
09/11/2025
𝐔𝐑𝐁𝐀𝐍 𝐋𝐄𝐆𝐄𝐍𝐃 #42
THÁP TRẺ EM – KHI QUAN NIỆM KHIẾN CON NGƯỜI ĐÁNG SỢ HƠN QUỶ DỮ.
Tiểu My lê từng bước trên con đường đất ẩm lạnh, đôi chân yếu ớt run rẩy sau cơn vượt cạn. Trên người cô chỉ là một manh áo mỏng dính má/u, rách bươm, từng mảng ướt lạnh dính bết vào da thịt. Thân hình thiếu nữ chưa đầy hai mươi tuổi vốn mảnh mai, giờ méo mó, tàn tạ như cái xá/c bị vắt kiệt.
Trong tay cô là một bọc vải nhỏ, còn vương mùi tanh nồng. Bên trong, đứa bé gái vừa lọt lòng đang khóc the thé, tiếng khóc mỏng manh mà dồn dập, như một mũi kim xuyên vào màng nhĩ, khiến Tiểu My thấy buồn nôn, bứt rứt.
“Tại sao lại là con gái nữa…?” – Cô tự hỏi, khàn giọng, đôi môi nứt nẻ run rẩy.
Bao nhiêu thuốc thang đã uống, từ những thang thuốc bắc đắng nghét, đến những chén nước đục ngầu được trộn với tro bùa. Bao nhiêu thứ nước lạ, đắng chát, cay xè, chồng và mẹ chồng bắt cô nuốt vào, ép phải tin rằng sẽ sinh con trai. Cô đã khấn vái, đã treo bùa khắp giường chiếu, Vậy mà… tất cả vẫn chỉ để đổi lấy tiếng khóc rền rĩ này – tiếng khóc của một đứa bé gái.
Hình ảnh quê nhà thoáng hiện trong đầu. Tiểu My từng là một thôn nữ nghèo, sống nhờ ruộng khoai cằn cỗi. Cha mẹ cô khi ấy vui mừng lắm khi một “công tử Thượng Hải” tìm đến, hứa hẹn một cuộc sống phồn hoa. Họ gả – hay đúng hơn là bán – cô đi, như bán một con gà, con heo trong nhà.
Thế nhưng khi đặt chân tới thành phố, Tiểu My mới hiểu ra sự thật. “Công tử” kia chẳng qua chỉ là một gã khố rách áo ôm, ngoài mặt chải chuốt, trong người trống rỗng, không nghề nghiệp, không địa vị. Hắn không cưới nổi vợ thành thị, nên mới mò về nông thôn cưới cô gái nghèo dễ bề sai khiến. Cô bị lừa. Và giờ, cũng chẳng thể nào liên lạc được với bố mẹ.
Tiểu My siết chặt bọc vải trong tay. Tiếng khóc non nớt càng lúc càng chói, khiến cô như phát điên. Cô hận. Hận đứa bé này, hận chính má/u mủ mình. “Chỉ cần một đứa con trai thôi… chỉ một đứa thôi, ta đã có thể yên bình… đã thoát khỏi những lời mắng nhiếc, nhục mạ của mẹ chồng…”. Nhưng số phận như trêu ngươi.
Trong tâm trí cô lại dội về ký ức.
Đêm động phòng – buổi tiệc tàn tạ sau ngày rước dâu nghèo nàn. Cô ngồi lặng trong buồng tân hôn, ánh đèn dầu leo lét. Gã chồng đưa ly rượu giao môi, nài ép cô uống. Vị men xộc lên, mắt cô nặng trĩu. Khi tỉnh lại vào sáng hôm sau, toàn thân trần trụi, rã rời, đau buốt. Trên da thịt là vết bầm tím, hằn vết dây thừng. Cô rùng mình, không dám nghĩ tới cách hắn đã lấy đi cái “lần đầu” của cô. Đó không phải là tân hôn, mà là một cuộc hành xá/c.
Tiếng khóc của đứa bé lại ré lên, cô liếc mắt nhìn nó như thể một thứ sinh vật lợm tởm, dây rố/n lòng thòng còn bê bết má/u. ít ra cô còn có thể nhìn nó, dù cô thấy buồn nôn.
