Saigon Nhỏ

Saigon Nhỏ Contact information, map and directions, contact form, opening hours, services, ratings, photos, videos and announcements from Saigon Nhỏ, News & Media Website, Westminster, CA.

NHÀ VĂN SƠN NAM, KỶ NIỆM 17 NĂM VỀ LẠI ĐẤT MẸ – MIỆT THỨ--Nhà văn Sơn Nam (11 Tháng 12, 1926 – 13 Tháng 8, 2008)Ngoài tà...
08/18/2025

NHÀ VĂN SƠN NAM, KỶ NIỆM 17 NĂM VỀ LẠI ĐẤT MẸ – MIỆT THỨ
--
Nhà văn Sơn Nam (11 Tháng 12, 1926 – 13 Tháng 8, 2008)

Ngoài tài viết văn và am hiểu sâu sắc vùng đất Nam Bộ, nhà văn Sơn Nam còn là người rất thẳng thắn, dám lên tiếng bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống và con người bình dị miền Nam.

Ông từng được một số đạo diễn người Pháp mời làm cố vấn phong tục văn hóa trong việc dựng phim L’amant (The Lover – Người Tình), nhằm giữ cho cảnh phim đúng bản sắc vùng Nam Kỳ xưa. Trong một cảnh đám cưới tại chợ Sa Đéc, có mấy chục ông già, bà lão đóng vai nhà trai, nhà gái.

Khi đến giờ nghỉ trưa, ông nhìn thấy các cụ diễn viên phụ ngồi bệt dưới đất ăn cơm, trong khi cả đoàn phim vào nhà hàng sang trọng dùng bữa. Sơn Nam tức giận đứng giữa nhà lồng chợ gọi đạo diễn ra nói chuyện. Chủ nhiệm đoàn phim vội vàng ra lệnh nhân viên dọn bàn ghế mời các ông bà diễn viên ăn cơm tử tế.

Điều đó cho thấy Sơn Nam không chỉ là người am tường văn hóa mà còn rất trân trọng con người bình dị, không để ai bị xem thường dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Ông học tiếng Pháp đủ để đối đáp, thậm chí “xổ” tiếng Tây rổn rảng như bẻ mía, cự nự các vị Tây đạo diễn rằng ít ra họ cũng nên biết nghe và tôn trọng phong tục địa phương, chớ đừng xem thường những con người quê mùa, vốn mang nặng văn hóa sông nước Miền Tây.

Nhưng sang thời cộng sản, mọi chuyện khác hẳn. Cái “đàn khảy tai trâu” – cách Sơn Nam gọi chế độ áp đặt, không muốn nghe gì cả, dù là tiếng nói của chính người dân.

Bà con mình ai cũng từng bực bội, bị hành hạ vì cái “hộ khẩu” của chế độ mới chiếm miền Nam. Những người làm văn chương như Sơn Nam cũng thường xuyên bị công an khu vực sách nhiễu, gây khó dễ. Ai mà không bực mình?

Nhớ lại đám tang nhà thơ Bùi Giáng, có những người tai to mặt lớn tới đi đám. Sơn Nam được Hội Nhà Văn mời đọc điếu văn. Đây là cơ hội để ông nhắn nhủ: “Anh Giáng ơi! Sinh thời anh ăn mặc xốc xếch, áo trong dài hơn áo ngoài… nhưng văn thơ anh ngay ngắn đường hoàng. Anh không nề hà cháo chợ cơm hàng, cả cơm thừa canh cặn, nhưng câu chữ anh dùng sạch sẽ, ý tứ sáng trong. Cả đời anh lang thang, khi chùa khi chợ không cố định đâu đâu. Mà bữa nay anh đi có quân canh lính gác, có vòng hoa của thành ủy, ủy ban, có Hội Nhà Văn, vậy là anh có hộ khẩu Sài Gòn rồi đó nghe anh.”

Lời nói chua chát đó như ngậm ngùi cho cái chính sách hộ khẩu ác ôn, khiến cho những người dân lương thiện bị đày đọa, bị kiểm soát, kềm kẹp.

Trong truyện “Âm dương cách trở” của Sơn Nam, ông già hớt tóc vỉa hè bị công an khu vực xét hộ khẩu. Ông già nói: “Tôi sống ở đây gần trọn một đời người, chỉ biết mình là công dân của Tổ Quốc Việt Nam thôi.”

Tay công an hỏi: “Vậy theo ông thế nào là Tổ Quốc?”

Ông già trả lời: “Với tôi, Tổ Quốc là một nơi kiếm sống được bằng một việc lương thiện nào đó, không bị ai làm khó dễ, có vài người bạn chơi được, không ba trợn.”

Đó chính là lời khẳng định hồn nhiên, giản dị nhưng đầy ý nghĩa về tình quê, về cuộc sống bình yên mà ông già hớt tóc ấy và Sơn Nam đều khao khát.

Tóm lại, chính sách hộ khẩu của CS để theo dõi, kiểm soát người dân lương thiện là một chính sách độc đoán, phi lý và điên rồ của những kẻ hoang tưởng, nghi ngờ khắp mọi nơi.
Nhà văn chỉ có cây bút trong tay, ngoài ra chẳng có quyền lực nào để bảo vệ mình. Khi gặp những chuyện trái tai g*i mắt, ông chỉ biết “sùy” ra một chút qua các tác phẩm để vơi bớt nỗi tức giận.

Ông vốn là người hiếu hòa, chín bỏ làm mười, luôn nói: “Với tôi, hạnh phúc lớn nhất là không gây thù chuốc oán với ai, không ai ghét mình. (Nếu lỡ người ta oán ghét mình thì cũng đành cam chịu!) Chỉ cần có người tới thăm nói dóc chơi.”

Có lẽ từ thuở bé, mẹ ông đã dặn dò: “Đi học xa nhà, thân thể ốm yếu, tránh đừng sanh sự với ai. Lỡ có chuyện gì thì hổng ai binh!”

