Kinh Phật Media

Kinh Phật Media Kinh Phật.

2T - 🍎🌼NHỮNG CÂU CHUYỆN NHÂN QUẢ BÁO ỨNG CẢM ỨNG THIÊN (Phần 26)🍇🌹      Mọi người đều kính trọng, trời ban phước cho, ph...
25/12/2025

2T - 🍎🌼NHỮNG CÂU CHUYỆN NHÂN QUẢ BÁO ỨNG CẢM ỨNG THIÊN (Phần 26)🍇🌹
Mọi người đều kính trọng, trời ban phước cho, phước lộc theo đến, các tà lánh xa, thần linh bảo vệ.
Thiện thì ai nấy đều vốn sẵn có, hễ được khơi gợi, sẽ dấy động. Dẫu là hàng ngu phu ngu phụ, nếu nghe một chuyện lành, mọi người nhất định sẽ ca ngợi. Dẫu ngươi là kẻ hung ác cùng cực, trông thấy người lành, cũng chẳng dám xâm phạm. Ấy là vì lương tâm phát khởi, sẽ đều là chẳng thể không làm như thế được. Bàn đến chuyện “mọi người đều kính trọng” thì ắt là do đạo đức của người ấy thật sự có điểm đáng kính, không một ai là chẳng như vậy!

Đời Tống, Tư Mã Ôn Công được triệu về kinh đô làm quan. Ai trông thấy ông cũng đều lấy tay bưng trán. Ông đi tới đâu, dân chặn đường, thưa: “Ngài đừng trở về Lạc Dương, hãy ở lại làm Tể Tướng cho thiên tử, [giúp cho] lũ dân chúng tôi được sống sót”. Lưu đại gián làm quan tại triều đình, thiên hạ không ai chẳng ca ngợi lòng trung của ông. Phú Văn Trung (Phú Bật) cưỡi con lừa thọt đến cầu Thiên Tân, những người theo sau ông xem [ngày càng đông] đến nỗi chợ vắng tanh. Từ Tiết Hiếu dựng lều trông mộ [mẹ suốt ba năm] tại làng Hoài Âm, trong thành hằng ngày đều có người đến tỏ lòng tôn kính. Thiệu Khang Tiết xuất du, dân chúng không ai là chẳng vội vã tranh nhau đón tiếp. Người đã ưa thích [dường ấy], có thể biết là lòng trời cảm cách dường nào. Nếu họ thật sự chẳng có điểm đáng kính, làm sao có thể khiến cho người khác cảm động dường ấy? Những vị ấy lúc sống sẽ làm bậc Tể Tướng hoặc thầy [của mọi người], khuất núi sẽ thành bậc thần minh vậy. Thiên đạo chẳng thiên vị yêu thương riêng một ai, nhưng thường thuận theo bậc thiện nhân. Chẳng nói mà ứng hợp hay khéo, chẳng chuốc vời mà tự đến. Ta thật sự dùng lòng thành cảm thông, sẽ chẳng bao giờ không được gia hộ vậy. Chỉ nên trọn hết bổn phận làm người, lòng thành chẳng gián đoạn. Do vậy, rốt cuộc sẽ cảm động lòng trời. Kinh Cứu Kiếp có câu: “Một dạ như thế, nghe theo mạng trời". Có thể thấy là [thiện nhân làm lành] chẳng có mảy may ý niệm mong cầu, trông ngóng!

Đời Tống, Châu Tử nói: “Trời đất chẳng làm một điều gì, chỉ lấy sinh vật làm tâm, kẻ nào trong bất cứ niệm nào cũng đều có ý niệm lợi lạc, cứu giúp [người khác] thì sẽ [có cái tâm giống hệt như] trời đất. Kẻ phù hợp lòng trời, lẽ nào trời chẳng ban phước cho?”

Đời Tống, Lưu An Thế dâng sớ thẳng thừng biện định những kẻ tà chánh trong đám triều thần. Ông lại luận định Chương Đôn là hạng tiểu nhân chẳng thể dùng được. Đến khi Chương Đôn nắm quyền, ông bị đày đi xa, trải qua nhiều chỗ thuộc vùng núi non, biển cả, lênh đênh nhiều nơi. Người ta cho rằng ông ắt phải chết, nhưng rốt cuộc ông chẳng sao. Tuổi đã tám mươi, ông chưa hề bị bệnh ngày nào. Trong khi ông bị biếm trích, có kẻ toan lấy lòng Chương Đôn, xin giết ông. Tới khi gã đó rong ruổi đến chỗ ông, toan ra tay, bỗng như bị vật gì đánh trúng, hộc máu chết tươi!

Đường Tử Dư từ đất Thục (Tứ Xuyên) đưa linh cữu của cha về Cát Thủy. Khi ấy, nhằm tiết Thu, nước sông hồ dâng cao, khe Cù Đường nước chảy càng xiết. Trời đổ mưa, nhà thuyền kinh hoảng. Tử Dư ngửa mặt lên trời khóc lớn, mới khóc gào một tiếng, nước đã rút hơn hai mươi trượng. Thuyền đi qua, nước lại dâng lên như cũ. Trung hiếu đứng đầu các đức, cho nên đạo trời che chở dường ấy. Ở đây, nêu lên hai câu chuyện này, [nhằm chứng tỏ] con người chuyện gì cũng có thể cảm thông cõi trời, chuyện gì cũng đều được trời cao che chở, bảo vệ vậy!
Bậc thánh hiền quân tử lời nói tốt lành, hành vi tốt lành, chiêu cảm hòa khí, tự nhiên những điều tốt lành ứng hợp. Kinh Thi có câu: “Vui thay bậc quân tử, phước lộc do đó mà sanh" chính là nói về chuyện này vậy.

