Đuốc Từ Bi

Đuốc Từ Bi Trang Fanpage Đuốc Từ Bi Chia sẽ tài liệu
Sách, Bài Viết, Tạp Chí, Thơ, Hình ? Đuốc Từ Bi

27/06/2025
23/06/2025
13/06/2025

Đoàn Xe Hoa Diễu Hành tuyệt đẹp Kính Mừng Đại Lễ 18 Tháng 5 chánh Lễ ngày Thiêng Liêng

Chuẩn bị Đại Lễ 18/5
06/06/2025

Chuẩn bị Đại Lễ 18/5

CHÁNH VĂN1.- Khai ngọn đuốc từ-bi chí thiện,Tìm con lành dắt lại Phật đường.Thương dân hiền giáo đạo Nam-phương,4.- Đặng...
31/05/2025

CHÁNH VĂN

1.- Khai ngọn đuốc từ-bi chí thiện,
Tìm con lành dắt lại Phật đường.
Thương dân hiền giáo đạo Nam-phương,
4.- Đặng chỉ ngõ làm lành lánh dữ.


LƯỢC GIẢI (Từ câu 01 đến câu 04)

Mở đầu quyển “Giác Mê Tâm Kệ” Đức Giáo Chủ cho biết: Vì lòng từ bi Ngài lâm phàm, khai Đạo cứu dân tại miền Nam nước Việt. Ngài dùng trí tuệ siêu mầu viết ra Kệ Giảng, vạch rõ con đường Phật Đạo để thức tỉnh những ai có căn lành, sớm giác ngộ tu hành, cải ác tùng thiện.



CHÚ THÍCH

GIÁC MÊ: Giác là tỉnh biết sáng suốt, hết mê lầm. Theo Phật học thì GIÁC có hai phần:

- Tỉnh ngộ thấy ra những điều quấy ác để trừ dứt gọi là Giác sát.

- Tự khai ngộ được chơn lý để nương theo gọi là Giác ngộ.

Cho nên Giác là danh từ để chỉ cho Phật (Giác ngộ), đối với chúng sanh (Mê lầm).

Mê là tối tăm lầm lạc. Nói chung, Giác Mê là thức tỉnh kẻ còn mê lầm tăm tối.

TÂM KỆ: Quyển Kệ dạy hành giả tu ngay tâm để kiến tánh thành Phật. Như quyển “Tâm Kinh” của Đức Bổn Sư Thích Ca và quyển Giác Mê của Đức Phật Thầy Tây An trước kia.

Vậy, quyển Giác Mê Tâm Kệ nầy, Đức Giáo Chủ khuyến dạy môn đồ về các phương pháp sửa đổi tâm chúng sanh để trở về với tâm Phật. Bởi Phật hay chúng sanh cũng đều do tâm mình tạo nên, như Ngài đã bảo:

“Cái chữ tâm mà quỉ hay ma,

Tiên hay Phật cũng là tại nó.

Tu với tỉnh biết làm chẳng khó,

Nếu lặng tâm tỏ ngộ đạo mầu”.(Giác Mê Q.4)

KHAI NGỌN ĐUỐC: Mở rộng ánh sáng trí tuệ. Ý nói Đức Thầy dùng trí huệ viết ra kệ giảng, soi đường dẫn lối cho kẻ tu hành, như Ngài thường cho biết:“Nay đuốc huệ từ bi đã rọi”.(Khuyến Thiện, Q.5)

TỪ BI: (Xem CT đoạn 2, T-1, bài Sứ Mạng).

CHÍ THIỆN: Đến tột chỗ lành, trọn lành.

Sách Thánh có câu: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện”.( Đạo của bậc đại học, cốt làm sáng cái đức của mình, rồi làm cho dân được mới và đạt đến chỗ trọn lành).

PHẬT ĐƯỜNG: Nhà Phật, là nghiã của chữ Đạo Phật (con đường về Phật). Đức Thầy có câu:“ Đạo là vốn thiệt cái đường”.

Và: “Chốn Phật đường rán trau đức hạnh,

Phải bền lòng mới rảnh trần ai”.(Sa Đéc)

GIÁO ĐẠO: Dạy Đạo, khai truyền Đạo pháp giáo hóa chúng sanh.

