vào gốc cây). Tới lúc về ở cùng con người, chúng nó biết rằng loài người không có hệ thống giác quan phát triển như mèo, nên những phương thức giao tiếp kia là chưa đủ. Đấy là lý do chúng nó bắt đầu kêu meo meo.

Đương nhiên là mèo có nhiều tiếng meo với nhiều mục đích khác nhau: đòi ăn, đòi ra ngoài, đòi bế. Thế nhưng cũng có rất nhiều tiếng meo của chúng nó không nhằm mục đích cụ thể mà đó chỉ là những tín hiệu liên kết (affiliative signaling). Những tiếng meo đấy về cơ bản là chỉ để xác nhận rằng bên người và bên mèo cùng thuộc một nhóm, một đơn vị xã hội. Và khi ta meo lại với chúng nó, ta cũng chỉ đang thực hiện một chức năng tương tự. David Prokopetz miêu tả rằng khi mèo với người meo meo qua lại, hai bên về cơ bản là chỉ đang chào nhau “hiiiiiii~”

Một bộ phận các câu nói hay tình huống giao tiếp của loài người cũng có chức năng y hệt. “Hôm nay trời nóng phết nhờ” khi nói với một người lạ ở trạm xe buýt chẳng hạn, nhiều khi không chỉ là để bắt chuyện mà còn để truyền tải một ý nghĩa kiểu “Tất cả chúng ta đều đang chịu đựng cái tình huống này. Những câu nói kiểu “How are you?”, “Working hard or hardly working?” trong tiếng Anh cũng tương tự: nhiệm vụ chính của chúng nó là duy trì quan hệ xã hội thay vì nhất định phải có một ý nghĩa trực tiếp (nghĩa sở chỉ - denotation) nào đó. Người nói trong những cuộc hội thoại với những câu nói kiểu “What’s up?” / “All right?” / “How are things?” không trông chờ người nghe phải trả lời y hệt đúng câu hỏi đấy; mà chờ những câu trả lời (hoặc hỏi ngược lại) với chức năng tương tự như “Hey, how’s it going?” / “Yeah, all right” / “Nothing much”.

Tất cả những câu nói như vậy được gọi chung với một thuật ngữ là “phatic expression” (có thể tạm dịch thành nói chuyện khách sáo hay nói chuyện đưa đẩy). Có một điểm đặc biệt về phatic expression: thoạt nhìn thì có vẻ như chúng nó vi phạm các phương châm hội thoại của Grice (Gricean conversational maxims): đưa thông tin thừa (phương châm về lượng), thông tin sai lệch (phương châm về chất), hoặc thông tin không liên quan (phương châm quan hệ). Tuy nhiên khi xét đến việc các câu nói này vẫn mang các nghĩa ẩn (nghĩa hàm chỉ - connotation) cũng như giúp duy trì quan hệ xã hội, phatic expression hoàn toàn tuân thủ các phương châm trên và còn là một phần quan trọng trong giao tiếp người với người.

hoặc mèo với người.

:3

[Hai chữ b & d của tiếng Việt có đọc giống tiếng Anh không? - Âm tắc (plosives) và âm khép (implosives)]Short answer: no...
14/04/2024

[Hai chữ b & d của tiếng Việt có đọc giống tiếng Anh không? - Âm tắc (plosives) và âm khép (implosives)]

Short answer: no
Long answer: nooooooooooo

Không giống nha nhưng nói thật là không học Phonetics mình cũng đ để ý đâu 🥲

Hai âm vị /b/ và /d/ của tiếng Anh (như trong các từ "baby" và "daddy") là hai âm tắc (plosives). Cơ chế tạo âm của chúng nó là pulmonic (âm thanh đi từ phổi/cơ hoành) + egressive (luồng hơi được đẩy ra ngoài).