Đời Đường, Quách Tử Nghi khôi phục hai kinh đô, công che lấp cả triều đình nhà Đường. Ông dốc sức lo liệu cho sự an nguy của thiên hạ suốt ba mươi năm. Ông làm Trung Thư Lệnh, khảo hạch [bá quan] suốt hai mươi bốn năm. Phú, quý, trường thọ, con cháu vinh hiển, xưa nay rất hiếm người sánh bằng. Ông Quách được hưởng phước lộc trọng hậu là vì công lao to lớn, đức hạnh cao tột, chứ chẳng phải là do may mắn mà được như thế. Người làm lành hãy nên suy nghĩ!

Đời Minh, Trịnh Chiếu ở Phượng Dương hằng ngày chú trọng làm lợi cho người khác. Một đêm mộng tới chỗ Thiên Phủ, thấy thần bày sẵn ngôi vị trống chờ đợi, bảo: “Ông vốn nghèo hèn, do làm lành, nên sai hai vị thần phước lộc đi theo ông. Mai sau sẽ ngự nơi địa vị này”. Trịnh Chiếu tỉnh giấc, thiện niệm càng thêm vững chắc, thanh danh càng rạng ngời. Đi đến đâu, tiền bạc cũng rủng rỉnh. Tới chỗ nào, phước lộc cũng theo sát bên thân. Cháu con phú quý, hưng thịnh, nhận lãnh chức vị cao sang, bổng lộc trọng hậu cho đến lúc mất. Về sau, quả nhiên thoát xác, chứng quả vị Tịnh Dục Chân Nhân. Nhan Uyên chết yểu nơi ngõ hẹp. Di Tề chết đói nơi Thủ Dương Nguyên Hiến nghèo nàn, Phạm Bàng bị hành hình, chính là những vị tu đức, nhưng kém phước lộc. Bậc thiện đức ở chỗ nào, nơi đó mặt trời, mặt trăng tranh nhau tỏa sáng, phước lộc tầm thường chẳng thể sánh bằng. Hãy nên biết đó là đạo lý của những bậc vì nghĩa mà xả thân.
Tà và chánh chẳng thể cùng tồn tại. Hễ chánh tới, tà chẳng thể tự dung. Ví như vầng thái dương vừa mọc, ắt băng tuyết tự tiêu tan. Lý Cát Phủ nói: “Thần thánh chuộng chánh trực. Người vâng giữ lẽ chánh trực, ắt thần sẽ phù trợ. Yêu ma chẳng thể thắng nổi bậc đức hạnh. Hễ thất đức, ắt yêu ma lẫy lừng, đó là lẽ tự nhiên”.

Đời Minh, Cảnh Thanh đi thi Hội, đi qua huyện Thuần Hóa. Chủ nhà có một đứa con gái bị yêu quái dựa thân. Ông nghỉ đêm tại nhà ấy; đêm đó, yêu quái không tới. Cảnh Thanh đi rồi, nó lại mò tới. Cô gái hỏi nguyên do, [yêu quái trả lời]: “Tránh né ông tú tài họ Cảnh”. Cô ta bèn kể với cha. Cha cô ta đuổi theo Cảnh Thanh, [kể rõ đầu đuôi], Cảnh Thanh bèn viết bốn chữ “Cảnh Thanh ở đây”, bảo hãy dán lên cửa, nạn yêu quái chấm dứt. Cảnh Thanh hết sức trung liệt, cho đến nay vẫn được người ta ngưỡng mộ.
Thứ đầy ắp trong vòng trời đất chính là Khí (chánh khí). Nếu chánh khí chẳng thiếu khuyết, do sự chánh đại quang minh được lưu hành, yêu ma quỷ quái chẳng dám xâm nhiễu. Vì thế, bậc quân tử có cái học “nuôi dưỡng chánh khí. Dưỡng khí cốt yếu là trị tâm. Dốc sức giữ cho cái tâm thanh tịnh, quang minh, giữ lòng chân thành, tâm sẽ an định ắt yêu ma quỷ quái chẳng thể xen lẫn vào được. Nếu lòng người tối tăm, mê muội, chẳng cần hỏi tà từ đâu đến, trong tâm đã có sẵn tà quái tụ tập rồi, há có thể nào khiến cho [yêu ma quỷ quái] vừa trông thấy bèn khuất phục ư?
Thần và người cùng một lý. Ai được mọi người kính trọng thì thần cũng gia hộ. Đó gọi là “đạo đức đã cao trọng, quỷ thần đều khâm phục”.

Đời Tống, Hàn Kỳ từ Thành Đức chuyển sang trấn nhậm Trung Sơn. Đi đến Sa Hà, bỗng những người đi đầu trở lại thưa: “Nước lũ sắp tràn tới”. Ông vội truyền chuẩn bị thuyền để vượt sông. Quả nhiên sóng to như núi. Thuyền sắp chìm, những người đi theo đều hết sức kinh hoảng. Bỗng có một con rồng thần từ đầu nguồn chắn ngang dòng nước, nước bèn lặng êm. Thuyền qua sông rồi rồng mới rời đi, nước bèn dâng tràn ồ ạt như cũ.

