
08/18/2025
NHÀ VĂN SƠN NAM, KỶ NIỆM 17 NĂM VỀ LẠI ĐẤT MẸ – MIỆT THỨ
--
Nhà văn Sơn Nam (11 Tháng 12, 1926 – 13 Tháng 8, 2008)
Ngoài tài viết văn và am hiểu sâu sắc vùng đất Nam Bộ, nhà văn Sơn Nam còn là người rất thẳng thắn, dám lên tiếng bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống và con người bình dị miền Nam.
Ông từng được một số đạo diễn người Pháp mời làm cố vấn phong tục văn hóa trong việc dựng phim L’amant (The Lover – Người Tình), nhằm giữ cho cảnh phim đúng bản sắc vùng Nam Kỳ xưa. Trong một cảnh đám cưới tại chợ Sa Đéc, có mấy chục ông già, bà lão đóng vai nhà trai, nhà gái.
Khi đến giờ nghỉ trưa, ông nhìn thấy các cụ diễn viên phụ ngồi bệt dưới đất ăn cơm, trong khi cả đoàn phim vào nhà hàng sang trọng dùng bữa. Sơn Nam tức giận đứng giữa nhà lồng chợ gọi đạo diễn ra nói chuyện. Chủ nhiệm đoàn phim vội vàng ra lệnh nhân viên dọn bàn ghế mời các ông bà diễn viên ăn cơm tử tế.
Điều đó cho thấy Sơn Nam không chỉ là người am tường văn hóa mà còn rất trân trọng con người bình dị, không để ai bị xem thường dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Ông học tiếng Pháp đủ để đối đáp, thậm chí “xổ” tiếng Tây rổn rảng như bẻ mía, cự nự các vị Tây đạo diễn rằng ít ra họ cũng nên biết nghe và tôn trọng phong tục địa phương, chớ đừng xem thường những con người quê mùa, vốn mang nặng văn hóa sông nước Miền Tây.
Nhưng sang thời cộng sản, mọi chuyện khác hẳn. Cái “đàn khảy tai trâu” – cách Sơn Nam gọi chế độ áp đặt, không muốn nghe gì cả, dù là tiếng nói của chính người dân.
Bà con mình ai cũng từng bực bội, bị hành hạ vì cái “hộ khẩu” của chế độ mới chiếm miền Nam. Những người làm văn chương như Sơn Nam cũng thường xuyên bị công an khu vực sách nhiễu, gây khó dễ. Ai mà không bực mình?
Nhớ lại đám tang nhà thơ Bùi Giáng, có những người tai to mặt lớn tới đi đám. Sơn Nam được Hội Nhà Văn mời đọc điếu văn. Đây là cơ hội để ông nhắn nhủ: “Anh Giáng ơi! Sinh thời anh ăn mặc xốc xếch, áo trong dài hơn áo ngoài… nhưng văn thơ anh ngay ngắn đường hoàng. Anh không nề hà cháo chợ cơm hàng, cả cơm thừa canh cặn, nhưng câu chữ anh dùng sạch sẽ, ý tứ sáng trong. Cả đời anh lang thang, khi chùa khi chợ không cố định đâu đâu. Mà bữa nay anh đi có quân canh lính gác, có vòng hoa của thành ủy, ủy ban, có Hội Nhà Văn, vậy là anh có hộ khẩu Sài Gòn rồi đó nghe anh.”
Lời nói chua chát đó như ngậm ngùi cho cái chính sách hộ khẩu ác ôn, khiến cho những người dân lương thiện bị đày đọa, bị kiểm soát, kềm kẹp.
Trong truyện “Âm dương cách trở” của Sơn Nam, ông già hớt tóc vỉa hè bị công an khu vực xét hộ khẩu. Ông già nói: “Tôi sống ở đây gần trọn một đời người, chỉ biết mình là công dân của Tổ Quốc Việt Nam thôi.”
Tay công an hỏi: “Vậy theo ông thế nào là Tổ Quốc?”
Ông già trả lời: “Với tôi, Tổ Quốc là một nơi kiếm sống được bằng một việc lương thiện nào đó, không bị ai làm khó dễ, có vài người bạn chơi được, không ba trợn.”