“Tại sao lại là con gái nữa….? mày chỉ việc mọc ra một cái đuôi là được thôi mà – cô cay đắng.
Thứ suy nghĩ ấy vừa làm cô phẫn nộ vừa làm cô đau xót. Nó kéo cô về ký ức khác – lần đầu làm mẹ. Khi ấy, trong những tháng ngày mang thai, Tiểu My đã được mẹ chồng chăm chút lạ thường. Cô đã từng hy vọng, từng nghĩ mình tìm thấy chỗ dựa. Nhưng ngay khoảnh khắc đứa bé chào đời, bà mẹ chồng lập tức hét lên giận dữ, rồi thẳng tay n/ém sinh linh bé bỏng ấy xuống đất. Tiểu My chỉ kịp nhìn thoáng một thân hình nhỏ xíu, tím tái, trước khi ngất lịm. Sáng hôm sau, cô mới biết mình sinh con gái. Nó yếu quá, đã t/ắt thở. Gia đình chồng còn không thèm chôn chất nó. Và cô buộc phải ôm cái xá/c lạnh lẽo, nhỏ nhoi ấy đến Tháp Trẻ Em để “a/n táng”.
Cái tháp nhỏ ấy chỉ có một cái lỗ, bên trong tỏa ra mùi hôi thối nồng nặc, người ta nói đó là nơi chôn tập thể của trẻ sơ sinh “không may” qua đờ/i, nhưng cô biết, cái tháp khốn nạn này thật ra là nơi chôn của những trẻ sơ sinh “không may” là con gái. Cô không thể hiểu nổi tại sao lại ghét bỏ các bé gái như vậy, chẳng phải có đàn bà thì mới có đàn ông sao?
Đứa bé trên tay lại khóc, cô lại nhìn đứa con gái trong sự vô cảm cùng cực, lẽ ra mày không nên được sinh ra thì hơn, phận con gái ở cái xã hội này thì việc sinh ra cũng đã là tội rồi.
Đứa bé dường như đọc được suy nghĩ của cô, bàn tay nhỏ bé bấu víu mãi vào cánh tay cô, kéo cô vào thứ ký ức khác.
Sau thời gian nghỉ dưỡng sau đứa con đầu lòng, Cô lại liên tiếp bị nhồi nhét thuốc bổ, nước bùa và đủ thứ nghi thức kì lạ, có lúc cô phải ă/n mười quả tim gà sống mà cô phải lạy lục gã thầy pháp để có thể trụng số tim đó qua nước sôi – thứ bùa cầu con kì lạ - ngày giờ được tính toán kỹ càng, cô lại bị chuốc thuốc mê, cô biết điều đó nhưng dường như nó làm cho cô có khoảng thời gian quên đi, đó là điều cô thực sự muốn.
Cô lại tỉnh dậy trong trạng thái trầ/n trụi, vết bỏng nến loang khắp người. Và cứ thế, cô lại mang thai, lại được tẩm bổ cách đặc biệt đến nỗi cô mơ ước mình được vác cái bụng bầu mãi mãi, hoặc chí ít là có con trai.
Nhưng rồi vẫn tiếng hét giận dữ của mẹ chồng ngay khi đứa con ra đời, lần này có cả sự chứng kiến của gã thầy pháp và hai đứa em chồng, gã thầy pháp bế đứa bé đi ngay, còn cô thì được hưởng một thứ bình yên lạ kỳ, không hề có tiếng mắng chửi của mẹ chồng. Cô chắc mẩm mẹ chồng chắc cảm thông với mình thôi, cùng là phụ nữ mà.
Quả vậy, ngay đêm tối cô được tẩm bổ bởi thứ canh đặc biệt mà mẹ chồng đích thân bưng lên, bà nói đây là loài k/hỉ quý bắt được ở rừng, khuyên cô ăn để mau chóng lại sức….đặng mà có bé trai. Khuôn mặt của bà hiện lên nụ cười quỷ dị, còn thứ nổi lỏng bỏng trong bát canh là một b/àn tay nhỏ xíu xiu.
Con k/hỉ tội nghiệp!
Tiếng khóc đòi ăn lại làm cô bừng tỉnh, cô vẫn bước đi như người không h/ồn. Tháp đã ở xa xa, mùi hôi thối đã chạm tới mũi. Cô tự nghĩ rằng bản thân chưa bao giờ cho đứa bé nào ăn cả, cô có nên cho đứa bé thứ ba này được ăn một chút trước khi bị cô ném vào tháp không?