Sau năm 1975, khi đất nước đổi thay, Sơn Nam cũng đổi đời theo chiều hướng khó khăn, từ nghèo thành… mạt.

Trong bài viết “Cầu xin hai chữ bình an,” ông kể lại những ngày đầu Sài Gòn thất thủ, khi nhiều người tới “kiếm cơ sở” xác nhận thân phận ông. Ông thẳng thắn nói: “Tôi không phải đảng viên cộng sản, không có dính líu với cơ sở nào cả. Có chăng tôi là thành viên ban chấp hành Hội Văn Bút (Pen Club), một tổ chức nghe ra có vẻ ‘quốc tế’ nhưng chắc không được ưa thích.”

Nhiều người bạn hiền lành thủ thỉ chuyện “vượt biên,” nhưng ông không mặn mà. Ông chẳng biết tiếng Anh, nghĩ rằng biết chút ít tiếng Pháp là đủ rồi. Dòng họ, bà con đều còn ở U Minh, ông quan điểm rằng: “Quê hương là đủ rồi.”

Mười năm – một quãng thời gian ngắn trong lịch sử văn học, nhưng ông tin rằng ngày tự do và quyền tự do ngôn luận sẽ trở lại, trắng đen sẽ rõ ràng.

Những tác phẩm quý báu của ông, nếu loại bỏ những đoạn bị thêm vào bởi bọn bồi bút văn nô cộng sản, sẽ được lớp hậu sinh chùi rửa sạch vết nhơ để tỏa sáng.

Tin tôi đi! Nhà văn Sơn Nam là một biểu tượng lớn của vùng đất Nam Kỳ, của miền đồng bằng sông Cửu Long với bao nhiêu câu chuyện, con người, và phong tục tập quán.

Ông là người yêu thương đất đai quê hương, dành trọn đời mình để viết, để lưu giữ những hình ảnh chân thật, giản dị mà sâu sắc về miền Nam.
Tình yêu và sự thủy chung của ông với văn chương và quê hương mãi còn trong ký ức và trái tim những người yêu văn hóa Nam Kỳ Lục tỉnh.

Đó cũng là niềm an ủi lớn lao cho những người cầm bút như ông, những người sống với cây bút như người bạn tri kỷ, để tiếp nối công cuộc giữ gìn và phát triển văn hóa dân tộc.

Miệt Thứ Sơn Nam

Sơn Nam, tên thật là Phạm Minh Tài, sinh ngày 11 Tháng Mười Hai, 1926 tại làng Đông Thái, quận Phước Long, tỉnh Rạch Giá (thời Pháp thuộc). Làng Đông Thái, thuộc Miệt Thứ. Theo sách Đại Nam Nhứt Thống Chí, Miệt Thứ là vùng Lâm Sác, vùng Thập Câu, Thập nghĩa là mười, Câu là ngòi nước từ rừng U Minh Thượng chảy ra biển Rạch Giá.

Ông Huỳnh Tịnh Của trong Đại Nam Quốc Âm Tự Vị giải thích: “Miệt là xứ, miền, một dãy đất.” Có Miệt trên (Biên Hòa, Gia Định, Bà Rịa), Miệt Cao Lãnh, Miệt Đồng Tháp Mười, Miệt Xà Tón, Tri Tôn Thất Sơn, Châu Đốc; Miệt dưới là vùng Rạch Giá, Cà Mau. Miệt vườn là vùng đất gò, giồng, đất phù sa phì nhiêu, thích hợp trồng cam, quýt, cây trái khác… Sống bằng nghề làm vườn đỡ vất vả hơn làm ruộng, nên có nhiều thành ngữ như “gái vườn,” “công tử vườn,” “điếm vườn,” “dân chơi miệt vườn”…

Sơn Nam viết trong tác phẩm “Văn Minh Miệt Vườn” nói về vùng đất ven sông Tiền, sông Hậu thuộc Sa Đéc, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Cần Thơ.

Miệt Thứ là tên một vùng đất sinh ra biết bao thế hệ, từ Miệt Thứ Hai cho đến Miệt Thứ Mười Một. Nhà Miệt Thứ lợp lá dừa nước. Nếu lựa lá tốt và lợp kỹ, mái lá có thể tồn tại đến 5 năm mới phải thay.

Đất kinh rạch chằng chịt, lung, bàu, vì vậy phải dùng xuồng ba lá để đi lại, đi thăm câu, giăng lưới, hay qua chợ, đi dự đám giỗ, đám cưới, thôi nôi đầy tháng. Xuồng ba lá ghép từ hai tấm ván bên và một tấm ván đáy rất nhẹ nhàng tiện lợi.

Vùng Miệt Thứ có nhiều chợ mang tên các thứ trong tuần: chợ Thứ Ba, Thứ Sáu, Thứ Bảy, Thứ Tám, Thứ Chín, Thứ Mười Một, đều nằm ở ngã ba, ngã tư kinh, rạch nước. Giống như chợ nổi ở nhiều nơi khác, các ghe xuồng dùng một cây sào ngắn gọi là cây bẹo cắm trên mũi để báo hiệu mặt hàng họ bán.

Miệt Thứ là miền đất rừng xa xôi, hiểm trở, đất thấp nhiều than bùn, muỗi mòng nhiều vô kể. Xa xôi cách trở khiến cô gái Miệt Vườn lấy chồng Miệt Thứ phải chịu nhiều thiệt thòi, nhớ nhà đến rưng rưng:
“Đêm đêm ra đứng hàng ba,
Trông về quê mẹ lệ sa buồn buồn.”

Trong khi thường thì:

“Mẹ mong gả thiếp về vườn,
Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh.”
Thì lại tréo cẳng ngỗng, cô gái bị cha mẹ ép gả về Miệt Thứ:
“Sương khuya ướt đẫm giàn bầu,
Em về Miệt Thứ bỏ sầu cho qua.”

