02/04/2024
[6. 4] 𝐓𝐈𝐄̂́𝐏 𝐓𝐇𝐄𝐎 𝐂𝐇𝐔̛𝐎̛𝐍𝐆 𝟔: 𝟒 𝐇𝐀̣𝐍𝐆 𝐌𝐔̣𝐂 𝐂𝐇𝐈́𝐍𝐇 𝐂𝐔̉𝐀 𝐂𝐇𝐔𝐘𝐄̂̉𝐍 𝐂𝐀̉𝐍𝐇 - GẠT XÓA (THE WIPE) VÀ TAN/MỜ DẦN (THE FADE)
𝑋𝐸𝑀 𝐿𝐴̣𝐼 𝑃𝐻𝐴̂̀𝑁 𝑇𝑅𝑈̛𝑂̛́𝐶 𝐶𝑈̉𝐴 𝐶𝐻𝑈̛𝑂̛𝑁𝐺 6
6.1: https://shorturl.at/owD08
6.2: https://shorturl.at/lAGTW
6.3: https://shorturl.at/rFHX4
𝑪𝒉𝒖𝒚𝒆̂̉𝒏 𝒄𝒂̉𝒏𝒉 𝒈𝒂̣𝒕/𝒙𝒐́𝒂 (𝒕𝒉𝒆 𝒘𝒊𝒑𝒆)
Chuyển cảnh gạt có thể được coi như là điểm giao giữa cắt trực tiếp (the cut) và mờ chồng (dissolve). Chuyển cảnh gạt xảy ra xuyên thời gian giống như mờ chồng nhưng có xu hướng diễn ra rất chóng vánh. Bạn có thể nhìn thấy cả 2 shot hình trên phim cùng một lúc giống như mờ chồng nhưng thường không hề được chồng lên nhau. Chuyển cảnh gạt có mục đích là để khán giả để ý đến và thường xuất hiện dưới dạng hình dáng (shape), hoặc đi cùng với những yếu tố graphic khác. Gạt có thể mang hình zigzag, khoanh tròn mở rộng hoặc thu nhỏ (iris), hoặc là xoắn ốc, và di chuyển theo đường chéo, ngang, dọc trên màn hình, khi thay thế shot trước đó bằng shot mới.
Chuyển cảnh gạt thường được dùng nhiều nhất khi:
- Có sự thay đổi về thời gian
- Có sự thay đổi về địa điểm
- Shot đi và đến 𝑘ℎ𝑜̂𝑛𝑔 có mối quan hệ chặt chẽ nào về mặt hình ảnh
- Dự án đó thiên về yếu tố thị giác và cách thức kéo khán giả bằng hình ảnh ở những đoạn chuyển cảnh
- Có cái kết ở mỗi cảnh (scene), hồi (act) hoặc chương trình (giống như chuyển cảnh bằng việc vòng tròn thu nhỏ lại (iris out to black) trong phim câm).
Một chuyển cảnh wipe tốt, thường là được thiết kế bắt mắt cách điệu cao, không nhất thiết đòi hỏi phải xem xét tới các yếu tố tiêu chuẩn cho một bản cắt dựng tốt.
1. Tính thông tin (Information) - Chắc chắn rồi, shot hình được hiện lên màn ảnh sẽ phải cung cấp cho người xem được thông tin mới, nhưng nó không cần phải liên hệ tới shot trước đó đang bị xóa dần đi. Shot mới cũng có thể sử dụng một graphic (ví dụ như logo của team) hoặc dòng text cỡ lớn xuất hiện trên màn hình. Việc xóa/gạt hình ảnh trực quan này thậm chí có thể cung cấp thêm thông tin mới cho người xem - và thường có thể "giấu đi" những chuyển động xóa/gạt kì cục khi 2 shot hình chuyển giao trên màn ảnh.
Hình 6.7: Chuyển cảnh xóa/gạt shot hình ra khỏi màn ảnh và thay thế nó bằng một shot hình mới. Wipe có thể được dùng như chuyển cảnh nhanh và thú vị từ bất cứ shot này sang shot khác.
2. Động cơ (Motivation) - Thay đổi bối cảnh hoặc là phân đoạn show đã đủ để là động cơ cho người editor sử dụng chuyển cảnh wipe. Chuyển động của chủ thể trong shot đến cũng có thể coi là động cơ cho một số hình dạng (shape), thời gian (time), hay hướng (direction) nhất định cho hiệu ứng chuyển cảnh wipe.