Đời Minh, ông Kim ở Nghi Trưng mở tiệm cầm đồ. Đầu niên hiệu Gia Tĩnh, bọn cướp sông cướp bóc gần hết những nhà giàu có, chỉ riêng họ Kim là không sao. Quan trên ngờ ông ngầm qua lại với lũ cướp. Đến khi bắt được kẻ cướp, tra hỏi nguyên nhân, bọn cướp thưa: “Đã vài lần đến cướp, đều bị thần kim giáp xua đuổi”. Quan chưa tin, gọi những hàng xóm ông Kim đến dò hỏi, họ đều nói: “Ông Kim thật sự tích đức, các tiệm cầm đồ thường là trả tiền cho khách cầm đồ thì ít, đòi tiền chuộc nặng nề. Chỉ riêng tiệm ông ta là cho cầm và chuộc lại công bình, ước định giá trị của món đồ đem cầm rất rộng rãi, định kỳ hạn chuộc lại dài hơn. Lại còn hỏi thăm, nếu là người già, nghèo khổ, sẽ phá lệ không tính tiền lời. Lại còn vào mùa Đông thì không tính tiền lời đối với áo ấm. Mùa Hè thì không tính tiền lời đối với áo mùa Hè. Hằng năm đều làm như vậy. Trời che chở người lành, sai thần đến ủng hộ, đối với lý ấy, há có ngờ chi?” Quan bèn khen ngợi ông Kim, tâu lên triều đình xin khen thưởng.
Vu Thiết Tiều nói: - Trong phần đầu là nói đến họa ác. Trong phần trước đã nói “mọi người đều ghét", nay nói đến phước thiện, bèn trước hết là nói “mọi người đều kính" . Bởi lẽ, những chuyện như ác tinh gieo tai họa, thần linh hộ vệ, có lẽ nhất thời chưa trông thấy, mà chuyện [mọi người] đều kính trọng hay đều ghét bỏ chính là những điều báo trước có thể coi như là chứng cớ vậy. Kẻ có tâm học đạo hãy thường phản tỉnh, tự suy xét: “Nếu người kính trọng ta nhiều, sẽ biết thần linh ủng hộ, bảo vệ đông đảo. Nếu kẻ ghét ta nhiều, sẽ biết ác tinh chói ngời trên đỉnh đầu!” Lòng người chính là ý trời, chẳng cần phải tìm tòi từ chỗ chẳng thấy, chẳng nghe!

Trích từ sách Cảm Ứng Thiên Vựng Biên
Hoan nghênh chia sẻ
Nguyện Đem Công Đức Này,
Trang Nghiêm Phật Tịnh Độ
Trên Đền Bốn Ân Nặng,
Dưới Cứu Khổ Ba Đường
Nếu Có Ai Thấy Nghe,
Đều Phát Tâm Bồ Đề
Hết Một Báo Thân Này,
Đồng Sanh Nước Cực Lạc 🪷
🙏🪷A Di Đà Phật 🙇❤️
🙏🪷A Di Đà Phật 🙇❤️
🙏🪷A Di Đà Phật 🙇❤️
🙏🪷A Di Đà Phật 🙇❤️


Ấn Quang Đại sư khai thị: HỘ NIỆM CHO NGƯỜI LÂM CHUNG “Trợ giúp thành tựu cho một chúng sanh được vãng sanh, tức là thàn...
24/12/2025

Ấn Quang Đại sư khai thị: HỘ NIỆM CHO NGƯỜI LÂM CHUNG

“Trợ giúp thành tựu cho một chúng sanh được vãng sanh, tức là thành tựu cho một chúng sanh tương lai thành Phật. Công đức này thật không thể nghĩ bàn”.

Hộ niệm là trợ giúp cho một người được vãng sanh. Người hộ niệm cần phải biết rõ phương pháp cũng như đạo lý về vãng sanh thì mới đem lại lợi ích cho người được hộ niệm.

Người không tu hành, không hiểu Phật pháp, không được hướng dẫn vãng sanh, không có hộ niệm, giờ lâm chung đa phần thần thức của họ thường bị dìm trong ác mộng, bị rơi vào những cạm bẫy dữ ác, rơi vào những cảnh hung hiểm. Bị lôi vào đó rồi thì rất khó thoát thân, thần thức sẽ theo nghiệp đi thọ báo.

Người lâm chung, thần thức của họ không tập trung. Mỗi người mỗi khác, trong tiềm thức của họ khơi lại những hành vi thiện ác mà khi sống họ đã huân tập từ lâu nay. Hình bóng tạng thức sẽ dẫn thần thức của họ đi ra ngoài. Lúc này họ bị bất lực, vì thần thức hoàn toàn do nghiệp lực làm chủ, năng lực và sức hút của nghiệp cũ rất nặng. Nếu nghiệp xấu ác của người đó nhiều, thì chủng tử xấu ác khởi lên mạnh mẽ, lập tức họ bị chiêu cảm đi vào trong ba đường xấu ác. Nếu nghiệp thiện nhiều, thì chủng tử thiện khởi lên, họ được chiêu cảm sanh về các cõi thiện, là cõi trời, cõi người, cõi A-tu-la.

Nếu bình thường, hằng ngày họ siêng năng tu niệm Phật, tức là gieo chủng tử Phật vào trong tâm của họ. Chủng tử Phật ngày càng phát triển lớn mạnh, khi lâm chung, chủng tử Phật xuất hiện trước, lúc ấy mới cảm ứng đạo giao với Phật và được Phật tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc.

Nếu sự huân tập chủng tử Phật vào trong tâm họ chưa đủ mạnh, chưa đủ năng lực để vãng sanh, thì cần phải có người khác trợ lực, bằng cách niệm Phật trợ niệm, thì chủng tử Phật mới xuất hiện, mới dễ dàng vãng sanh được. Cho nên, điều cốt yếu là hằng ngày chúng ta phải siêng năng niệm Phật, khi lâm chung chủng tử Phật trong tâm xuất hiện trước, thì lúc đó mới hy vọng có cơ hội vãng sanh. Nói tóm lại, trợ niệm nghĩa là trợ giúp cho tâm người đó khởi lên chủng tử Phật.

Là một Phật tử, bất luận là người đó tu hành theo pháp môn gì, hành trì như thế nào (ăn chay, tụng kinh, niệm Phật, trì chú vv...), điều quan trọng nhất là làm sao để khi lâm chung trong tâm họ xuất hiện bốn chữ “A Di Đà Phật” và có ý nguyện mưốn được vãng sanh. Phát khởi chủng tử Phật mới thật có công dụng, mới trợ giúp cho việc vãng sanh.