NAM PHƯƠNG: Cũng gọi là phương Nam. Có nghiã là hướng Nam, đây ám chỉ nước Việt Nam. Cũng có nghĩa cõi Nam Diêm Phù Đề, tức Nam Thiệm Bộ Châu, một trong 4 châu lớn ở cõi Ta bà. Đức Thầy từng cho biết:

“Cõi trung ương luân chuyển phương Nam,

Mở hội Thánh chọn người trung hiếu”.

(Diệu pháp Quang Minh)

Chuẩn Bị Lễ2025
25/05/2025

Chuẩn Bị Lễ
2025

Hoài Niệm Công Đức Thánh Mẫu Phật Giáo Hòa HảoHồi 20 giờ 15 phút ngày thứ Sáu, mồng 2 tháng 6 năm 1967 (nhằm 25 tháng 4 ...
22/05/2025

Hoài Niệm Công Đức Thánh Mẫu Phật Giáo Hòa Hảo
Hồi 20 giờ 15 phút ngày thứ Sáu, mồng 2 tháng 6 năm 1967 (nhằm 25 tháng 4 năm Đinh Mùi), là lúc viên tịch. Đức Bà thọ được 84 tuổi. Đức Bà Hội Trưởng Danh Dự tối cao Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo viên tịch tại ngôi Tổ Đình, thuộc thánh địa Phật Giáo Hòa Hảo tỉnh Châu Đốc.
Đại lễ an táng Đức Bà được cử hành một cách trọng thể nơi địa điểm nói trên vào lúc 10 giờ sáng ngày Chủ Nhật mùng 4 tháng 6 năm 1967 ( nhằm ngày 27 tháng 4 năm Đinh Mùi). Đức Bà đã sống một cuộc đời gương mẫu, hiền đức và cũng do phước lớn, duyên lành mà Đức Bà đã được chọn làm cơ hóa hiện cho xác thân một vị Phật sống, Đức Huỳnh Giáo Chủ để cho đời Hạ ngươn có Đấng Đại Giác, khai sáng mối đạo Phật Giáo Hòa Hảo, hướng dẫn chúng sanh vào đường tu hành chân chánh.
trích

Đức Thánh Mẫu Phật Giáo Hòa Hảo đã viên tịch "Đúng 20 giờ 15 đêm, một tin buồn từ Thánh Địa loan đi: ĐỨC BÀ ĐÃ VIÊN TỊCH...
22/05/2025

Đức Thánh Mẫu Phật Giáo Hòa Hảo đã viên tịch

"Đúng 20 giờ 15 đêm, một tin buồn từ Thánh Địa loan đi: ĐỨC BÀ ĐÃ VIÊN TỊCH !

Một luồng xúc động mãnh liệt tràn đi như sóng điện, làm run rẫy hàng triệu con tim ngoan đạo, làm rưng rưng khóe mắt tất cả tín đồ.- Nghẹn ngào không nói được !- Có nhiều người đứng không còn được vững. Họ lão đão quỳ xuống trước bàn thông thiên, úp mặt trong lòng bàn tay mà khóc…

Tin chánh thức do anh chị em đồng đạo có mặt trong giờ Đức Bà viên tịch cho biết: Mặc dù với số tuổi quá yếu già, mặc dù đã không dùng thực phẩm từ lâu rồi, nhưng Đức Bà vẫn tỉnh táo, vẫn sáng suốt, vẫn nhớ mặt từng trị sự viên, và sự phán xét rất tinh tường, chớ không hề có một chút gì tỏ ra là mê sảng.

Vào đầu giờ Tuất, thần sắc vẫn không thay đổi, Đức Bà từ từ chấp tay lên ngực, nhắm mắt mật niệm hồng danh Đức Di Đà, rồi …nhẹ nhàng …thanh thoát…đi vào cõi Tịnh độ.

Đêm 25 tháng tư âm lịch là đêm không ngủ của người tín đồ PGHH. Họ thao thức ưu tư, thao thức để cầu nguyện, thao thức để chuẩn bị về Thánh địa cho kịp ngày mai. Kẻ ở gần bất kể giờ giấc, bất kể giới nghiêm. Họ bơi xuồng, lội bộ hoặc đạp xe đạp về tới Tổ Đình ngay trong đêm ấy. Kẻ ở xa, vì sống cách đường ngăn không đi ngay được, thì họ thức luôn mà chờ gà gáy sáng.