Đôi khi, nếu bạn không có cách chủ đích nào để đi từ địa điểm/thời gian/chủ đề này sang địa điểm/thời gian/chủ đề khác, bạn cũng có thể sử dụng wipe một cách sáng tạo để "làm giải trí" cho khán giả trong suốt thời gian chuyển đổi và dẫn họ tới một địa điểm/thời gian/chủ đề hoàn toàn mới. Trong khuôn khổ ngữ pháp dựng phim, chuyển cảnh wipe là cách thức kỳ lạ nhất để di chuyển trong thời gian và không gian. Nếu động cơ cho chuyển cảnh là để tăng nhịp độ, vậy thì một cú wipe nhanh là cách nhanh chóng và thú vị để đạt được mục tiêu về thay đổi nhịp độ này.
3. Bố cục (Composition) - Với việc lên kế hoạch chặt chẽ, một người làm phim thông minh có thể sẽ truyền tải được những chuyển động dọc và ngang một cách mạnh mẽ trong khuôn khổ bố cục khuôn hình, và một người dựng phim thông minh sẽ biến những yếu tố thị giác ấy thành thứ mà ta gọi là 𝐱𝐨́𝐚 𝐛𝐨̉ 𝐦𝐨̣̂𝐭 𝐜𝐚́𝐜𝐡 𝐭𝐮̛̣ 𝐧𝐡𝐢𝐞̂𝐧 (natural wipes) (xem thêm ở Chương Tám). Các vật thể của hành động ở shot đến (ví dụ như cửa ra vào, góc tường, xe buýt đi ngang qua ở tiền cảnh) dường như được đẩy, kéo hoặc bằng cách nào đó xóa đi màn ảnh. Điều này cho phép một cú cắt hoặc cú wipe sang một shot mới.
Bởi vì 2 shot hình khác nhau đều xuất hiện trên màn ảnh, sẽ hiệu quả hơn nếu trong quá trình chuyển cảnh, chúng có sự tương đồng về bố cục, phản chiếu hoặc cân bằng với nhau theo cách nào đó. Bạn cũng có thể nhận thấy rằng phong cách hay hình dạng của wipe bản thân nó là một bố cục đồ họa thú vị, nên không có yêu cầu bất cứ sự liên kết đặc biệt nào về mặt hình ảnh giữa shot rời đi và shot mới đến.
4. Góc máy (Camera Angle) - Cũng tương tự như sự tự do mà bố cục shot hình đem lại, không hề có sự ràng buộc nào về quy luật yêu cầu khác biệt về góc quay. Chuyển cảnh wipe theo nghĩa đen là xóa bỏ hình ảnh shot cũ và giới thiệu nội dung hình ảnh mới; góc máy nằm ngoài mục đích đó, mặc dù vậy bạn vẫn nên cảm thấy tự do thử sức tìm tòi những lựa chọn sáng tạo mới.
5. Âm thanh (Sound) - Tùy thuộc vào thể loại hoặc phong cách wipe để chọn sound, sound có thể được dùng như một cú cắt trực tiếp, hoặc kiểu L-cut, J-cut, hoặc dần mờ đi (cross fade) tại điểm chuyển cảnh. m thanh có thể dẫn dắt, đi trước hoặc theo sau chuyển cảnh. Bạn có rất nhiều đất sáng tạo để tự do chơi đùa với âm thanh khi với kiểu chuyển cảnh này.
Tùy thuộc vào thể loại dự án bạn đang dựng, thông thường, sẽ phù hợp nếu tạo sound effect riêng cho cú wipe, ví dụ như 𝐬𝐰𝐨𝐨𝐬𝐡.
6. Thời gian (Time) - Cũng giống như mờ chồng, wipe cũng cần có thời lượng xuất hiện. Wipe nhanh có thể chuyển cảnh nhanh chóng từ shot này sang shot kế tiếp khi nhịp điệu dựng hỗ trợ cho câu chuyện được đẩy tiếp nhanh chóng. Nếu dự án đó cần nhịp điệu chậm hơn, cần thêm những cú wipe chậm rãi, thì wipe có thể kéo dài tới 1 giây hoặc lâu hơn nữa, mặc dù nó có thể gây nhàm chán cho người xem. Nhanh và vui nhộn thường là lựa chọn của nhiều người.