Đó chính là lời khẳng định hồn nhiên, giản dị nhưng đầy ý nghĩa về tình quê, về cuộc sống bình yên mà ông già hớt tóc ấy và Sơn Nam đều khao khát.
Tóm lại, chính sách hộ khẩu của CS để theo dõi, kiểm soát người dân lương thiện là một chính sách độc đoán, phi lý và điên rồ của những kẻ hoang tưởng, nghi ngờ khắp mọi nơi.
Nhà văn chỉ có cây bút trong tay, ngoài ra chẳng có quyền lực nào để bảo vệ mình. Khi gặp những chuyện trái tai g*i mắt, ông chỉ biết “sùy” ra một chút qua các tác phẩm để vơi bớt nỗi tức giận.
Ông vốn là người hiếu hòa, chín bỏ làm mười, luôn nói: “Với tôi, hạnh phúc lớn nhất là không gây thù chuốc oán với ai, không ai ghét mình. (Nếu lỡ người ta oán ghét mình thì cũng đành cam chịu!) Chỉ cần có người tới thăm nói dóc chơi.”
Có lẽ từ thuở bé, mẹ ông đã dặn dò: “Đi học xa nhà, thân thể ốm yếu, tránh đừng sanh sự với ai. Lỡ có chuyện gì thì hổng ai binh!”
Sau năm 1975, khi đất nước đổi thay, Sơn Nam cũng đổi đời theo chiều hướng khó khăn, từ nghèo thành… mạt.
Trong bài viết “Cầu xin hai chữ bình an,” ông kể lại những ngày đầu Sài Gòn thất thủ, khi nhiều người tới “kiếm cơ sở” xác nhận thân phận ông. Ông thẳng thắn nói: “Tôi không phải đảng viên cộng sản, không có dính líu với cơ sở nào cả. Có chăng tôi là thành viên ban chấp hành Hội Văn Bút (Pen Club), một tổ chức nghe ra có vẻ ‘quốc tế’ nhưng chắc không được ưa thích.”
Nhiều người bạn hiền lành thủ thỉ chuyện “vượt biên,” nhưng ông không mặn mà. Ông chẳng biết tiếng Anh, nghĩ rằng biết chút ít tiếng Pháp là đủ rồi. Dòng họ, bà con đều còn ở U Minh, ông quan điểm rằng: “Quê hương là đủ rồi.”
Mười năm – một quãng thời gian ngắn trong lịch sử văn học, nhưng ông tin rằng ngày tự do và quyền tự do ngôn luận sẽ trở lại, trắng đen sẽ rõ ràng.
Những tác phẩm quý báu của ông, nếu loại bỏ những đoạn bị thêm vào bởi bọn bồi bút văn nô cộng sản, sẽ được lớp hậu sinh chùi rửa sạch vết nhơ để tỏa sáng.
Tin tôi đi! Nhà văn Sơn Nam là một biểu tượng lớn của vùng đất Nam Kỳ, của miền đồng bằng sông Cửu Long với bao nhiêu câu chuyện, con người, và phong tục tập quán.
Ông là người yêu thương đất đai quê hương, dành trọn đời mình để viết, để lưu giữ những hình ảnh chân thật, giản dị mà sâu sắc về miền Nam.
Tình yêu và sự thủy chung của ông với văn chương và quê hương mãi còn trong ký ức và trái tim những người yêu văn hóa Nam Kỳ Lục tỉnh.
Đó cũng là niềm an ủi lớn lao cho những người cầm bút như ông, những người sống với cây bút như người bạn tri kỷ, để tiếp nối công cuộc giữ gìn và phát triển văn hóa dân tộc.
Miệt Thứ Sơn Nam
Sơn Nam, tên thật là Phạm Minh Tài, sinh ngày 11 Tháng Mười Hai, 1926 tại làng Đông Thái, quận Phước Long, tỉnh Rạch Giá (thời Pháp thuộc). Làng Đông Thái, thuộc Miệt Thứ. Theo sách Đại Nam Nhứt Thống Chí, Miệt Thứ là vùng Lâm Sác, vùng Thập Câu, Thập nghĩa là mười, Câu là ngòi nước từ rừng U Minh Thượng chảy ra biển Rạch Giá.