Sáng hôm sau một trận lụt tràn về Thánh địa. Nào ghe xuồng, tắc ráng, ghe máy, tàu bè; nào xe đạp, xe lôi, lambretta, autobus, camion và phi cơ. Tất cả các phương tiện xê dịch, chở ngập về cù lao Trung Ương đủ mọi hạng người: lao công, trí thức, nông dân, thương gia, công chức, quân nhân v..v…Như máu về tim, như nước vào biển, ai ai cũng quyết về cho kịp để kỉnh lễ Đức Bà một lần sau chót."

- TANG LỄ TIẾN HÀNH THEO NGHI THỨC VÔ VI

Từ 8 giờ 30 phút, ngày 3 tháng sáu năm 1967 khắp vùng PGHH đều treo cờ tang. Tại các tư gia của tín đồ cũng như các cơ sở của Đạo, đều có lập bàn hương án, nhất tâm hộ niệm cho Đức Bà.

Lễ nhập mạch và phát tang cho tôn quyến khỡi từ 9 đến 10 giờ do ông Huỳnh văn Quốc bào đệ cố Đức Ông đứng chủ xướng. Lúc bấy giờ tín đồ có mặt đã đứng chật nứt từ bờ sông tới ngạch cửa. Họ im lặng hướng vào Tổ Đình mặc niệm.

Lễ phát tang theo thường lệ thì chỉ có người trong tang quyến mới thọ lãnh mà thôi. Nhưng đặc biệt ở đây, không những các cấp trị sự đã nhất loạt thọ lãnh, mà tất cả các tín hữu cũng đều phát tâm tự nguyện để tang Đức Bà. Sự việc này đã làm cho sắc thái bình đẳng của Giáo Hội được thể hiện một cách rõ rệt, không phân biệt người trong kẻ ngoài, không có sự ngăn cách giữa cấp trên, cấp dưới.

Người ta ghi nhận tang lễ đã tiến hành theo nghi thức ô vi, đúng theo giáo lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Không nhận đồ phúng điếu, không dùng sắc tướng thinh âm. Không đốt giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo. Nhất là tang gia nghiêm cấm tiếng khóc kể rình rang, mà theo giáo lý PGHH, thì đó là việc làm trở ngại cho giác linh trên đường siêu thoát.

Vừa 10 giờ 35, Trung Ương Giáo Hội nhận được công điện của Trung Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia Nguyễn Văn Thiệu. Nguyên văn như sau:

“Tôi vô cùng xúc động hay tin Đức Bà, Hội Trưởng Danh Dự Tối Cao từ trần tại Thánh địa Hòa Hảo.

Lúc sinh thời, Đức Bà chẳng những là một bậc chân tu đáng kính mà còn là một vị lãnh đạo tinh thần sáng suốt được Giáo Hội và toàn thể tín đồ sùng bái. Cho nên nay sự ra đi của Đức Bà đem lại nhiều đau buồn cho Giáo Hội và gieo nhiều tiếc thương trong lòng toàn thể tín đồ.

Nhân danh Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia và riêng tôi, chân thành gởi lời phân ưu với Giáo Hội và toàn thể tín đồ cùng tang quyến.”

Ký tên

(Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia)

Nữa giờ sau lại nhận được điện tín của Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất:

“ Tôi vô cùng xúc động hay tin Đức Bà vừa tạ thế - Thay mặt Giáo Hội PGVNTN và riêng tôi, xin kính lời phân ưu cùng quý Ban và toàn thể quý Giáo Hội – Cầu nguyện hương linh Đức Bà tiêu diêu nơi cực lạc.”

(Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN - Thượng Tọa Thích Tâm Châu)

Qua 16 giờ, phái đoàn quốc hội do cụ Phan Khắc Sửu, Chủ Tịch Quốc Hội Lập Hiến hướng dẫn, đến Tổ Đình kỉnh lễ, và cầu nguyện cho giác linh của Đức Bà được tiêu dao cực lạc.

Hồi 18 giờ, ông bà kỷ sư Truong Thái Tôn, Ủy viên Phủ Chủ Tịch đại diện Thiếu Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, đáp phi cơ về tới Tổ Đình, thành tâm hành lễ trước linh cữu của Đức Bà.