Chuyển cảnh wipe mang phong cách đồ họa thường có vai trò thúc đẩy không khí thêm nhộn nhịp, là sự gián đoạn thú vị, hoặc một cách kích thích trực quan để kết nối 2 phân đoạn vốn không dễ gì liên kết của chương trình. Trong những bộ phim kinh điển của Hollywood thập niên 30, wipe từng là cách chuyển cảnh hào nhoáng, trực quan nịnh mắt để chuyển từ địa điểm/thời gian này sang địa điểm/thời gian khác. Gần hơn nữa, loạt phim Star Wars sử dụng wipe khá hiệu quả. Wipe thay thế cho mờ chồng nhàm chán và mang nhiều năng lượng hơn. Trong bối cảnh media ngày nay, wipe có thể xuất hiện ở bất cứ hình dạng hoặc hình thức nào, và nó thích hợp để sử dụng trong hầu hết các thể loại, ví dụ như phi hư cấu, hài kịch, giả tưởng, khoa học viễn tưởng, chương trình thiếu nhi, hay thậm chí là những bản tin “lố bịch”. Wipe thường ít phổ biến ở thể loại phim dài tâm lý bi kịch.
𝑪𝒉𝒖𝒚𝒆̂̉𝒏 𝒄𝒂̉𝒏𝒉 𝒕𝒂𝒏/𝒎𝒐̛̀ 𝒅𝒂̂̀𝒏 (𝑻𝒉𝒆 𝑭𝒂𝒅𝒆)
Nếu bạn từng đến rạp hát để xem kịch, bạn sẽ biết rằng tại mở đầu của Hồi 1, ánh đèn bắt đầu tắt dần, rèm sân khấu mở ra, và đèn trên sân khấu sáng lên để lộ bối cảnh và diễn viên. Ở đoạn cuối của cảnh, hồi, hoặc vở kịch, đèn sân khấu bắt đầu tối dần rồi chìm vào bóng tối.
Phim điện ảnh và một vài phân đoạn trên truyền hình cũng bắt đầu và kết thúc một cách truyền thống như vậy với kiểu biến dần. Nếu bạn từng đọc kịch bản, rất có thể bạn đã nhìn thấy dòng chữ đầu tiên là FADE IN (rõ dần) và dòng cuối cùng FADE OUT (mờ dần). Điều này tương tự như 𝐫𝐨̃ 𝐡𝐨̛𝐧 (fade up) và 𝐠𝐢𝐚̉𝐦 đ𝐢 (fade down) khi ra hiệu đèn trong sân khấu. Trên màn ảnh phim bắt đầu bằng toàn bộ nền đen và rồi màu đen dần dần tan biến, để lộ ra những hình ảnh trực quan hơn, ra dấu hiệu rằng câu chuyện đã bắt đầu. Còn với mờ dần (fade out), các khung hình ở cuối phim, chương trình bắt đầu từ từ chìm vào hình nền đen tối, ra dấu hiệu rằng câu chuyện đã kết thúc. Fade có thể ứng dụng trên bất cứ màu sắc nào ở phần mềm dựng phim (màu đen thường là màu mặc định) nhưng thông thường theo lối dùng chuyên nghiệp, bạn sẽ thấy màu đen sử dụng nhiều và thi thoảng là màu trắng.