(Trích ca dao miền Nam)

Ngày cưới cô dâu, nhà trai họp mặt nhậu say sưa:

“Bữa nay nhà nhóm họ,
Bà con nhậu như điên,
Tượu rót tràn như suối!
Qua gánh bao đôi nước,
Phồng rộp một bên vai,
Củi chẻ bao nhiêu thước,
Dằm sướt, rướm máu tay.
(Thơ Đoàn Xuân Thu)

Miệt Thứ còn nổi tiếng với nhiều ca dao nhắc về sợ hãi những cảnh vật và thú rừng nơi đây:

“Tới đây xứ sở lạ lùng,
Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng ghê,
Chèo ghe sợ sấu cắn chân,
Xuống sông sợ đỉa, lên rừng sợ ma,
Cà Mau khỉ khọt trên bưng,
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.”

Vùng đất miền Nam từng sản sinh nhiều nhà văn lớn: Hồ Biểu Chánh (1885-1958), Vương Hồng Sển (1902-1996), Nguyễn Hiến Lê (1912-1984), Bình Nguyên Lộc (1914-1987), và Sơn Nam (1926-2008) – một trong những người có công lớn viết về miền Tây.

Ông nội của nhà văn Sơn Nam từng lập nghiệp ở Miệt Thứ ven rừng U Minh Thượng, giao hòa giữa người Việt, người Khmer và người Tiều. Sau Hiệp định Genève, ông Sơn Nam lên Sài Gòn tìm kế sinh nhai. Nhà văn Bình Nguyên Lộc từng khuyên ông: “Nên viết về đất và người vùng châu thổ sông Cửu Long” mới có đề tài để sáng tác dài lâu, để sống chết được với nghề văn.

Từ đó, Sơn Nam ghi dấu ấn qua tuyển tập truyện ngắn Hương Rừng Cà Mau nổi tiếng do nhà xuất bản Phú Sa của bạn ông là nhà văn Ngọc Linh ấn hành. Nhưng về sau, ông thiên về biên khảo với hàng loạt tác phẩm như: Văn Minh Miệt Vườn, Tìm Hiểu Đất Hậu Giang, Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam, Vạch Một Chân Trời và gần 60 tác phẩm khác, tạo nên một gia tài đồ sộ.

Ông từng tự vẽ con đường mình đi qua mấy câu thơ:

“Phong sương mấy độ qua đường phố,
Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê.”

Phong sương, nên ông ăn mặc xuề xòa, thích đi bộ qua các phố phường để dễ la cà, hút thuốc, uống cà phê. Có tiền nhuận bút, ông nhâm nhi vài chai “la ve” với bạn bè văn chương. Gặp bè bạn, ông chỉ nói chuyện văn chương. Còn chuyện bên lề, ông xem nhẹ: “Ối! Hơi đâu?”

Ông chơi bạn như thầy phái viên báo Chim Trời với ông nông dân Tư Có trong truyện Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư của ông, chuyện một phái viên nhà báo từ Sài Gòn xuống thu tiền độc giả tận miền quê heo hút dưới Rạch Giá. Vì muỗi nhiều, sau cơm chiều, chủ nhà giăng mùng mời thầy phái viên chun vào cho đỡ bị muỗi cắn. Thầy phái viên ngượng nghịu, nhưng cũng phải lẹ lẹ chui vào mùng, sợ sốt rét. Hai người xa lạ cùng thuộc làu nhiều đoạn trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư, đọc to lên và cùng gật gù đồng ý.

***

Sơn Nam sống giản dị, không màng danh vọng, không thích được xưng tụng. Ông ứng xử nhẹ nhàng với cuộc đời, biết thích nghi với hoàn cảnh để theo đuổi nghề văn:

“Tới đây thấy vịt cũng lùa

Thấy duyên cũng kết, thấy chùa cũng tu.”

Ông chọn nghề văn, dù nghèo, như quê hương Miệt Thứ của ông: “Xứ mình nghèo quá, mình được đi học, Phải làm cho người ta biết đến xứ mình như thế nào.”

Nhờ công lao của nhà biên khảo Sơn Nam mà bà con biết kha khá về miền Tây thời khẩn hoang. Dù chưa đủ đầy, nhưng ai nối tiếp sự nghiệp ấy, hẳn còn là câu chuyện tương lai.
Giờ đây, trong nước có những âm thanh rầm rộ, đánh trống thổi kèn tưng bừng, ỏm tỏi về đất miền Tây, nhưng chỉ là đồ giả kim, so với công trình của ông.

Nhà văn Sơn Nam qua đời cách nay đúng 17 năm, ngày 13 Tháng Tám, 2008 tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, hưởng thọ 82 tuổi.

ơn Nam, tên thật là Phạm Minh Tài, sinh ngày 11 Tháng Mười Hai, 1926 tại làng Đông Thái, quận Phước Long, tỉnh Rạch Giá (thời Pháp thuộc).

HÀ NỘI MƠ GIÀU CÓ VỚI QUYỀN LÃNH ĐẠO ĐỘC TÀI--Tháng Tám 2025, tại Trường Đảng Trung ương ở Hà Nội, Tổng Bí thư Tô Lâm tu...
08/17/2025

HÀ NỘI MƠ GIÀU CÓ VỚI QUYỀN LÃNH ĐẠO ĐỘC TÀI
--
Tháng Tám 2025, tại Trường Đảng Trung ương ở Hà Nội, Tổng Bí thư Tô Lâm tuyên bố khởi động “một kỷ nguyên phát triển mới,” đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một quốc gia giàu có vào năm 2045, sánh ngang các “con hổ kinh tế” châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore. Đây là tầm nhìn đầy tham vọng, gắn với kỳ vọng nâng tầm quốc gia sau nhiều thập kỷ tăng trưởng dựa trên 2 yểu tố chính: xuất khẩu và lao động giá rẻ.