Ngược lại, tiếng Việt dùng hai âm vị /ɓ/ và /ɗ/ (để ý chúng nó nhìn hơi khác một chút: có một dấu ngoắc nhỏ ở phía trên). Đây là các âm khép (implosives), được tạo ra nhờ cơ chế glottalic (âm thanh xuất hiện từ thanh môn (glottis) - bộ phận chứa dây thanh quản) + ingressive (luồng hơi đi vào trong).

Có hai cách mọi người có thể thử để thấy sự khác biệt giữa hai loại âm này:

1. Đặt tay trước miệng khi phát âm, với những âm plosives của tiếng Anh thì luồng hơi sẽ đi ra ngoài và chạm vào bàn tay khá rõ rệt, ngược lại thì nói các âm implosives của tiếng Việt sẽ cho một cảm giác luồng hơi bị hút vào một chút, và nếu có đi ra cũng không mạnh bằng plosives.

2. Phát âm các từ tiếng Anh bằng âm vị của tiếng Việt và ngược lại :)) Cái này nếu phát âm chuẩn là sẽ thấy khác ngay, nghe kì lắm.

Còn một chữ cái nữa tưởng phát âm giống nhau giữa tiếng Anh và tiếng Việt nhưng cũng khác, nhưng lại liên quan đến mấy cái như bộ phận cấu âm với phương thức cấu âm nên để bài khác nha 🥲

Ờ thì mấy ông pà cũng biết bên giọng Anh - Anh người ta có cụm "innit?" nhỉ, rút gọn của "isn't it" và được dùng như một...
13/04/2024

Ờ thì mấy ông pà cũng biết bên giọng Anh - Anh người ta có cụm "innit?" nhỉ, rút gọn của "isn't it" và được dùng như một câu hỏi đuôi để nhấn mạnh ấy.

Well, tiếng Nhật cũng có một từ là "ne" với chức năng tương tự. Nếu phương ngữ Anh - Anh nói "It's fuc.kin' freezin', innit?" thì tiếng Nhật sẽ nói "Samui desu ne?".

Khi nhìn lại nguồn gốc của từ "ne" đấy, người ta phát hiện ra chính các tu sĩ người Bồ Đào Nha tới Nhật Bản vào thế kỉ 16 đã dùng cụm "não é" (isn't it?) rồi rút gọn nó thành "né" và rồi nó biến thành "ne" trong tiếng Nhật.

tl;dr: "ne" của tiếng Nhật và "innit" của Anh - Anh là một 🙂

[Giả đồng nguyên (false cognates) và bạn giả (false friends) - Người lớn làm chuyện người lớn]Đang lướt Reddit tự dưng t...
12/04/2024

[Giả đồng nguyên (false cognates) và bạn giả (false friends) - Người lớn làm chuyện người lớn]

Đang lướt Reddit tự dưng thấy bạn này hỏi một câu khá hay: có phải hậu tố -ery khiến một từ mang sắc thái nghĩa tiêu cực hơn không, và bạn lấy “adult” (người lớn) với “adultery” (ngoại tình) làm ví dụ.

Cũng không thể trách một người học ngoại ngữ khi đưa ra một phán đoán như vậy, nhìn qua thì cũng có lý mà, hai từ này có vẻ liên quan :)) Nhưng thực tế thì hai thằng này không hề có họ hàng gì cả nếu ta nhìn vào nguồn gốc:

Adult bắt nguồn từ “ad” + thể khởi nguyên (inchoative aspect - ấn định một hành động bắt đầu xảy ra) của động từ “alere” (nuôi dưỡng, lớn lên) là “alescere”.

Adultery bắt nguồn từ “ad” + “alterare” (thay đổi, biến chất).

Phần lớn những từ chung nguồn gốc (hay còn gọi là đồng nguyên - cognates) sẽ nhìn giống nhau, nhưng cũng có những trường hợp như ở trên khi hai từ nhìn na ná nhau lại xuất phát từ hai chỗ khác nhau. Hiện tượng này mang tên “false cognates” - giả đồng nguyên.