Ông Huỳnh Tịnh Của trong Đại Nam Quốc Âm Tự Vị giải thích: “Miệt là xứ, miền, một dãy đất.” Có Miệt trên (Biên Hòa, Gia Định, Bà Rịa), Miệt Cao Lãnh, Miệt Đồng Tháp Mười, Miệt Xà Tón, Tri Tôn Thất Sơn, Châu Đốc; Miệt dưới là vùng Rạch Giá, Cà Mau. Miệt vườn là vùng đất gò, giồng, đất phù sa phì nhiêu, thích hợp trồng cam, quýt, cây trái khác… Sống bằng nghề làm vườn đỡ vất vả hơn làm ruộng, nên có nhiều thành ngữ như “gái vườn,” “công tử vườn,” “điếm vườn,” “dân chơi miệt vườn”…
Sơn Nam viết trong tác phẩm “Văn Minh Miệt Vườn” nói về vùng đất ven sông Tiền, sông Hậu thuộc Sa Đéc, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Cần Thơ.
Miệt Thứ là tên một vùng đất sinh ra biết bao thế hệ, từ Miệt Thứ Hai cho đến Miệt Thứ Mười Một. Nhà Miệt Thứ lợp lá dừa nước. Nếu lựa lá tốt và lợp kỹ, mái lá có thể tồn tại đến 5 năm mới phải thay.
Đất kinh rạch chằng chịt, lung, bàu, vì vậy phải dùng xuồng ba lá để đi lại, đi thăm câu, giăng lưới, hay qua chợ, đi dự đám giỗ, đám cưới, thôi nôi đầy tháng. Xuồng ba lá ghép từ hai tấm ván bên và một tấm ván đáy rất nhẹ nhàng tiện lợi.
Vùng Miệt Thứ có nhiều chợ mang tên các thứ trong tuần: chợ Thứ Ba, Thứ Sáu, Thứ Bảy, Thứ Tám, Thứ Chín, Thứ Mười Một, đều nằm ở ngã ba, ngã tư kinh, rạch nước. Giống như chợ nổi ở nhiều nơi khác, các ghe xuồng dùng một cây sào ngắn gọi là cây bẹo cắm trên mũi để báo hiệu mặt hàng họ bán.
Miệt Thứ là miền đất rừng xa xôi, hiểm trở, đất thấp nhiều than bùn, muỗi mòng nhiều vô kể. Xa xôi cách trở khiến cô gái Miệt Vườn lấy chồng Miệt Thứ phải chịu nhiều thiệt thòi, nhớ nhà đến rưng rưng:
“Đêm đêm ra đứng hàng ba,
Trông về quê mẹ lệ sa buồn buồn.”
Trong khi thường thì:
“Mẹ mong gả thiếp về vườn,
Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh.”
Thì lại tréo cẳng ngỗng, cô gái bị cha mẹ ép gả về Miệt Thứ:
“Sương khuya ướt đẫm giàn bầu,
Em về Miệt Thứ bỏ sầu cho qua.”
(Trích ca dao miền Nam)
Ngày cưới cô dâu, nhà trai họp mặt nhậu say sưa:
“Bữa nay nhà nhóm họ,
Bà con nhậu như điên,
Tượu rót tràn như suối!
Qua gánh bao đôi nước,
Phồng rộp một bên vai,
Củi chẻ bao nhiêu thước,
Dằm sướt, rướm máu tay.
(Thơ Đoàn Xuân Thu)
Miệt Thứ còn nổi tiếng với nhiều ca dao nhắc về sợ hãi những cảnh vật và thú rừng nơi đây:
“Tới đây xứ sở lạ lùng,
Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng ghê,
Chèo ghe sợ sấu cắn chân,
Xuống sông sợ đỉa, lên rừng sợ ma,
Cà Mau khỉ khọt trên bưng,
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.”