Tuy nhiên, ước mơ của Tô Lâm đang phải đối diện hàng loạt thách thức nội tại: cơ cấu dân số già hóa trước khi kịp giàu, phụ thuộc lớn vào xuất khẩu giá rẻ với cựu thù Hoa Kỳ, mô hình phát triển chủ yếu sao chép từ Trung Quốc nhưng kém, bởi giữ vị trí làm thuê mà không phát triển khoa học cộng nghệ.

Nhưng quan trọng hơn hết, là sự mâu thuẫn giữa khát vọng phát triển kinh tế kiểu tư bản với cơ chế lãnh đạo độc tài cộng sản.

Kế hoạch 2045: Các giấc mơ ban ngày

Hà Nội nhìn vào Hàn Quốc, Nhật Bản và thậm chí là Thái Lan, nuôi giấc mơ về sự giàu có. Các kế hoạch, dự án được quăng ra hối hả, đều là dự định lặp lại “câu chuyện thành công” của Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore: đầu tư hạ tầng hoành tráng, thúc đẩy công nghệ cao như chip, trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo; mở trung tâm tài chính quốc tế ở Sài Gòn và Đà Nẵng; hợp nhất 63 tỉnh thành xuống còn 34 để “tinh gọn bộ máy”.

Nghe có quen không? Đúng vậy, đó là bản sao gần như gần như toàn bộ từ sách hướng dẫn “làm giàu” của Trung Quốc — chỉ khác là Trung Quốc làm trong bối cảnh họ đã tích lũy đủ sức mạnh công nghiệp, còn Việt Nam vẫn chủ yếu sống nhờ mồ hôi công nhân lao động xuất khẩu giày dép, quần áo và lắp ráp điện thoại.

Và ngay cả “cải cách thể chế” cũng có một điều kiện tiên quyết: mọi thứ phải diễn ra trong trật tự do Đảng định sẵn. Thế nên, tinh gọn bộ máy không phải để dân chủ hóa, mà để kiểm soát hiệu quả hơn. Đây là kiểu “cải cách” mà ở ngoài nhìn vào tưởng như hiện đại hóa, nhưng bên trong vẫn giữ nguyên hệ điều hành… Windows 98.

Hà Nội không còn cơ hội lợi dụng sức dân để làm giàu

Một trong những rủi ro lớn nhất là vấn đề dân số. Theo dự báo, giai đoạn “dân số vàng” của Việt Nam – khi số người trong độ tuổi lao động vượt trội so với người phụ thuộc – sẽ kết thúc vào năm 2039. Chỉ ba năm sau đó, lực lượng lao động đạt đỉnh và bắt đầu suy giảm.

Điều này đồng nghĩa, nền kinh tế sẽ phải gánh chi phí an sinh xã hội tăng nhanh, trong khi năng suất lao động chưa đạt mức của các quốc gia giàu. Nguy cơ “già trước khi giàu” là có thật, và nếu không cải thiện nhanh năng suất, Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn 2045 với cấu trúc dân số bất lợi, kìm hãm tăng trưởng dài hạn.

Việt Nam vẫn lún trong chuyện bán sức lao động giá rẻ

Trong hơn hai thập kỷ qua, xuất khẩu dựa trên lao động giá rẻ và lắp ráp linh kiện nhập khẩu là động lực chính của tăng trưởng. Năm 2024, Việt Nam đạt thặng dư thương mại kỷ lục 123,5 tỷ USD với Mỹ. Nhưng cũng chính sự phụ thuộc này khiến kinh tế dễ bị tổn thương trước biến động thương mại quốc tế.

Việc Mỹ áp thuế 20% lên hàng hóa Việt Nam (và cao hơn với hàng nghi ngờ có nguồn gốc từ Trung Quốc) là một cảnh báo rõ ràng: mô hình “gia công giá rẻ” không còn bền vững. Để lên chuỗi giá trị, Việt Nam cần phát triển thương hiệu, thiết kế sản phẩm và công nghệ lõi – những lĩnh vực hiện vẫn yếu.

Học mô hình Trung Quốc, nhưng thiếu điều kiện để thành công

Chiến lược phát triển của Việt Nam thể hiện rõ ảnh hưởng từ mô hình Trung Quốc: tạo ra các “nhà vô địch quốc gia” trong lĩnh vực công nghệ, mở trung tâm tài chính đặc biệt, đầu tư hạ tầng khổng lồ, kết hợp kinh tế thị trường định hướng nhà nước. Đó là chưa nói, chuyện tung hô “ảo” các doanh nghiệp trong nước cũng là một mặt của nền kinh tế “mồm”.

Chưa kể, một phần hàng hóa xuất khẩu vẫn lệ thuộc và nguyên liệu và chi tiết từ Trung Quốc, điều khiến Việt Nam trở thành nạn nhân trong cuộc chiến thuế với Hoa Kỳ. Hà Nội mơ sẽ có những tập đoàn, công ty lớn như Nhật, Hàn… để bước sang lĩnh vực giá trị cao hơn, nhưng lại thiếu hẳn các thương hiệu mạnh, thiếu khả năng tự thiết kế sản phẩm — điều mà không thể giải quyết chỉ bằng ưu đãi thuế và vài hội nghị xúc tiến đầu tư.

Doanh nghiệp tư nhân – “lực lượng quan trọng nhất” nhưng chưa được giải phóng

Nghị quyết 68 của Đảng Cộng sản Việt Nam lần đầu tiên gọi doanh nghiệp tư nhân là “lực lượng quan trọng nhất” của nền kinh tế. Điều này cho thấy các lý thuyết kinh tế cộng sản đã hoàn toàn thay đổi, hay nói cách khác là sụp đổ từ chính Ba Đình. Tuy nhiên, thực tế cho thấy doanh nghiệp tư nhân vẫn bị hạn chế bởi các rào cản thể chế: khó tiếp cận vốn tín dụng, bị lép vế trước các tập đoàn nhà nước trong đấu thầu và phân bổ nguồn lực, chịu gánh nặng thủ tục hành chính.