Khi hộ niệm cho những người chưa biết tu hành, chưa biết niệm Phật, thì điểm đầu tiên là cần phải giải thích cho họ thấy rõ sự khác biệt giữa Chết và Vãng Sanh. Người chưa biết tu hành, nhưng trước giờ phút lâm chung nếu biết ăn năn sám hối, quyết lòng niệm Phật cầu vãng sanh, vẫn được vãng sanh. Hãy tùy cơ khai thị, giúp cho họ vững tâm niệm Phật, và tha thiết cầu vãng sanh để được hưởng cảnh an vui cực lạc, chứ không phải chết.

Chết rồi thì thần thức theo nghiệp mà đi thọ báo, đi luân hồi. Thật tình mà nói, chết rồi thì ghê lắm, không còn thuốc chữa nữa! Không thể chết, niệm Phật là pháp môn bất tử, không thể chết. Khi thọ mạng của chúng ta đến rồi, lẽ ra là ta phải chết, nhưng không chết, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn chúng ta về Tây Phương Cực Lạc. Vãng sanh là sống mà đi, lúc lâm chung thấy Phật đến tiếp dẫn, cùng đi với Phật, thân thể này không cần nữa, vứt bỏ đi. Điều này chúng ta phải hiểu rõ ràng, phải minh bạch, pháp môn niệm Phật thật sự là pháp môn bất tử. Cái túi da thúi này không phải là đồ tốt, là gánh nặng phiền lụy, bình thường chúng ta không có cách chi vứt bỏ. Khi Phật đến, nhờ Phật lực gia trì chúng ta mới có thể đem vứt bó nó, theo Phật mà đi.

Điểm thứ hai, phân tích rõ thế giới Ta bà này là “Ngũ trược ác thế”, là khổ, không có vui. Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc là vĩnh viễn thoát khỏi tam giới lục đạo, một đời bất thối thành Phật. Nếu có thời gian có thể sơ lược giới thiệu quang cảnh ở Tây Phương Cực Lạc cho người bệnh nghe, để kích khởi tâm ưa thích và tâm ham muốn vãng sanh của họ.

Điểm thứ ba, được vãng sanh hay không là ớ “một niệm sau cùng” của thời khắc lâm chung.

- Một niệm sau cùng là ác, liền lúc đó trong tâm xuất hiện cảnh giới của địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Thần thức sẽ theo nghiệp mà đi đầu thai vào những cảnh giới ác trong tam ác đạo.

- Một niệm sau cùng là thiện, lúc đó trong tâm liền xuất hiện thiện cảnh của trời, người và thần thức sẽ theo những thiện cảnh này mà đầu thai vào tam thiện đạo.

- Một niệm sau cùng, nếu là nhất tâm niệm “A Di Đà Phật”, cầu vãng sanh Tây Phương. Trong tâm sẽ xuất hiện cảnh giới Tây Phương Cực Lạc và A Di Đà Phật cùng chư Thánh Chúng đến tiếp dẫn, thần thức liền đi theo Phật về Thánh đạo của thế giới Cực Lạc.

Vấn đề tâm lý rất cần thiết khi hộ niệm cho người bệnh. Đối với những người chưa tu hành hoặc ít tu hành, khi hộ niệm chúng ta cần phải chú ý sử dụng đến phương tiện thiện xảo để hóa giải những chướng ngại về mặt tâm lý trước, có như vậy thì sự hộ niệm mới khỏi bế tắc, giúp người bệnh được có cơ duyên tin tưởng và niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ. Giảng giải, chỉ bày, hướng dẫn, an ủi họ một cách khéo léo khiến họ phát khởi chánh tín. Khuyên người bệnh buông xả tất cả, nhất tâm niệm Phật, phát nguyện vãng sanh, mạnh dạn phát lồ sám hối tội lỗi, không sợ chết, thích vãng sanh, buông xả vạn duyên, sẵn sàng đi theo Phật bất cứ lúc nào.

Mọi người thay nhau luân phiên niệm Phật, giúp cho người lâm chung giữ được chánh niệm. Vì lúc này tâm và sức lực của người bệnh rất yếu, họ khó có thể niệm liên tục và lâu dài được, hoàn toàn nương nhờ vào sự trợ niệm của người khác mới có thể thành tựu được. Nên biết, mình giúp cho một người khác được chánh niệm vãng sanh, tức là mình được quả báo lành ở tương lai, là người khác sẽ trợ niệm lại cho mình được chánh niệm vãng sanh về cõi Phật

Nguyện Đem Công Đức Này,
Trang Nghiêm Phật Tịnh Độ
Trên Đền Bốn Ân Nặng,
Dưới Cứu Khổ Ba Đường
Nếu Có Ai Thấy Nghe,
Đều Phát Tâm Bồ Đề
Hết Một Báo Thân Này,
Đồng Sanh Nước Cực Lạc 🪷
🙏🪷A Di Đà Phật 🙇❤️
🙏🪷A Di Đà Phật 🙇❤️
🙏🪷A Di Đà Phật 🙇❤️
🙏🪷A Di Đà Phật 🙇❤️

2Q - 🍎🌼NHỮNG CÂU CHUYỆN NHÂN QUẢ BÁO ỨNG CẢM ỨNG THIÊN (Phần 23)🍇🌹Được sủng ái mà lo sợ.       Được hưởng sự sủng ái vẻ ...
23/12/2025

2Q - 🍎🌼NHỮNG CÂU CHUYỆN NHÂN QUẢ BÁO ỨNG CẢM ỨNG THIÊN (Phần 23)🍇🌹
Được sủng ái mà lo sợ.
Được hưởng sự sủng ái vẻ vang, dẫu là xứng đáng được hưởng, cũng nên biết tình thế, biết đủ. Nếu được hưởng sự sủng ái chẳng đáng nên có, hãy nên nghĩ là đáng kinh, đáng sợ. Bởi lẽ, phước chính là họa ngầm ẩn. Mặt trời chính ngọ rồi sẽ xế, trăng tròn đầy rồi khuyết là lẽ cố nhiên! Đối với quân vương, ơn như trời đất, nếu chẳng thật dạ mong báo đền, kẻ bầy tôi há có thể tự an, há chẳng càng thêm kinh sợ ư?