Rõ dần (fade in) thường được dùng nhiều nhất khi:
- Tại thời điểm bắt đầu chương trình
- Mở đầu cho một chương, cảnh, phân đoạn hoặc hồi
- Nơi có sự thay đổi về thời gian
- Nơi có sự thay đổi về bối cảnh
Mờ dần (fade in) được dùng nhiều nhất khi:
- Tại thời điểm kết thúc chương trình
- Kết thúc cho một chương, cảnh, phân đoạn hoặc hồi
- Nơi có sự thay đổi về thời gian
- Nơi có sự thay đổi về bối cảnh
Để sử dụng fade một cách hiệu quả nhất, nên tuân theo những yếu tố dưới đây:
1. Động cơ thúc đẩy (Motivation) - Thực tế là phim điện ảnh đang bắt đầu thúc đẩy việc sử dụng chuyển cảnh rõ hơn (fade in), và khi đến đoạn kết của một phân đoạn hoặc hồi, dùng mờ dần (fade out) là chấp nhận được. Đó đủ là mục đích thúc đẩy cho chuyển cảnh fade. Kiểu chuyển cảnh mờ dần (fade out) xuất hiện sau rõ dần (fade in) thường được gọi là 𝐝𝐢𝐩 𝐭𝐨 𝐛𝐥𝐚𝐜𝐤 hoặc là 𝐤𝐢𝐬𝐬𝐢𝐧𝐠 𝐛𝐥𝐚𝐜𝐤 được dùng với mục đích làm chậm lại nhịp độ giữa các phân đoạn - ví dụ như một cú chớp mắt thật dài và chậm (Hình 6.8).
2. Bố cục(Composition) - Để dễ dàng có được chuyển cảnh fade hiệu quả, nên sử dụng những shot mà có mở đầu hoặc kết thúc (hoặc cả hai) với màu sắc ít tương phản (low contrast). Nói về bố cục, bạn không nên chọn những shot có các vùng tối và sáng nổi bật trong khung hình, bởi vì khi độ mờ (opacity) sẽ từ từ tăng lên toàn khung hình, hoặc đưa khung hình chuyển sang màu đen, chênh lệch giữa vùng sáng đậm và vùng tối đậm sẽ tạo ra sự cân bằng độ sáng (brightness) và làm cho hiệu ứng fade không đồng đều hoặc là bị trật nhịp.
3. Âm thanh (Sound) - Thông thường, âm lượng âm thanh tăng dần theo quá trình hình ảnh sáng dần lên khi sử dụng chuyển cảnh fade in. m thanh cũng sẽ giảm dần khi hình ảnh chuyển dần sang tối (fade to black) hoặc dần tan ở đoạn cuối phim. Nếu làm mờ dần (fade out) từ scene này sang hình ảnh tối đen toàn bộ (all black screen), thông thường, âm thanh của shot tiếp theo sẽ được làm tăng dần trước khi rõ dần (fade in) xuất hiện. Đây là ví dụ cho việc âm thanh dẫn dắt hình ảnh (sound leading picture).
4. Thời gian (Time) - cũng giống như mờ chồng (dissolve) và gạt xóa (wipe), fade yêu cầu một quãng độ dài phù hợp. Tùy theo từng project mà fade có thể kéo dài từ nửa giây cho tới vài giây. Thông thường, bạn sẽ tự cảm nhận độ dài nào là đủ, vì nếu mở đầu quá lâu tại thời điểm màn hình tối đen mà không có thông tin gì mới ở phần âm thanh thì sẽ gây ra sự cụt hứng, nhàm chán. Đây là ví dụ tốt cho việc bạn nên nghe theo bản năng cá nhân và tự cảm nhận những beat thích hợp nhất để thiết lập thời gian phù hợp theo ngữ cảnh.
Độ dài mặc định cho hiệu ứng chuyển cảnh fade là một giây. Đây rõ ràng là điểm mở đầu tốt nhưng bạn cũng có thể kéo dài lâu hơn phụ thuộc vào mục đích của fade tại thời điểm đó, và tùy thuộc vào thể loại genre của project mà bạn đang dựng. Thông thường, fade không yêu cầu thêm handle frames, nhưng cần tới những frame vốn đã được cắt dựng sẵn ở timeline tại điểm đầu hoặc cuối (head or tail) của shot.
Rõ dần (fade in) và mờ dần (fade out) từ lâu đã thuộc về ngôn ngữ điện ảnh và là công cụ cho người editor khi bắt đầu hoặc kết thúc bất cứ dự án media nào. Chúng có vai trò là chuyển cảnh đến và đi cho những phân đoạn mang phong cách “giống như giấc mơ” (dream like).
Hình 6.8 - Chuyển cảnh mờ dần (fade out) chấm dứt một phân đoạn và dẫn người xem tới chất liệu hình ảnh mới khi nó chuyển qua rõ dần (fade in) tại điểm bắt đầu của hình ảnh đầu tiên trong shot mới (Photo credit: G – Mike Neilan).
Tiếp theo, đón đọc - 5 hạng mục chính của dựng phim