Phần lớn các tập đoàn đa quốc gia hiện diện ở Việt Nam vẫn hoạt động ở khâu lắp ráp, và doanh nghiệp nội địa chỉ tham gia ở phần giá trị thấp của chuỗi cung ứng. Nếu không có cải cách mạnh mẽ để đảm bảo sân chơi bình đẳng, doanh nghiệp tư nhân khó có thể trở thành động lực đổi mới và cạnh tranh quốc tế.

Biến đổi khí hậu – Cửa sổ cơ hội đang hẹp lại

Bên cạnh các yếu tố kinh tế – xã hội, biến đổi khí hậu là thách thức ngày càng lớn. Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ nước biển dâng và bão lũ. Ngân hàng Thế giới dự báo nếu không hành động quyết liệt, đến năm 2050, thiệt hại từ biến đổi khí hậu có thể lên tới 12–14,5% GDP mỗi năm.

Việc phát triển công nghiệp và hạ tầng nếu không đi kèm các biện pháp thích ứng và giảm phát thải sẽ khiến những khoản đầu tư lớn bị đe dọa ngay trong vài thập kỷ tới. Điều này có nghĩa Bộ Chính Trị Ba Đình phải bắt đầu ngồi xuống và tập đọc những bài phân tích về vấn đề khí hậu, chuyện ảnh hưởng đến quốc gia từ các tổ chức xã hội dân sự độc lập, chứ không phải từ các báo cáo ve vuốt bởi các nhóm được nhà nước nuôi dưỡng. Ít nhất, thì Hà Nội cũng phải bắt đầu nghĩ đến chuyện trả tự do cho những người đấu tranh hay hoạt động vì môi trường bị chụp mũ chính trị.

Thích giàu có như tư bản, trong chọn độc tài

Điểm mâu thuẫn cốt lõi của Hà Nội nằm ở chỗ: một nền kinh tế tư bản giàu mạnh cần môi trường cạnh tranh tự do, bảo vệ quyền sở hữu, minh bạch pháp lý và khuyến khích sáng tạo. Trong khi đó, chế độ lãnh đạo độc tài lại ưu tiên kiểm soát chính trị, duy trì sự ổn định theo nghĩa “không để mất quyền lực”, và phân bổ nguồn lực dựa trên quan hệ chính trị – kinh tế.

Sự thao túng từ các nhóm lợi ích trong bộ máy, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước được ưu ái, sẽ làm chậm hoặc chặn đứng các cải cách có khả năng đe dọa trật tự hiện tại. Do đó, dù khẩu hiệu “kinh tế tư nhân là động lực” được nêu rõ, việc thực thi vẫn bị giới hạn bởi các nguyên tắc bảo vệ quyền lực chính trị tuyệt đối. Nói như trên, đó là nền kinh tế “mồm”.

Nói cho cùng, mục tiêu đưa Việt Nam thành quốc gia giàu có vào năm 2045 là một tầm nhìn đáng khích lệ. Nhưng để biến tầm nhìn thành hiện thực, cần vượt qua các rào cản: nâng năng suất trước khi dân số già hóa, giảm phụ thuộc vào xuất khẩu giá rẻ, xây dựng năng lực công nghệ và thương hiệu nội địa, đồng thời thực hiện cải cách thể chế sâu rộng. Nhất là rào cản của tư duy cộng sản độc tài.

Nếu những rào cản về thể chế không được tháo gỡ, cải cách chỉ dừng ở mức bề mặt và quyền lực tiếp tục tập trung trong một nhóm nhỏ, khả năng đạt được mục tiêu 2045 sẽ bị thu hẹp và có thể dai dẳng bất khả thi. Khi đó, Việt Nam có thể vẫn tăng trưởng, nhưng khó vươn lên nhóm quốc gia giàu – và “con hổ kinh tế” sẽ chỉ dừng lại ở mồm, khẩu hiệu trơ của mấy chục ngàn dư luận viên dốt nát.

Tháng Tám 2025, tại Trường Đảng Trung ương ở Hà Nội, Tổng Bí thư Tô Lâm tuyên bố khởi động “một kỷ nguyên phát triển mới,” đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một quốc gia giàu có vào năm 2045, sánh ngang các “con hổ kinh tế.....

VUI BUỒN VỚI CHUYỆN PHÁT HÀNH SÁCH--Nhân đọc bài của tác giả Diễm Châu Cát Đan Sa tâm sự chuyện triển lãm phát hành tran...
08/17/2025

VUI BUỒN VỚI CHUYỆN PHÁT HÀNH SÁCH
--
Nhân đọc bài của tác giả Diễm Châu Cát Đan Sa tâm sự chuyện triển lãm phát hành tranh của chị qua bài “Chuyện Bé Vui” đăng báo Viên Giác số 254, tôi chạnh lòng nghĩ đến chuyện phát hành sách của mình và xin tâm sự sau đây.

Nhiều người đọc báo, đọc sách, nói chung là cầm tờ báo, cuốn sách trên tay… ít ai biết được công việc của người sáng tạo ra nó và chuyển đến tay người đọc như thế nào. Tôi không làm báo nên không dám bàn luận ở đây, chỉ xin kể về chuyện viết sách, in sách rồi phát hành sách của mình thôi.

Tôi vốn từ nhỏ có thành kiến “báo nói láo ăn tiền,” “nói văn vẻ để phỉnh gạt thiên hạ,” nên tôi không bao giờ đọc báo, đọc sách ngoại trừ đến trường bị ép học thôi. Do vậy, tôi rất dốt môn luận văn thiếu điều đội sổ. Đã không yêu văn chương, thì mơ gì thành…văn sĩ chứ?!