Đồng thời Bộ Chỉ Uy Hải Quân Vùng 4 Chiến Thuật cũng đặc phái Thiếu Tá Hớn hướng dẫn một phái đoàn gồm nhiều sĩ quan Việt Mỹ đến thành kính điếu tang.

Từ 23 giờ đến nữa khuya đêm nay, Giáo Hội còn nhận thêm vô số điện văn các nơi giở về tỏ lời mến tiếc phân ưu, như điện văn của Trung Tá Đặng Đình Thụy, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Chi Lăng, điện văn của thiếu Tá Tôn Thất Đống, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Cao Lãnh, cùng nhiều điện văn tới tấp gởi về không sao kể xiết.
Trích đuốc từ bi tập 3

SƠ GIẢI TỨ DIỆU ĐỀ (I)        Pháp Tứ Diệu Đề được Đức Thầy giảng hai lần: năm 1939 và năm 1942. Vì tùy theo cơ duyên mà...
21/05/2025

SƠ GIẢI TỨ DIỆU ĐỀ (I)
Pháp Tứ Diệu Đề được Đức Thầy giảng hai lần: năm 1939 và năm 1942. Vì tùy theo cơ duyên mà Ngài viết có khác đôi phần. Là môn đồ, chúng ta cần học hết để dung thông cả hai.

Cũng cần nên biết thêm, lúc Đức Thầy ở Bạc Liêu , ông Nguyễn Chi Diệp có đến hỏi:“Sao bài Sơ Giải Tứ Diệu Đề, Đức Thầy chỉ luận giải có bốn điều thôi ?” Ngài đáp: Khổ đề là tám điều khổ, Thầy đã viết trong Khuyến Thiện (Quyển 5). Còn Tập đề là Thập Nhị Nhân Duyên, Đạo Đề là Bát Chánh Đạo trong Quyển 6. Diệt Đề là Môn Hoàn Diệt. Thầy đã viết hết rồi. Dàn ý nầy ông Diệp lưu giữ mãi. Trước khi từ trần, Ông có kể lại cho chúng tôi nghe, nên chúng tôi căn cứ vào Dàn Bài dưới đây để biên soạn cho đầy đủ bài Sơ Giải Tứ Diệu Đề:

A- KHỔ ĐỀ: (Gồm có 8 sự khổ trong đời)
1- Sanh khổ.
2- Lão khổ.
3- Bệnh khổ.
4- Tử khổ.
5- Mưu cầu bất đắc khổ.
6- Ái biệt ly khổ.
7- Oan tắng hội khổ.
8- Ưu sầu lo ngại khổ.

B- TẬP ĐỀ: (Gồm có các tập nhơn sanh ra quả khổ – bài Thập Nhị Nhân Duyên).

1- Tập nghiệp vô minh.
2- Thập nhị nhân duyên.
a)- Tánh chất và nhân duyên.
b)- Tương duyên ba đời.

C- ĐẠO ĐỀ: (Gồm tám con đường chánh: Bát Chánh Đạo)
1- Chánh kiến.
2- Chánh tư duy.
3- Chánh nghiệp.
4- Chánh tinh tấn.
5- Chánh mạng.
6- Chánh ngữ.
7- Chánh niệm.
8- Chánh định.

D- DIỆT ĐỀ: (Phương pháp diệt khổ và hưởng quả Niết Bàn – bài Môn Hoàn Diệt).

1- Phương pháp diệt khổ:

a)- Nương theo Bát Chánh Đạo. Thi hành các đức tánh

b)- Đoạn trừ phiền não và thói hư tật xấu.
c)- Tự giác, giác tha.

2- Hưởng quả Niết Bàn:

a)- Niết Bàn của Thinh Văn, Duyên Giác.

– Hữu dư y Niết Bàn.

– Vô dư y Niết Bàn

b)- Niết Bàn của Bồ Tát và Phật.

– Vô trụ xứ Niết Bàn.

– Tánh tịnh Niết Bàn.

3- Bốn đức ở Niết Bàn:

– Chơn thường

– Chơn lạc

– Chơn ngã
– Chơn tịnh.