Một khái niệm nữa liên quan tới “false cognates” xảy ra khi hai từ thuộc hai ngôn ngữ khác nhau nhìn giống nhau nhưng mang nghĩa khác nhau, như “embarrassed” (xấu hổ) của tiếng Anh và “embarazada” (mang thai) của tiếng Tây Ban Nha chẳng hạn, được gọi với một cái tên cute hơn là “false friends”.

Điểm khác biệt chính giữa "false friends" và "false cognates" là hai từ thuộc trường hợp đầu tiên có thể có chung nguồn gốc còn trường hợp thứ hai thì không. Ví dụ, hai từ “pretend” của tiếng Anh và “prétendre” của tiếng Pháp có thể không cùng nghĩa, nhưng hai từ này có chung nguồn gốc từ tiếng Latin, nên không thể gọi chúng nó là "false cognates" được.

[Trăn ăn thịt người, người ăn thịt trăn - Sắp xếp hình thái cú pháp (Morphosyntactic alignment) và phản bị động (antipas...
11/04/2024

[Trăn ăn thịt người, người ăn thịt trăn - Sắp xếp hình thái cú pháp (Morphosyntactic alignment) và phản bị động (antipassive)]

Preface: Nói thật là t cũng k biết làm thế nào để cái chủ đề này đơn giản và dễ tiếp thu hơn =)) lúc đầu định k viết đâu nhưng thấy nó hay quá nên quyết định thử. Vì nó khó hiểu và khô khan vô cùng nên t cũng xác định viết để lưu trữ thông tin thôi chứ không mong cái post này truyền tải được gì 🥲

Việc học đại từ nhân xưng (pronoun) của tiếng Anh thực ra khá đơn giản khi so với nhiều thứ tiếng khác. Ta chỉ phải học thuộc hai dạng đại từ, tạm gọi là đại từ nhân xưng chủ ngữ (subject pronoun) - I, you, we, they, he, she, it & đại từ nhân xưng tân ngữ (object pronoun) - me, you, us, them, him, her, it. Nếu đi sâu hơn chút nữa, thực ra ta sẽ có 3 “vai trò” trong câu:

Chủ ngữ (Subject - S): dùng với một hành động không cần tân ngữ như I sleep.

Tác thể (Agent - A): là người/vật gây ra hành động: “I” trong câu “I pet the cat” chẳng hạn.

Tân ngữ (Object - O): là người/vật chịu tác động từ hành động của Tác thể: “the cat” trong câu ở trên.

Nếu để ý, ta sẽ thấy Chủ ngữ và Tác thể trong tiếng Anh luôn nhìn giống nhau: “tôi” trong vai trò Chủ ngữ hay Tác thể đều là “I”, và chỉ biến thành “me” trong vai trò Tân ngữ. Nếu dùng từ chuyên ngành hơn một tí thì Chủ ngữ và Tác thể thuộc Danh cách (Nominative case) còn Tân ngữ thuộc Đối cách (Accusative case). Các ngôn ngữ với quy luật này (Anh, Pháp, Đức, Nga, etc.) vì thế được gọi là có phân bổ danh cách - đối cách (nominative - accusative alignment).

Nhưng cũng có những ngôn ngữ mà hệ thống này lộn tùng phèo lên, khi mà Chủ ngữ và Tân ngữ nhìn giống nhau còn Tác thể lại khác. Đơn giản hơn, nếu tiếng Anh có quy luật như thế thì mọi thứ sẽ nhìn như này:

Me sleep / I love me
Him walks / She likes him
Her cries / He hit her.

Tác thể (A) lúc này thuộc Tác cách (ergative case) còn Chủ ngữ (S) và Tân ngữ (O) thuộc Thông cách (absolutive case). Các ngôn ngữ với quy luật này lại mang phân bổ tác cách - thông cách (ergative - absolutive alignment).