Thế nhưng cuộc đời đẩy đưa, chứng kiến bao sự xáo trộn lộn tùng phèo của xã hội, đất nước, nhất là sau 1975 mà tôi vừa là nhân chứng vừa là nạn nhân đã khiến tôi muốn cất tiếng than cho vơi niềm uất hận. Nhưng hỡi ơi, thời đó, “có mắt cũng như mù, có tai như điếc, có miệng phải câm”. Bao dồn nén, chỉ còn trút xuống cây viết, ban đầu chỉ là những trang nhật ký, ghi lại những buồn vui diễn tiến trong ngày. Viết riết thành văn hồi nào không hay, rồi cứ thế, trút, trút hết bao phiền muộn uẩn khúc trong lòng để giải tỏa bao nỗi khổ niềm đau chất chứa bấy lâu, dù âm thầm viết chỉ để riêng mình đọc, hoặc cất đi đợi thời. Cho đến lúc vượt biên ra hải ngoại, tôi ghi lại tất cả những gì tôi chứng kiến rồi tung ra, được độc giả chiếu cố, tôi cứ thế viết tiếp, kể hết chuyện này đến chuyện khác, khi đủ một tập sách, có người… xúi dại in sách thì in thôi.

Cuốn sách đầu tiên tôi in là tập truyện “Giấc Mơ Xưa” vào năm 1993 do chùa Viên Giác ấn hành. Ngoài tiền in ấn cũng khá bộn, lặn lội từ Thụy Sĩ sang Đức ra mắt sách tại chùa Viên Giác cũng lắm nhiêu khê. Sách in 500 cuốn, tôi nhận về 200 cuốn. Phần còn lại để chùa Viên Giác phát hành. Cũng may hôm đó đi xe hơi cùng người bạn thăm chùa mới chở nổi số sách nặng nề đó, nhưng cũng mất 12 tiếng dọc đường từ nhà mới đến nơi.

200 cuốn mang về, phát hành sao đây khi cộng đồng Việt Nam tại Thụy Sĩ sống rải rác chỉ đếm trên đầu ngón tay. Cũng may thời đó sinh hoạt văn nghệ rộn ràng. Thiên hạ hay tổ chức tạo cơ hội gặp gỡ nhau cho vơi nỗi buồn xa xứ. Nhờ tôi có chút năng khiếu, chẳng những thích múa và đóng kịch còn sáng tác được để tập cho ban văn nghệ, tôi được chiếu cố mời tham gia, nhân đó xin phép quảng cáo sách trên sân khấu và bày bán ngoài quầy. Nhờ vậy tiêu thụ được mấy chục cuốn.

Phần còn lại tại nhà, vừa bán vừa tặng (tặng nhiều hơn bán) mà bán cũng chỉ lai rai gởi tại những quầy sách báo ở những chùa tổ chức các dịp lễ, hay các chợ Á Châu. Một phương cách khá hữu hiệu nữa là trao đổi sách với các “đồng nghiệp” cùng viết lách như mình từ các nước khác.

Thời đó, có lẽ tâm trạng xa xứ, buồn, thêm hầu hết là nạn nhân cộng sản chứng kiến nhiều điều trái tai g*i mắt, nên khi ra nước ngoài, cũng như tôi, trút “bầu tâm sự” nên nhiều cây bút mới xuất hiện, viết khá hay, rồi cũng in thành sách. Người đọc thì cũng cần giải khuây, thời đó đâu đã có Internet nên hay mua sách báo về đọc. Mà đọc thì cần nhiều tựa sách. Đâu ai mua một tựa 3 hay 4 cuốn bao giờ, ngoài trừ thích làm quà tặng. Do vậy, khi trao đổi được 10 cuốn với tác giả này, 10 cuốn với tác giả kia (gởi nhiều, cước cũng đỡ, hơn là gởi 1 cuốn)…. thế là giải quyết được mấy chục cuốn.

Các tác giả biết nhau khi cộng tác chung một tờ báo, rồi liên lạc làm quen khi chưa gặp hoặc biết mặt nhau bao giờ. Thế nhưng, như “luật bất thành văn” hễ tác giả nào ghé đến nước mình, thì mời về dùng cơm, tán gẫu, bàn chuyện văn chương để quen nhau. Nghĩ cũng vui và ấm cúng.

Dùng đủ mọi cách phát hành như thế, cũng phải vài năm sau mới tiêu thụ hết. Tính lại sổ sách vốn còn chưa đủ chứ đừng mơ có lời đâu nhé! Thế nhưng lại vui, vui trong lòng. Và cũng nhờ vui, nên tiếp tục cầm bút, đam mê viết để giải bày, giải tỏa được những nỗi cô đơn của những ngày buồn tẻ nơi xứ lạ. Đó là cái giá về tinh thần mà tiền bạc không dễ gì mua được.

Viết sách in sách thì dễ, nhưng phát hành khó quá, vất vả quá, nhất là, như cụ Tản Đà thốt lên “Văn chương hạ giới rẻ hơn bèo,” tôi không nghĩ đến chuyện in sách nữa. Thế nhưng, 15 năm sau, đùng một cái, anh chủ bút Phù Vân báo Viên Giác, sau khi hội ý với Thầy Chủ Nhiệm Thích Như Điển, đề nghị gôm Những Cây Bút Nữ Báo Viên Giác, bấy giờ có cả thảy 7 cô in chung một cuốn sách. Mỗi người góp từ 5 bài viết tùy dài ngắn khác nhau, góp tí vốn in ấn tượng trưng, và phần mỗi người được 50 cuốn. Một ý kiến thật tuyệt vời. Ai cũng hoan nghênh chấp thuận.

Nếu ví phụ nữ như một cành hoa, thì 7 cô gôm lại thành một vườn hoa. Một cánh hoa dù đẹp nhưng đứng một mình vẫn không nổi trội bằng một vườn hoa với đủ sắc màu. Nhờ vậy, lễ ra mắt sách cũng tổ chức ngay tại chùa Viên Giác, 7 cô với những chiếc áo dài rực rỡ đua nhau khoe sắc thắm thu hút bao văn nhân mặc khách, thêm cuốn sách in ra phân tán rộng rãi với sự nỗ lực quảng cáo rầm rộ, 1,000 cuốn chẳng bao lâu đã bán sạch.