Châu Thành Vương phong Bá Cầm làm vua ở nước Lỗ, Châu Công răn dạy:
- Con đừng vì có nước Lỗ mà kiêu ngạo với kẻ khác. Ta nghe nói, đức hạnh rộng lớn, hễ giữ lòng cung kính thì sẽ được vinh hiển. Đất đai rộng rãi, giàu có, giữ đức tánh tiết kiệm thì sẽ yên ổn. Bổng lộc và địa vị cao quý, vẻ vang, hãy giữ lòng khiêm tốn thì sẽ phú quý. Dân đông, quân mạnh, hãy giữ lòng kiêng sợ thì sẽ thường chiến thắng. Thông minh sáng trí, hãy giữ thái độ như kẻ ngu thì sẽ được lợi ích. Học rộng, nhớ nhiều, hãy giữ thái độ như kẻ hiểu biết nông cạn thì [kiến thức] sẽ càng rộng thêm. Hãy giữ sáu điều ấy, đó đều là những phẩm đức khiêm cung.
Đạo trời khiến cho kẻ tự mãn suy sụp, khiến cho người khiêm tốn được tăng ích. Đạo đất sẽ biến đổi [nhằm giảm thiểu] cái tròn đầy để vun đắp cho cái thấp kém hơn. Đạo người thì ghét kẻ tự mãn, ưa chuộng người khiêm tốn. Con hãy thận trọng, đừng vì có nước Lỗ mà kiêu căng đối với kẻ khác.
Học nhân trong hiện thời nếu thật sự có thể nghiền ngẫm lời giáo huấn ấy, ắt lòng kiêu căng, thái độ ngạo mạn sẽ chẳng do đâu mà nẩy sanh, sẽ hưởng vinh dự, ân sủng càng nhiều hơn. Hễ được hưởng sự ân sủng, hãy luôn giữ lòng kinh sợ vậy!

Đời Đường, Sầm Văn Bổn được phong làm Trung Thư Lệnh bèn lộ vẻ lo âu. Mẹ hỏi nguyên cớ, Văn Bổn thưa: “Chẳng có công huân, chẳng phải là bậc lão thần, thế mà được vinh sủng quá phận, địa vị cao, chức trách nặng nề, cho nên con lo sợ”. Ông bảo những người khách đến chúc mừng: “Nay tôi nhận lời chia buồn, chứ không nhận lời chúc mừng”.
Đời Tống, Văn Chánh Công Vương Đán tuổi già, quan chức càng cao. Tới khi đi sứ Triều Tiên, từ trong cung cấm, ngồi xe to ra khỏi cửa kinh thành. Trăm quan đưa tiễn, đua nhau khen ngợi ông được đãi ngộ vinh hiển. Ông nói: “Tôi có ích gì cho đất nước, chỉ cảm thấy bồn chồn, bất an!”

Tư Mã Ôn Công (Tư Mã Quang) gởi thư cho cháu có đoạn: “Gần đây, ta hưởng ân vua, được phong làm Môn Hạ Thị Lang, cả triều đình kẻ đố kỵ vô số. Ta ngu độn, thẳng tính, ở trong [hoàn cảnh] ấy, giống như chiếc lá vàng trong cơn gió dữ, chẳng mấy chốc sẽ rụng. Do vậy, kể từ khi vâng mạng tới nay, chỉ lo sợ, chẳng vui mừng. Các ngươi hãy nên biết ý này!” Mấy vị ấy do được sủng ái mà lo sợ, nhưng câu nói “nhận lời chia buồn” của ông Sầm đã diễn tả rõ ràng ý đó. Xưa kia, Tôn Thúc Ngao làm lệnh doãn [nước Sở], có một vị lão nhân đến chia buồn như sau: “Do thân được hưởng sự tôn quý mà kiêu căng với kẻ khác, dân sẽ xa lánh. Ở địa vị cao mà tự tiện chuyên quyền, vua sẽ ghét. Bổng lộc trọng hậu mà chẳng biết đủ, sẽ là ở trong cảnh hoạn nạn!” Lại nói: “Địa vị càng cao, lòng càng khiêm tốn. Quan càng to, tánh càng thêm nhũn nhặn. Bổng lộc càng trọng hậu, bèn thận trọng chẳng dám lạm dụng. Ông giữ cẩn thận ba điều ấy, sẽ đủ để cai trị nước Sở”. Ông Sầm đã lãnh hội sâu xa ý chỉ này. Phương cách ứng xử của người có địa vị cao chính là tuân theo lý này.

Đời Tống, ông Lô Đa Tốn thoạt đầu được phong làm Tham Chánh, ăn mặc tiêu dùng dần dần xa xỉ. Cha ông ta âu sầu bảo: “Nhà ta nhiều đời là nhà Nho thanh bạch, một khi được phú quý bèn thành ra như thế, chẳng biết sẽ đọa lạc đến đâu!” Đa Tốn chẳng quan tâm lời cha, rốt cuộc bị suy bại

Trích từ sách Cảm Ứng Thiên Vựng Biên
Hoan nghênh chia sẻ
Nguyện Đem Công Đức Này,
Trang Nghiêm Phật Tịnh Độ
Trên Đền Bốn Ân Nặng,
Dưới Cứu Khổ Ba Đường
Nếu Có Ai Thấy Nghe,
Đều Phát Tâm Bồ Đề
Hết Một Báo Thân Này,
Đồng Sanh Nước Cực Lạc 🪷
🙏🪷A Di Đà Phật 🙇❤️
🙏🪷A Di Đà Phật 🙇❤️
🙏🪷A Di Đà Phật 🙇❤️