Không! Nếu mày là con trai thì may ra – thứ suy nghĩ méo mó chảy trong đầu cô, tuôn ra đôi mắt, hình thành một ánh nhìn căm hờn đè nén lên khuôn mặt mếu máo của đứa trẻ.
Cô đã nghe hai đứa em chồng kháo nha/u về khả năng sinh đẻ của chồng cô, chúng nó nói nếu là chúng thì bà mẹ đã có cháu trai bồng từ lâu…. Đám hèn hạ và nghèo mạt hạng như chúng, không thể đàng hoàng kiếm một cô vợ. Còn cô thì lại tiếp tục chuỗi ngày tẩm bổ bằng những thứ rất “vô bổ”, nó khiến cô trở nên tiều tụy hơn bao giờ hết.
Lại đủ ngày đủ tháng, lại một cử chỉ quan tâm khác thường của mẹ chồng và cô lại hôn mê. Mãi đến trưa hôm sau cô mới tỉnh dậy, vẫn trần trụi nhưng ê ẩm gấp vạn lần so với lần trước, hai tay cô bị tr/ói gập về đằng sau, mùi rượu nồng nặc, nhiều vỏ chai nằm la liệt lẫn với những mảnh quần áo bị x/é vụn. Cô biết điều gì đã xảy ra, nhưng đối với cô một con cầm thú hay ba con cầm thú cũng chẳng khác gì nhau.
Những ngày tiếp theo đối với cô như thiên đường, cô có dấu hiệu của một đứa con trai, dáng bụng, thời gian nghén đều hợp với mọi dự đoán. Mẹ chồng cô đon đả chăm sóc cô từng ti từng tí. Bà ta nói một cách trắng trợn: “con ai thì cũng là cháu của nhà này”. Bà ta hứa hẹn sẽ không bắt cô đẻ thêm đứa nào nữa. Nhưng đối với cô thì chẳng còn chút lòng tin nào vào những người đứng trước mặt cô nữa.
Ngày sanh nở kết thúc vội vàng những ngày tháng bình yên, và thật sự là kết thúc thật, trái với kì vọng của cô – một bé gái lại cất tiếng khóc chào đời – cả gia đình chồng nín lặng, gã thầy pháp ở đấy cũng nín lặng, song hắn ta vẫn nhìn cô một cách hậm hực như thể vừa đánh mất một món hời.
Bọn họ đẩy cô ra ngoài sân khi nha/u còn chưa ra hết, cô lấy vội cái khăn quấn cho đứa bé rồi lủi thủi đi đến chỗ phải đến.
Tháp trẻ em.
Tiểu My đứng trước tòa tháp đen ngòm, mưa phùn rả rích quất lên mái tóc rối bời. Trong màn ẩm ướt, cô nghe mơ hồ tiếng khóc trẻ thơ hòa cùng những tiếng cười khanh khách vang lên từ lòng tháp, khiến sống lưng lạnh buốt. Nén hơi, cô cúi nhìn qua khe hở: mùi t/ử khí ập ra nồng nặc, đặc quánh, như má/u và xá/c thối lâu ngày. Trong khoảnh khắc, mắt cô nhòe đi, và nơi đáy tháp hiện lên cảnh tượng kinh hoàng—hàng chục đứa bé nhầy nh/ụa, bò trườn, tiếng khóc réo rắt va đập vào nha/u, như những linh hồn bị nhốt.
Tiểu My ôm chặt đứa con gái bé nhỏ, trong đầu dội lên bao nhiêu câu hỏi. Cô nghĩ về cuộc đời mình, về những năm tháng bị chà đạp, về phận đàn bà chỉ được phép sinh con trai. Thế nhưng, từ sâu thẳm, bản năng làm mẹ dấy lên như ngọn lửa cuối cùng. Cô run rẩy quyết định: không, đứa bé này sẽ không bị ném vào đó. Cô sẽ ôm con mà bỏ trốn.