Riêng mỗi người 50 cuốn, ai đem được về nhà vừa tặng vừa bán, tuỳ. Còn ai không kham nổi vì đường xá xa xôi như tôi chẳng hạn thì để đó, nhà chùa và nhóm sẽ linh động giải quyết. Hầu hết nhắm phát hành ngay trong lớp học của các khoá tu học Âu Châu vào giờ của Thầy Như Điển qua sự giới thiệu của Thầy và lời quảng cáo vô cùng hấp dẫn của cô Nguyên Hạnh vốn là MC kiêm là Cây Bút Nữ có bài góp trong đó. Cuốn sách in đẹp, dày đến 500 trang, giá lại rẻ, thêm vào nữa vốn cũng như lời nhóm chúng tôi hầu hết cúng vào xây chùa Khánh Anh hay làm từ thiện. Một công đôi ba chuyện nên độc giả ủng hộ hết mình. Người viết cũng vui mà người mua đọc cũng vui luôn. Niềm vui tăng gấp đôi để 5 năm sau, Nhóm Bút Nữ lại có thêm cuốn thứ 2. Bản cũ soạn lại, kinh nghiệm đầy mình nên tiếp tục không khó khăn nữa.

Nhưng phải nói rõ, phát hành nhanh chóng, phần lớn nhờ có tiếng nói của Hoà Thượng Thích Như Điển. Thầy tiếp tay ủng hộ hết mình. Sách thì nặng, từng thùng lại kềnh càng, phải có kho của chùa mới chứa nổi. Rồi khi chuyên chở, tiện xe, Thầy cũng cưu mang sắp xếp chở tận tới khoá học, rồi nhờ người khiêng hộ. Chứ các Bút Nữ tay yếu chân mềm, liễu yếu đào… không còn tơ như chúng tôi làm sao vác nổi. Chúng tôi chỉ nhận rồi tìm cách phát hành. Sách chỉ vừa mới giới thiệu là ào ào nhiều người giơ tay đòi mua, trông thật rộn ràng, đẹp mắt, nở hoa trong lòng; nhưng thực tế, khi kiểm tiền, thì nhiều khi sách trao cho người mua, mà quên nhận tiền hoặc do không có tiền thối nên cũng bị thất thoát nhiều. Nhưng đó chỉ là chuyện nhỏ. Vẫn hớn hở vui trong lòng, thấy sách bán hết không… ế là mừng rồi!

Riêng tôi, nhân thấy phát hành “Những Cây Bút Nữ” dễ dàng, tôi in thêm cuốn truyện dài “Tuổi Hồng Con Gái” tác phẩm đầu tay tôi viết từ khi còn ở Việt Nam.

Nghĩ đến tác phẩm này đến tội. Nó được sinh ra và lớn lên trong chiếc nôi Xã Hội Chủ Nghĩa. Nội dung chỉ vui thôi, kể về tình yêu và hôn nhân của tuổi choai choai mới lớn, mục đích tôi tìm niềm vui khi kết bạn với các nhân vật trong truyện nhí nhảnh, dễ thương, vui tươi, hồn nhiên giữa lúc tôi rất cô đơn lẫn cô độc khi ông xã đi tù cải tạo không biết bao giờ trở về. Tôi không đá động gì đến chuyện chính trị chính em gì trong đó. Đang viết giở chừng, gặp lúc có người gọi đi vượt biên, tôi vội vàng cho câu chuyện kết thúc, như đứa con so sinh non, rồi… bế theo vượt biên.

Khi qua tới Thụy Sĩ, đưa người bạn đọc thử, người bạn phán “Viết vậy mà cũng viết!” Vốn không tin tưởng vào khả năng viết của mình, tôi xấu hổ cất bản thảo vào ngăn tủ không khác gì đứa con sinh non ủ trong lồng kính. Những 10 năm sau, gặp lúc Ngô Nguyên Dũng bên Đức, chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Măng Non sau đổi Văn Nghệ Trẻ mời tôi cộng tác, nhân đó tôi gởi đại bản thảo Tuổi Hồng Con Gái vì không có truyện nào khác dành cho tuổi thanh thiếu niên. Không ngờ lúc đăng xong được bọn trẻ choai choai đón nhận một cách nồng nhiệt. Chúng gởi thư về tòa soạn tỏ lòng mến mộ và nhờ chuyển thư muốn làm quen tác giả. Có em “tỏ tình” kết bạn. Khi hỏi tuổi để tiện xưng hô, thấy tôi đáng tuổi…má chúng, chúng xách dép chạy có cờ! Nghĩ cũng vui!

Rồi sau khi tân trang lại dung nhan từ hình thức lẫn nội dung, nhân dịp về Việt Nam thăm gia đình và bạn bè, tình cờ gặp lại cô bạn học cùng trường hiện có nhà xuất bản, tôi hỏi thăm và bàn chuyện in Tuổi Hồng Con Gái. Cô in cho tôi 1,000 cuốn. Tôi mang dần về 300 cuốn. Còn 700 cuốn nhờ bạn phát hành tại Việt Nam.

Cũng bởi in tại Việt Nam, tôi bị chụp mũ “làm ăn với Việt cộng.” Tuổi Hồng Con Gái một lần nữa te tua. Nó sinh ra không được đời chấp nhận. Không có giấy khai sinh, không căn cước, không “hộ khẩu” sống ngoài vòng pháp luật. Muốn chường mặt ra ngoài cũng chỉ chui rúc làm như sợ công an xét hỏi. Thế nhưng nhiều người hiểu chuyện cũng rất thương nó, do vậy khi tôi… lén lút giới thiệu, nó được đón nhận một cách tận tình. Có người… ẵm về 10, 20 cuốn làm quà tặng bọn trẻ, con cháu họ. Nhưng nói cho cùng, nhờ nó dễ thương, hồn nhiên nên rồi cuối cùng vài trăm cuốn cũng phát hành hết, phần lớn vẫn từ sự giới thiệu của Hoà Thượng Như Điển tại các khóa tu học Âu Châu với sự quảng cáo hết mình của chị Nguyên Hạnh MC cùng sự hỗ trợ của các bạn văn nữa. Hiện chỉ còn 30 cuốn tôi giữ lại, quí hơn vàng, chỉ để dành ưu tiên cho người yêu sách, vì nếu bán hết sẽ không bao giờ in ra nữa.