Hoàng Công Bằng

2P - 🍎🌼NHỮNG CÂU CHUYỆN NHÂN QUẢ BÁO ỨNG CẢM ỨNG THIÊN (Phần 22)🍇🌹    Bị nhục chẳng oán.   Có chuyện sỉ nhục đưa đến, hã...
23/12/2025

2P - 🍎🌼NHỮNG CÂU CHUYỆN NHÂN QUẢ BÁO ỨNG CẢM ỨNG THIÊN (Phần 22)🍇🌹
Bị nhục chẳng oán.
Có chuyện sỉ nhục đưa đến, hãy nên tự hỏi: “Lỗi ở nơi ta ư?” [Nếu đúng như vậy], đáng nên bị nhục! Lỗi nơi người khác, thì chẳng đáng coi là nhục. [Kẻ đó] làm nhục ta, ta vẫn chẳng nhục. Không chỉ là chẳng nên oán, mà thật ra, chẳng có gì đáng nên oán! Những bậc đại trí đại dũng từ xưa, ắt có thể nhẫn những điều sỉ nhục nhỏ và những nỗi phẫn hận nhỏ thì mới có thể gánh vác đại sự, thành công to lớn. Kẻ tâm lượng hạn cuộc, thiên vị, nông cạn, há biết nổi ư?

Đời Minh, Nhan Mậu Do là người xứ Bình Hồ, răn đệ tử rằng: - Phàm là kẻ chẳng thể nhẫn, chắc chắn sẽ chẳng biết nỗi khó khăn trong chữ Nhẫn. Chẳng đối chiếu, so sánh giữa hai niệm thiện và ác, sẽ trọn chẳng biết sự mầu nhiệm của chữ Nhẫn. Kẻ nào nếu chẳng thể nhẫn nhục chịu khổ, dẫu có thiện tâm, nhưng bị kích động là hỏng, vừa bị thử thách liền bị đọa. Trời trao trách nhiệm to lớn cho kẻ nào, ắt sẽ tác động đến tánh nhẫn trong tâm kẻ ấy, chính là vì muốn cho ai nấy đều vượt được cái ải này! Nói chung, kẻ ra sức giúp đỡ người khác, chẳng ngại bị sân hận, giận dữ. Kẻ mưu tính [tạo điều lợi ích] cho người khác, chẳng nề hà bị oán hận, trách móc. Đảm nhiệm mọi chuyện thì cũng phải nhận luôn sự oán hận, hễ khuyến hóa bèn chẳng ngại bị chê trách. Có tấm lòng khoan dung, nhân hậu, chắc là sẽ bị cười chê, khinh miệt. Đấy là những thứ luôn đi kèm theo! Chẳng biện định rõ căn nguyên này, sẽ chẳng thể là kẻ hành thiện được!

Đời Tống, Lý Hàng làm Tể Tướng, có gã học trò ngông cuồng chặn ngựa, dâng thư, [trong thư ấy] chê trách đủ mọi khuyết điểm của ông ta. Ông Lý từ tốn, cảm tạ: “Để tôi trở về đọc kỹ”. Gã cuồng sinh tức giận, châm biếm: “Ở địa vị cao, chẳng thể cứu tế thiên hạ, lại chẳng thoái ẩn, trở ngại đường tiến thân của bậc hiền năng đã lâu rồi, lòng há chẳng thẹn ư?” Ông ngay lập tức ở trên ngựa rất cung kính, rất lo sầu nói: “Đã nhiều phen xin về, hiềm rằng chúa thượng chưa chấp thuận, chẳng dám tự tiện [từ quan]”. Trọn chẳng có sắc mặt giận dữ.

Đời Tống, Văn Ngạn Bác làm Thủ Tướng. Quan ngự sử Đường Giới đàn hặc Văn Ngạn Bác lúc làm tri phủ Ích Châu đã cho làm những tấm gấm xinh đẹp để tặng cho bọn phi tần trong cung hòng [lo lót, vận động] nắm quyền [tể tướng], xin vua hãy bãi chức [Văn Ngạn Bác]. Vua tức giận, toan đày ông ta đi xa. Khi ấy, Ngạn Bác ở trước mặt vua, Đường Giới quở trách: “Ngạn Bác hãy nên tự phản tỉnh. Nếu có thì chớ nên giấu giếm”.
Ngạc Bác bái tạ chẳng ngớt. Vua hết sức tức giận, đày Đường Giới làm Biệt Giá ở Anh Châu, bãi chức [Tể Tướng của Ngạn Bác], sai Ngạn Bác đi làm tri phủ Hứa Châu. Về sau, Ngạn Bác được phục chức Tể Tướng, tâu với vua: “Đường Giới làm Ngự Sử, nói chuyện của thần, phần nhiều là căn bệnh của bậc trung thần. Trong ấy, tuy có chuyện nghe lầm tin đồn đãi, nhưng thuở ấy [ông ta] đã bị trách phạt quá sâu”. Vua bèn triệu [Đường Giới] về trông Gián Viện (Ngự Sử Đài). Người đương thời gọi Ngạn Bác là bậc trưởng giả. Ông làm Thái Sư, Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự trải ba triều vua Anh Tông, Thần Tông, và Triết Tông, được cử làm người đứng đầu các vị Tể Tướng (Thủ Tướng), được phong làm Lộ Quốc Công. Ông làm Tể Tướng suốt năm mươi năm, tiếng tăm vang rền bốn biển, thọ chín mươi hai tuổi mới mất.