Vùng đất miền Nam từng sản sinh nhiều nhà văn lớn: Hồ Biểu Chánh (1885-1958), Vương Hồng Sển (1902-1996), Nguyễn Hiến Lê (1912-1984), Bình Nguyên Lộc (1914-1987), và Sơn Nam (1926-2008) – một trong những người có công lớn viết về miền Tây.
Ông nội của nhà văn Sơn Nam từng lập nghiệp ở Miệt Thứ ven rừng U Minh Thượng, giao hòa giữa người Việt, người Khmer và người Tiều. Sau Hiệp định Genève, ông Sơn Nam lên Sài Gòn tìm kế sinh nhai. Nhà văn Bình Nguyên Lộc từng khuyên ông: “Nên viết về đất và người vùng châu thổ sông Cửu Long” mới có đề tài để sáng tác dài lâu, để sống chết được với nghề văn.
Từ đó, Sơn Nam ghi dấu ấn qua tuyển tập truyện ngắn Hương Rừng Cà Mau nổi tiếng do nhà xuất bản Phú Sa của bạn ông là nhà văn Ngọc Linh ấn hành. Nhưng về sau, ông thiên về biên khảo với hàng loạt tác phẩm như: Văn Minh Miệt Vườn, Tìm Hiểu Đất Hậu Giang, Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam, Vạch Một Chân Trời và gần 60 tác phẩm khác, tạo nên một gia tài đồ sộ.
Ông từng tự vẽ con đường mình đi qua mấy câu thơ:
“Phong sương mấy độ qua đường phố,
Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê.”
Phong sương, nên ông ăn mặc xuề xòa, thích đi bộ qua các phố phường để dễ la cà, hút thuốc, uống cà phê. Có tiền nhuận bút, ông nhâm nhi vài chai “la ve” với bạn bè văn chương. Gặp bè bạn, ông chỉ nói chuyện văn chương. Còn chuyện bên lề, ông xem nhẹ: “Ối! Hơi đâu?”
Ông chơi bạn như thầy phái viên báo Chim Trời với ông nông dân Tư Có trong truyện Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư của ông, chuyện một phái viên nhà báo từ Sài Gòn xuống thu tiền độc giả tận miền quê heo hút dưới Rạch Giá. Vì muỗi nhiều, sau cơm chiều, chủ nhà giăng mùng mời thầy phái viên chun vào cho đỡ bị muỗi cắn. Thầy phái viên ngượng nghịu, nhưng cũng phải lẹ lẹ chui vào mùng, sợ sốt rét. Hai người xa lạ cùng thuộc làu nhiều đoạn trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư, đọc to lên và cùng gật gù đồng ý.
***
Sơn Nam sống giản dị, không màng danh vọng, không thích được xưng tụng. Ông ứng xử nhẹ nhàng với cuộc đời, biết thích nghi với hoàn cảnh để theo đuổi nghề văn:
“Tới đây thấy vịt cũng lùa
Thấy duyên cũng kết, thấy chùa cũng tu.”
Ông chọn nghề văn, dù nghèo, như quê hương Miệt Thứ của ông: “Xứ mình nghèo quá, mình được đi học, Phải làm cho người ta biết đến xứ mình như thế nào.”
Nhờ công lao của nhà biên khảo Sơn Nam mà bà con biết kha khá về miền Tây thời khẩn hoang. Dù chưa đủ đầy, nhưng ai nối tiếp sự nghiệp ấy, hẳn còn là câu chuyện tương lai.
Giờ đây, trong nước có những âm thanh rầm rộ, đánh trống thổi kèn tưng bừng, ỏm tỏi về đất miền Tây, nhưng chỉ là đồ giả kim, so với công trình của ông.
Nhà văn Sơn Nam qua đời cách nay đúng 17 năm, ngày 13 Tháng Tám, 2008 tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, hưởng thọ 82 tuổi.
ơn Nam, tên thật là Phạm Minh Tài, sinh ngày 11 Tháng Mười Hai, 1926 tại làng Đông Thái, quận Phước Long, tỉnh Rạch Giá (thời Pháp thuộc).