Các bạn thấy đó, đời viết sách, in sách, phát hành sách tuy lắm niềm vui, nhưng cũng nhiều đắng cay ê chề trước những lời thị phi đố kỵ…. “thiên hạ không muốn đọc mà ép người ta mua!” tội không!

Thế nhưng, cầm bút là nghiệp dĩ không bao giờ bỏ được. Mặc dù chẳng mấy ai kiếm sống nhờ từ văn chương chữ nghĩa. Nó như nghiệp mang vào thân suốt cuộc đời, không trách lẫn trời gần trời xa. Vì bên cạnh đó, cũng nhiều niềm vui tinh thần cho người viết mà tiền bạc không sao mua được.

Do vậy, tôi vẫn tiếp tục viết, không mơ ước, không mong cầu, nhưng với thời gian, người đời tặng cho danh hiệu “Nhà văn.” Tôi không muốn khiêm nhường hay khiêm tốn đâu nhé, vì “khiêm tốn là bốn lần tự kiêu,” tôi không bao giờ dám tự nhận danh hiệu đó, vì tôi vốn không xuất thân trường lớp đào tạo nào, chỉ có thể nói, tôi là một cây bút nữ, thế thôi. Viết mà có người chịu đọc là vui rồi!

Cứ thế, duyên văn chương một lần nữa gõ cửa, khi một ngày, nhận Mail Hoà Thượng Như Điển thông báo có một nữ phú gia định cư tại Đức đang kiếm người viết về cuộc đời bà, và sẽ trả nhuận bút. Một tin hấp dẫn gởi đến 8 cô bút nữ. Mọi người xôn xao, bàn tán, đề cử người này kẻ kia, nhưng hầu hết ai cũng từ chối. Cuối cùng, anh Chủ Bút Phù Vân gọi điện thoại đề cử tôi, phân tích rằng, tôi hội đủ điều kiện: Cùng tuổi, sống cùng thời gian (thời gian sau 1975), cùng hoàn cảnh (là nạn nhân và chứng nhân của chế độ cộng sản) và nhất là rời đất nước cùng năm, không bằng máy bay như những người khác mà ra đi bằng tàu bè vượt biên, nhìn chung, trải nghiệm cuộc đời rất giống bà phú gia đó, tôi sẽ dễ dàng ghi lại những gì chính mình cũng từng sống qua dưới chế độ cộng sản.

Suy nghĩ một hồi, liệu chừng mình đảm nhận được, dù gì tôi cũng từng kinh nghiệm viết truyện dài qua cuốn “Tuổi Hồng Con Gái” nên tôi nhận lời; phần đáp lễ sự kêu gọi của Hoà Thượng, phần không phụ lòng anh Chủ Bút gởi gắm. Còn nhuận bút, xưa nay tôi đâu chủ trương bán chữ kiếm tiền, nên không coi quan trọng, không đặt điều kiện. Nhưng nếu ai trả, tôi cũng nhận hết rồi sung vào quĩ từ thiện, kể cả tiền bán sách.

Sau thời gian liên lạc qua lại hằng ngày với bà phú gia bên Đức. Bà kể từng chi tiết diễn tiến xảy ra từ lúc bà sinh ra đến cuối cuộc đời, tôi ghi chép lại tất cả rồi xâu chuỗi lại cho thành một tác phẩm. Cũng may nói chuyện qua Viber không tốn cước, chứ không, tiền điện thoại, không ai gánh nổi. Cuối cùng sau hơn 6 tháng, cuốn sách cũng hoàn thành.

Bà phú gia bỏ tiền in 400 cuốn, giấy thật tốt, thật đẹp, bìa láng….để rồi bà cất kỹ trong hầm chưa muốn phổ biến với lý do, nếu tung ra, sợ Việt cộng… ám sát bà (?!). Chả là vì, từ bé, bà từng chứng kiến những cảnh giết người bừa bãi “giết lầm còn hơn bỏ sót” vô cùng dã man của Việt cộng. Hình ảnh đó ám ảnh bà suốt cuộc đời cho đến bây giờ. Bà muốn kể ra, viết thành sách mục đích dành cho gia đình và con cháu bà sau này biết thôi. Tiếc là con cháu bà sinh trưởng tại Đức không rành tiếng Việt, thế là bà tìm người dịch ra tiếng Đức nữa. Hiện nay, cuốn sách đó đang đợi thời. Khi nào hội đủ nhân duyên sẽ trình làng đến quí vị.

Riêng tôi, như các bạn thấy đó, cầm bút từ sự thúc đẩy của nhân duyên, của thời cuộc, chứ tôi hoàn toàn không có mộng làm… văn sĩ! Giấc mơ của đời tôi thích làm cô giáo dạy môn toán, vì trong cuộc sống, tôi chủ trương rõ ràng 1 cộng 1 là 2 và vì tôi yêu môn toán. Và muốn được trở lại trường học, sống vui vẻ hồn nhiên hoà mình với những trẻ thanh thiếu niên mà tôi đã từng sống qua và muốn tìm về. Tiếc là… giấc mơ mãi mãi chỉ là… mơ ước!

Nay mọi sự đều tréo cẳng ngỗng, đẩy tôi sang lối rẽ khác. Thôi thì đành chấp nhận những gì mình có. Có còn hơn không!

Nhiều người đọc báo, đọc sách, nói chung là cầm tờ báo, cuốn sách trên tay... ít ai biết được công việc của người sáng tạo ra nó

Address

Westminster, CA

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Saigon Nhỏ posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Business

Send a message to Saigon Nhỏ:

Share