Đời Tống, Phú Bật giáo huấn đệ tử: “Một chữ Nhẫn chính là cửa ngõ dẫn vào các điều tốt đẹp. Nếu ngoài thanh liêm và tiết kiệm, lại thêm một chữ Nhẫn, sẽ chẳng có chuyện gì không làm được”. Thuở bé, có kẻ chửi ông, người ta bảo: “Chửi mày đấy!” Phú Bật thưa: “Sợ là chửi người khác đấy chớ”, họ bảo: “Nó gọi tên họ mày mà chửi mà”. Phú Bật đáp: “Thiên hạ há chẳng có người trùng tên, trùng họ ư?” Kẻ chửi bới nghe nói như vậy, hết sức hổ thẹn.

Ông Nhan Quang Trung nói: “Chữ Nhẫn khó khăn nhất. Có thể chịu đựng, ắt phẩm đức và tâm lượng to lớn. Nếu như chẳng thể nhẫn, tức là tánh khí kiêu quý đã ngập tràn!” Người xưa có thơ rằng: “Thiếu niên luồn đũng sao không bực, ông cụ bên cầu dễ tức thay. Đời người nếu chẳng xem mai hậu, Hoài Âm danh há kém Văn Thành" . Nói chí lý thay! Hàn Tín chịu nhục luồn đũng quần mà thành vương gia, bọn Giáng, Khoái vì hổ thẹn mà chết. Uống đến đầy ứ, tự nhiên sẽ chẳng tăng thêm được nữa! [Bài thơ này dùng hai nhân vật để nói về chữ Nhẫn. Thuở hàn vi, Hàn Tín bị đói nghèo, người gầy tong teo, thường phải ăn chực cơm của một người đàn bà nghèo làm thợ giặt (phiếu mẫu), bị mọi người khinh rẻ. Có lần gã đồ tể cầm dao dọa Hàn Tín, bắt ông phải luồn qua đũng quần của hắn. Suy nghĩ kỹ, Hàn Tín quyết định luồn dưới đũng quần hắn mặc cho thiên hạ cười chê. Câu thứ hai nói về Trương Lương, người nước Hàn, ôm lòng diệt nhà Tần. Có một hôm, ông đến cầu Hạ Bì, thấy một cụ già tiên phong đạo cốt. Cụ già làm rớt giày xuống gầm cầu, sai Trương Lương xuống nhặt. Ba lần như thế, Trương Lương đều chịu nhịn, nhặt lên. Cụ già mỉm cười, trao cho Trương Lương quyển Thái Công Binh Pháp và Tố Thư, khen: “Đứa bé con dễ dạy!” Nhờ đó, Trương Lương trở thành mưu sĩ bậc nhất của Hán Cao Tổ (Lưu Bang). Ông tiến cử Hàn Tín cầm quân đánh bại Hạng Vũ, giúp Hán Cao Tổ lập ra nhà Hán. Công thành danh toại, Trương Lương bèn từ quan, nại cớ tu tiên để khỏi vào chầu vua, không nắm giữ bất cứ quyền hành nào, nhờ đó giữ trọn tánh mạng, trong khi các công thần khác lần lượt bị Lữ Hậu xúi xiểm Hán Cao Tổ giết chết. Hàn Tín cậy công, đòi Hán Cao Tổ phong làm Hàn Vương. Hán Cao Tổ ưng thuận, nhưng đã đem bụng ghét bỏ Hàn Tín. Về sau, với sự đốc xúi của Lữ Hậu, Hán Cao Tổ lập kế giả vờ ra chơi Vân Mộng (nơi Hàn Tín ở), tịch thâu ấn tín, giáng xuống làm Hoài Âm Hầu, cuối cùng kết tội giết chết. Do vậy, người ta thường dùng chữ Hoài Âm để nói về Hàn Tín. Văn Thành là biệt danh của Trương Lương.
Giáng là Châu Bột, theo Lưu Bang khởi nghĩa từ đất Bái, có nhiều công lao phá Sở, kiến lập nhà Hán. Về sau, ông được Hán Cao Tổ phong làm Giáng Hầu. Ông được phong làm Tể Tướng, tuy tánh tình thuần hậu, chất trực, nhưng kém tài quản lý, sợ địa vị cao sẽ chuốc họa, bèn lấy cớ bệnh tật để từ quan. Sau khi Trần Bình chết, ông lại được cử làm Tể Tướng, rồi bị bãi truất.
Khoái là Phàn Khoái, xuất thân làm nghề mổ lợn. Về sau, theo Lưu Bang khởi nghĩa, lập nhiều công to, xả thân hộ vệ Lưu Bang trong hội yến Hồng Môn. Khi Lưu Bang lập đàn bái tướng, Phàn Khoái tự đắc, tưởng Lưu Bang sẽ phong cho mình làm đại tướng. Nào ngờ, Lưu Bang tấn phong Hàn Tín. Phàn Khoái hổ thẹn, tức tối. Về sau, qua những cuộc chinh chiến, Phàn Khoái mới tâm phục tài dùng binh của Hàn Tín

Bành Củ ở Thai Châu, hiền lành, an tường, khiêm tốn, đã từng ở trọ với một người khác tại một khách điếm. Ông Bành về trước, kẻ ấy mất chiếc dù, cho rằng ông Bành cầm đi, đến nhà ông Bành giận dữ, mắng chửi. Kẻ đó thấy dáng vẻ ông Bành nhũn nhặn, bèn đòi đền tiền theo giá y phục. Ông Bành đúng theo số mà đền cho hắn bỏ đi. Hàng xóm có kẻ cậy mạnh, xâm chiếm đất của ông Bành, ông mặc kệ, chẳng hỏi tới. Về sau, gã hàng xóm gặp chuyện thưa kiện tại cửa quan. Ông Bành lại lo liệu châu đáo cho hắn thoát nạn. Những việc thiện khác rất nhiều. Do không có con, ông đến Tây Nhạc (Hoa Sơn) cầu con, mộng thấy thần bảo: “Do ngươi nhẫn nhục, nhân từ, nhu hòa, nỗ lực thực hiện các thiện sự, lời thỉnh cầu đã được chấp thuận”. Ông bèn sanh ra ba đứa con. Về sau, đất Thục (Tứ Xuyên) gặp cảnh biến loạn, mười phần chết hết chín, riêng cả nhà ông Bành vô sự!