2. Thế cái này liên quan gì đến trăn ăn thịt người?

Để khiến mọi thứ phức tạp hơn thì một vài ngôn ngữ trên thế giới sử dụng cả hai hệ thống này cùng một lúc. Ngôn ngữ của tộc người Dani ở Papua New Guinea sẽ coi hệ thống nominative - accusative là “bình thường”, còn ergative - absolutive là “bất thường”. Vậy nên một câu nói như “The man eats the python” (Người ăn thịt trăn) trong văn hóa của họ là bình thường và danh từ trong câu sẽ được chia theo nominative - accusative, và ngược lại câu “The python eats the man” (Trăn ăn thịt người) lại là kỳ lạ, tuân theo hệ thống ergative - absolutive. Nếu tiếng Anh có một phụ tố (giả sử là -erg đi) để đánh dấu ergative thì hai câu trên sẽ nhìn kiểu như này:

The man (NOMINATIVE) eats the python (ACCUSATIVE)

The python-erg (ERGATIVE) eats the man (ABSOLUTIVE)

Tiếng Nepali cũng có một hiện tượng tương tự. Một câu nói trong quá khứ (Người ĐÃ ăn thịt con trăn) sẽ được chia theo ergative - absolutive, còn những câu ở hiện tại và tương lai được chia bình thường. Với giả sử tương tự như ở trên thì phiên bản tiếng Anh giả định sẽ nhìn như này:

The man-erg (ERGATIVE) ate the python (ABSOLUTIVE)

The man (NOMINATIVE) eats the python (ACCUSATIVE)

The man (NOMINATIVE) will eat the python (ACCUSATIVE)

3. Phản bị động (antipassive)

Gòy giờ tới lúc đau não nè =))

Mấy pà cũng vẫn nhớ bị động của tiếng Anh nó để làm gì đúng không? Đơn giản thì cái thằng duy nhất khác biệt (Tân ngữ - Object) được đẩy lên còn thằng Tác nhân (Agent) bị xóa bỏ.

The python (A) eats the man (O) => The man (O trở thành S) is eaten.

Giờ giả sử câu trên nó thuộc hệ thống ergative - absolutive xem nhé, vẫn lấy cái đuôi -erg giả định để hình dung rõ hơn:

The python-erg (Tác thể - ERGATIVE) eats the man (Tân ngữ - ABSOLUTIVE).

Lúc này thì không giống tiếng Anh, ta không thể đẩy phần “the man” lên được, cái đứa cần được nhấn mạnh là “the python” nên câu trên sẽ thành:

The python-erg (Tác thể - ERGATIVE) eats.

Nhưng lúc này thì cái phần “con trăn” không còn là Tác thể (Agent) nữa vì mất Tân ngữ (Object) nữa rồi nên nó biến thành Chủ ngữ (Subject); và theo quy luật như ở trên thì Chủ ngữ được đánh dấu bằng absolutive case.

The python (Chủ ngữ - ABSOLUTIVE) eats.

Thay vì biến phần Tân ngữ trở nên nổi bật hơn như câu bị động, dạng câu này biến một phần đã nổi bật trong câu rồi (Tác thể) còn nổi hơn nữa (kiểu như Tác thể Pro Max) và xóa sạch Tân ngữ. Thế là từ “Con trăn ăn thịt người”, câu này đã thành một câu đại loại kiểu “Con trăn (!!!+++!”§=!”$/) ăn thịt”. Đây chính là câu phản bị động (antipassive). Khi đã quá quen với câu bị động thì cấu trúc này nghe sẽ vô cùng lạ tai nhưng trong những ngôn ngữ như Dyirbal chẳng hạn thì câu phản bị động là hoàn toàn bình thường và tự nhiên.