Tu cầu thoát khỏi xích-xiềng,724 Dựa kề chơn Phật xa miền trần-lao. (Q 5)XÍCH XIỀNGXích: sợi dây lòi tói bằng kim loại c...
11/05/2025

Tu cầu thoát khỏi xích-xiềng,
724 Dựa kề chơn Phật xa miền trần-lao. (Q 5)

XÍCH XIỀNG
Xích: sợi dây lòi tói bằng kim loại có nhiều khoen.
Xiềng: buộc, trói lại.
Xích xiềng: buộc bằng dây xích, chỉ sự khó khăn, bị
giam hãm buộc ràng bởi phiền não, lòng ham muốn nên những thứ ấy là sợi dây xích

Thành Xá Vệ dưới ánh mặt trời thiêu đốt, vài vị tỳ kheo khất thực bước đi trên con đường bụi bặm. Bất chợt, họ nhìn thấy một đoàn tù nhân, tay chân đều mang xiềng xích nặng nề, bước đi nặng nhọc, ánh mắt trống rỗng. Cảnh tượng ấy chạm sâu vào lòng các tỳ kheo.
Trở về tinh xá, họ vội vã kể lại những gì đã thấy cho Đức Phật: “Thế Tôn, hôm nay chúng con thấy những người tù bị trói buộc bởi xiềng xích, thật đáng thương xót!”
Đức Phật từ ái mỉm cười, hỏi: “Các con nghĩ, trên đời này còn điều gì trói buộc con người hơn cả xiềng xích không?”
Các tỳ kheo nhìn nhau, rồi mỗi người chìm vào suy tư.
Đức Phật từ bi nói với họ một đoạn, dĩ nhiên Đức Phật cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm đã nói bằng tiếng Ấn Độ cổ, dịch sang ngôn ngữ ngày nay, thì đó là một đoạn rất dài, ý đại khái là: “Sự khao khát đồ ăn, sự theo đuổi y phục lộng lẫy, lòng tham của cải, sự chấp trước vào gia đình… những dục vọng này, giống như sợi dây vô hình, trói chặt con người, khiến họ không được tự do. So với xiềng xích hữu hình, những gông cùm vô hình này càng làm người ta đau khổ, càng làm người ta lạc lối.”
Giọng của Đức Phật trầm chậm mà mạnh mẽ, như tiếng chuông ngân vọng, đánh thức tâm can của các tỳ kheo.
Trong mắt Đức Phật, những chấp trước vào đồ ăn, y phục, của cải, gia đình, những dục vọng mà chúng mang lại còn giam cầm con người hơn cả xiềng xích, còng tay và nhà tù.
Các tỳ kheo bỗng nhiên bừng tỉnh, hóa ra, sự trói buộc thật sự không phải là xiềng xích bên ngoài, mà là những dục vọng bên trong tâm. Xiềng xích bên ngoài, người khác có thể cởi bỏ; nhưng gông cùm trong tâm, chỉ có chính mình mới có thể thoát ra, chỉ khi chiến thắng được ma tâm, mới có thể đạt được tự do và hạnh phúc thật sự.
Lời dạy của Đức Thích Ca khai sáng lòng người, khiến người ta suy ngẫm. Sớm đoạn trừ những dục vọng ấy, thì có thể giống như chim sổ lồng, tự do bay lượn trên bầu trời. Điều này cũng không khó hiểu vì sao những tỳ kheo ngày xưa chọn từ bỏ mọi thứ thế gian, gia nhập tăng đoàn. Bởi vì họ theo đuổi sự giải thoát của tâm hồn, đó mới là tự do chân chính.
Nguồn: Trưởng lão Dhammananda biên soạn, Tuyển tập truyện Pháp Cú Kinh

THI"Đàn ông tu niệm nhớ nghe đây,Con vợ oan gia đã lỡ gây.Lao khổ mến rồi thôi rán trả,Nhọc nhằn được biết chớ thêm gây...
10/05/2025

THI
"Đàn ông tu niệm nhớ nghe đây,
Con vợ oan gia đã lỡ gây.
Lao khổ mến rồi thôi rán trả,
Nhọc nhằn được biết chớ thêm gây.
Đường đời là khổ cần nên lánh,
Cửa đạo khá vào họa khỏi lây.
Muốn đặng công thành nên chánh quả,
Khổ lao dõi bước rán theo thầy."

Address

Angiang
90000

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Đuốc Từ Bi posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share

Category