Nhưng bóng đen ập đến—gã chồng và lũ anh em hu/ng hãn đã kịp bắt được. Tiếng vu oan ngoại tình, tiếng rủa xả tội lỗi bủa vây, như xé toạc bầu trời mưa gió của cái thời “phố không ra phố, làng không ra làng” ở Thượng Hải lẫn lộn cũ mới. Họ nhốt cô vào rọ tre, mạt sát bằng những lời hèn hạ, rồi nhét đá, khiêng ra bờ sông lạnh lẽo.
Trong giây phút cuối cùng, Tiểu My không gào thét. Cô chỉ nhìn đứa bé gái đang khóc đòi sữa, rồi mở áo, áp con vào bầu ngực tím tái. Lần đầu tiên, cũng là lần cuối cùng trong đời, cô được làm một người mẹ đúng nghĩa—giữa tiếng mưa, tiếng chửi rủa, và cái chết đang chờ ngay dưới lòng sông đen ngòm.
Nước sông lạnh buốt nuốt chửng lấy thân thể Tiểu My cùng đứa bé gái. Tiếng ào ạt vang dội, rồi tất cả chỉ còn là bóng tối mịt mùng. Rọ tre nặng đá chìm xuống, nước tràn vào phổi, khiến ngực cô nhói buốt như bị hàng ngàn mũi dao đâm. Trong giây phút ấy, Tiểu My vẫn cố ghì chặt đứa bé vào ngực, mặc cho dòng sông xiết muốn xé toạc cả hai.
Đứa bé gái khóc ngằn ngặt rồi yếu dần, miệng áp chặt vào bầu sữa mẹ. Dòng sữa loãng hòa lẫn với dòng nước đục ngầu, như dấu ấn cuối cùng của một mối dây má/u mủ. Tiểu My mở mắt trong màn nước xanh thẫm, thấy những vệt sáng nhòe đi, dần biến thành khuôn mặt những đứa trẻ dưới tháp—chúng cười, chúng khóc, chúng vươn tay về phía cô.
Hơi thở cuối cùng rời khỏi thân thể, nhưng trên môi Tiểu My thoáng qua một nụ cười mờ nhạt. Lần đầu tiên, và cũng là lần cuối cùng, cô không còn thấy oán hận, chỉ còn lại tình thương tuyệt vọng. Rồi cả hai chìm hẳn vào đáy sông, để lại trên mặt nước những gợn sóng lăn tăn, như lời thì thầm bất tận của bao số phận đàn bà và trẻ thơ bị vùi lấp trong bóng tối.
Từ đó, người ta truyền rằng, đêm mưa phùn bên bờ sông Thượng Hải, nếu lắng tai, vẫn nghe tiếng trẻ con khóc hòa lẫn tiếng hát buồn bã—giọng hát của một người mẹ không bao giờ siêu thoát.
……………………………..
Tháp Trẻ Em (Infant Tower) là một hạng mục từng tồn tại ở Trung Quốc, chủ yếu vào thời kỳ phong kiến và cả đến thế kỷ 19–20. Đó là những công trình gạch đá nhỏ, hình tháp hoặc mộ tập thể, có một cửa lỗ để bỏ xác trẻ sơ sinh. Bề ngoài, người ta nói đây là nơi a.n táng những trẻ “chết yểu”, nhưng thực tế phần lớn là bé gái bị gia đình vứt bỏ ngay sau sinh vì quan niệm trọng nam khinh nữ.
Trong xã hội truyền thống Trung Quốc, đặc biệt dưới chế độ nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo, con trai được coi là trụ cột nối dõi tông đường, có quyền thừa kế đất đai, thờ cúng tổ tiên và gánh vác gia đình. Trái lại, con gái bị xem là “con người ta”, lớn lên rồi gả đi, không “giữ của” cho nhà cha mẹ. Vì vậy nhiều gia đình nghèo, khi sinh con gái, coi đó là gánh nặng, thậm chí bất hạnh. Tình trạng này dẫn đến nhiều bi kịch: bỏ rơi, giết hại hoặc đưa bé gái vào tháp trẻ em.
Những tháp này ngày nay trở thành chứng tích rùng rợn, phản ánh nỗi đau của hàng ngàn phụ nữ và trẻ nhỏ, đồng thời là biểu tượng đen tối cho tư tưởng trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào xã hội Trung Hoa cổ truyền.
-HÃI-