Một câu hỏi cuối cho những tế bào não còn sót lại: tiếng Anh thực ra có một phụ tố gắn vào danh từ để thể hiện được ý nghĩa tác cách (ergative) dù bản thân ngôn ngữ này theo quy tắc sắp xếp danh cách - đối cách (nominative - accusative alignment). Phụ tố đấy là cái nào? (xem câu trả lời ở bình luận).

Edit: mình nên gọi Object là Patient sẽ hợp hơn, nhưng thôi lỡ viết rồi :))

["Ít nhất 10 con vịt" & hàm ngôn vô hướng (scalar implicature)]Hình ảnh một đàn vịt "xâm chiếm" đường phố tại Thai Châu,...
08/04/2024

["Ít nhất 10 con vịt" & hàm ngôn vô hướng (scalar implicature)]

Hình ảnh một đàn vịt "xâm chiếm" đường phố tại Thai Châu, Trung Quốc tương phản với bình luận "Ê nhìn đống vịt kìa, chỗ đấy ít nhất cũng phải 10 con" là đủ để hiểu tại sao cái meme này nổi tiếng trên Tumblr. Tuy vậy, nếu thực sự muốn giải thích cái chuyện cười này sâu hơn, ta sẽ cần đến một quy tắc trong Ngữ dụng học (Pragmatics): hàm ngôn vô hướng (scalar implicature).

Trước tiên ta cần giải thích hàm ngôn (implicature) là gì. Hiểu đơn giản thì nó chính là ẩn ý mà người nói muốn truyền tải dù không nói thẳng ra. Nếu được một người khác mời uống cafe, câu trả lời "Ui em dễ mất ngủ lắm" sẽ giúp người mời ngầm hiểu rằng bạn đang từ chối. Ngược lại, nói rằng "May thế em đang cần tỉnh táo để làm nốt việc" sẽ tự động truyền tải sự đồng ý.

Lấy một ví dụ khác nhé, giữa ba câu trả lời sau:

1. "Em chưa ăn cái bánh nào"
2. "Em ăn vài cái bánh rồi."
3. "Em ăn hết đống bánh rồi."

Giả sử người nói luôn nói thật (tuân thủ phương châm hội thoại của Grice), thì câu thứ nhất sẽ tự động truyền tải một hàm ngôn rằng câu thứ hai và thứ ba là sai: chưa ăn cái nào thì đương nhiên là không thể ăn vài cái được, và đương nhiên đống bánh sẽ còn nguyên.

và tương tự câu thứ hai mang hàm ngôn rằng câu thứ ba sai: em (mới) ăn vài cái bánh => hãy tự hiểu là em chưa ăn hết.

Nếu giả sử 3 cụm từ "chưa ăn - ăn vài cái - ăn hết" nằm trên một thang đo đi dần lên 1 - 2 - 3, việc người nói sử dụng cụm số 1 sẽ tự khắc khiến người nghe hiểu "À chắc chắn phải có lý do thì người nói không dùng những cụm từ mạnh hơn, vì những cụm từ ấy không phản ánh đúng sự thực". Cách lý luận này chính là "hàm ngôn vô hướng" (scalar implicature).

kanyewesticle (lol) lợi dụng chính hiện tượng này để tạo ra một sự tương phản với yếu tố hài hước: người đọc tự giả sử rằng người viết biết khá chính xác số lượng vịt (vì thế nên mới ước lượng rằng có 10 con thay vì 1000 hay 10000 con) nhưng bức ảnh lại cho thấy điều ngược lại, nhưng câu nói ấy về lý thuyết vẫn không sai dù nó có kỳ cục tới mức nào đi nữa.

Còn một vài ví dụ nữa về những chuyện cười kiểu "ừ về lý thì nó đ sai" khi các tác giả lợi dụng hàm ngôn vô hướng, mình sẽ để dưới comment nhé ;)

Address


Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Lightstalker Linguistic Lair posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Shortcuts

  • Address
  • Alerts
  • Claim ownership or report listing
  • Want your business to be the top-listed Media Company?

Share