Ông Hạ ở Giang Âm, đang đánh cờ vây với khách. Bỗng có kẻ chạy ùa tới, gào rít: “Chỉ thiếu nhà mày hai lạng tiền lời, vì sao mày hằng ngày sai người tới bức hiếp tao?” Ông chưa kịp đáp, kẻ đó đã chửi ầm ĩ, xô bàn, phá tan cuộc cờ. Ông cười đáp: “Ông muốn xóa nợ chứ gì?” Liền cất bút viết giấy miễn nợ. Người ấy vội vã cảm tạ, bỏ đi. Khách ca ngợi đức hạnh của ông. Ông đáp: “Nhẫn là cửa ngõ dẫn đến các điều tốt đẹp. Nói chung, đối với những chuyện ứng phó sự việc và con người trong cõi đời, đều có những chuyện ngang trái xảy đến với ta. Ví như đi trong rừng g*i góc, phải đi thong thả, chậm rãi mà thôi, những thứ g*i góc ấy cũng chẳng đáng để tức giận vậy. Lại như thuyền rỗng đụng phải ta, hoặc như viên ngói bị gió thổi văng trúng ta, nếu tấc lòng có thể chẳng bực tức, sẽ cởi gỡ nỗi oán. Huống chi người ấy dáng vẻ hung hăng, ăn nói thô lỗ, ắt có chỗ để trông cậy, sợ sẽ gây thành biến cố ngoài ý muốn. Vì thế, tôi khoan dung miễn nợ”. Đến tối, ông được báo là kẻ ấy đã chết trong nhà xí. Hỏi dò cặn kẽ nguồn cơn, bèn biết là kẻ ấy do nợ nần bức bách, không biết làm sao, bèn uống thuốc độc rồi tìm đến chỗ ông Hạ, tính lừa gạt tiền tài của ông. Do cảm tạ sự khoan dung miễn nợ của ông, cho nên hắn chẳng đành lòng lừa gạt, làm hại. Vì thế, vội về tìm phẩn thanh (nước phân lắng trong) để giải độc, nhưng độc tánh bộc phát, chẳng kịp giải độc. Ông bái tạ trời, mọi người đều kính phục. Nếu ông chẳng phải là thường ngày tiêu trừ giận tức, hàm dưỡng sâu xa, há đến lúc ấy sẽ có thể trấn định ư? Do vậy, nhẫn nhục là yếu quyết để tu thân; kế đó, yếu quyết để giàu có cũng là “phải học chấp nhận thua thiệt”.

Đời Minh, Trang Nghị Công Vương Hoằng, tên tự là Công Độ, lúc làm Khai Phủ tại Duy Dương có viên quan cấp dưới tên là Đơn X… hành vi thiếu kiềm chế, ông từng quở trách, ngăn chặn. Bỗng ông bị luận tội, [bị triều đình bãi chức, đuổi] về nhà, đi qua nhiệm sở của kẻ ấy. Họ Đơn chực sẵn đưa đón, tặng lương thực rất ân cần. Ông rất cảm tạ sự khoản đãi chân thành ấy, chọn nhận lấy mấy cái vò [đựng thức ăn], vì nghĩ là tương ủ. Mở ra, toàn là phân nhơ! Chẳng lâu sau, sự việc [gán tội ông Vương] được sáng tỏ, ông lại được làm quan. Họ Đơn bỏ trốn, sai người nhà giả vờ phát tang. Có kẻ cừu oán truy tìm tung tích hắn, bắt được hắn, thưa lên ông Vương. Ông chỉ ôn hòa xóa án, tha cho.

Nếu xét theo kinh Niết Bàn, xưa kia có một người, ca ngợi đức Phật là bậc có tướng đại phước đức. Có kẻ hỏi: “Dựa vào đâu để thấy?” Đáp: “Tuổi tác và chí hướng đều đang độ trẻ trung, mạnh mẽ, nhưng chẳng bộp chộp, chẳng nóng nảy, đánh chẳng giận, chửi cũng chẳng tức, chẳng phải là tướng đại phước đức ư?” Người hiện thời hễ gặp lúc ngang trái, chỉ nói: “Những chuyện ấy thành tựu tướng phước đức cho ta, vẻ vang chi hơn?” Bản thân ta có thể bị kẻ khác xâm phạm mà chẳng so đo, cũng sẽ có thể khuyến hóa khiến cho kẻ ấy giác ngộ vậy!
Trịnh Huyên nói: “Lặng, lặng, lặng! Vô hạn thần tiên từ nay đắc. Tha, tha, tha, ngàn tai muôn họa bỗng tiêu ma! Nhẫn, nhẫn, nhẫn, trái chủ oán gia từ rày ẩn! Thôi, thôi, thôi, công danh trùm đời chẳng tự do”

Trích từ sách Cảm Ứng Thiên Vựng Biên
Hoan nghênh chia sẻ
Nguyện Đem Công Đức Này,
Trang Nghiêm Phật Tịnh Độ
Trên Đền Bốn Ân Nặng,
Dưới Cứu Khổ Ba Đường
Nếu Có Ai Thấy Nghe,
Đều Phát Tâm Bồ Đề
Hết Một Báo Thân Này,
Đồng Sanh Nước Cực Lạc 🪷
🙏🪷A Di Đà Phật 🙇❤️
🙏🪷A Di Đà Phật 🙇❤️
🙏🪷A Di Đà Phật 🙇❤️

Address

Xã Tóc Tiên
Ba Ria
78100

Telephone

+84357226287

Website

https://www.facebook.com/share/1AnQws7RvS/

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Kinh Phật Media posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Business

Send a message to Kinh Phật Media:

Share