04/11/2025
MƯỜI ĐẠI NẠN TRONG CUỘC ĐỜI CỦA ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG HƯ VÂN
(Trích biên dịch theo Biên Niên Tự Thuật của Hòa Thượng Hư Vân)
▪︎ Nạn thứ nhất: Sanh làm khối thịt
Đời người không thể tránh khỏi bốn nỗi khổ: sanh, lão, bệnh, tử. Trong đó, “khổ sanh” là điều đầu tiên và thường ảnh hưởng sâu nặng nhất đến thân mẫu. Bởi thế, người học Phật chúng ta phải luôn ghi nhớ tinh thần: "Trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ ba đường."
Lão Hòa thượng được giáng sanh vào giờ Dần, ngày ba mươi tháng Bảy, năm Canh Tý, niên hiệu Đạo Quang thứ hai mươi (năm 1840), tại dinh quan phủ Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến, khi ấy phụ thân Ngài đang nhậm chức tại đó. Lúc mới sanh, thân thể Ngài như một khối thịt đỏ hỏn, không rõ hình dạng người. Mẹ Ngài kinh hoàng thảm thiết, tưởng rằng từ nay không còn hy vọng sinh được con trai, nên quá đau lòng mà uất khí phát tác, rồi qua đời ngay sau đó.
Cả nhà bàng hoàng, không ai biết xoay sở ra sao. Họ liền thỉnh hỏi nhiều bậc trưởng lão từng trải, nhưng ai nấy cũng đều không hiểu được nguyên do. Mọi người đều cho rằng đây là một quái thai, là điềm dữ. Tục ngữ có câu: "Một người có phước, cả nhà đều hưởng; một người vô phước, cả nhà chịu liên lụy." Do đó, họ quyết định ngày hôm sau sẽ đem khối thịt ấy bỏ đi.
Ngay lúc ấy, có một lão ông bán thuốc ghé qua. Thấy sự lạ, ông liền lấy dao rạch khối thịt ra, thì lạ thay, bên trong là một bé trai mập mạp, tướng mạo đoan chính. Mọi người vừa đau buồn vì mất mẹ, vừa bất ngờ mừng rỡ như được phước lớn. Đứa bé ấy được bà thứ mẫu họ Vương đem về nuôi dưỡng. Còn thân mẫu thì đã vĩnh viễn lìa xa, không thể quay về nữa.
Nếu năm xưa không có Bồ Tát hóa hiện làm ông lão bán thuốc kia, thì làm sao có được bậc cao tăng vĩ đại về sau, người đã xoay chuyển cơ đồ, tiếp nối đạo mạch đang suy vi? Đây chính là nạn đầu tiên trong cuộc đời đầy nghịch duyên mà cũng thấm đượm đại nguyện của Lão Hòa thượng.
▪︎ Nạn thứ hai: Đói rét giữa tuyết phủ
Vào năm Hàm Phong thứ tám đời Thanh (năm Mậu Ngọ), Lão Hòa thượng khi ấy mười chín tuổi, đã lìa nhà trốn đến chùa Vĩnh Tuyền trên núi Cổ Sơn, Phúc Châu, đảnh lễ Hòa thượng Thường Khai làm thầy thế độ. Năm sau, Ngài theo Hòa thượng Diệu Liên ở Cổ Sơn thọ giới Cụ túc. Từ khi đoạn tuyệt ái luyến, biệt ly song thân, thoắt cái đã hơn hai mươi năm. Tự xét đạo nghiệp chưa thành, lòng cảm thấy hổ thẹn, Ngài phát đại nguyện lễ lạy đến núi Ngũ Đài để đền đáp công ơn cha mẹ đã khó nhọc sinh thành dưỡng dục.
Vào ngày mồng một tháng Bảy năm Quang Tự thứ tám (năm Nhâm Ngọ, lúc đó Ngài bốn mươi ba tuổi), Ngài khởi hương tại Pháp Hoa am, núi Phổ Đà, tỉnh Chiết Giang, thực hành tam bộ nhất bái (ba bước một lạy). Khi ấy, có bốn vị Thiền giả đi theo phụ lễ là Biến Chân, Thu Ngưng, Sơn Hà, Giác Thừa. Sau khi vượt biển vào đất liền, mỗi ngày chỉ hành lễ được vài dặm. Trên đường từng dừng lại ở các nơi như Hồ Châu, Tô Châu, Thường Châu... nhưng giữa chừng bốn vị đồng hạnh đều lần lượt thoái lui, chỉ còn một mình Ngài tiếp tục lạy tiến về phía trước. Đến Nam Kinh, Ngài lễ tháp tổ Dung ở Ngưu Đầu Sơn, vượt Trường Giang, nghỉ lại qua năm mới tại chùa Đâu Suất ở Sư Tử Lĩnh, Phổ Khẩu.
Sang năm sau, Ngài tiếp tục khởi hương từ Sư Tử Lĩnh, đi từ miền bắc Giang Tô vào tỉnh Hà Nam, qua các nơi như Phụng Dương, Hạo Châu, Hạo Lăng, Tung Sơn, Thiếu Lâm tự, rồi đến Bạch Mã tự ở Lạc Dương. Mỗi ngày sáng đi tối nghỉ, bất kể gió mưa hay sáng tối, Ngài vẫn lễ vẫn hành, một lòng niệm thánh hiệu Bồ Tát, không màng khổ vui, đói no.
Đến tháng Chạp, Ngài vượt sông Hoàng Hà tại bến sắt Tháo Độ, đi qua Quang Vũ Lăng. Ngày mồng một trọ quán, mồng hai qua sông, đến khi lên bờ thì trời đã tối. Chung quanh không một bóng người, chỉ thấy một túp lều tranh nhỏ ven đường, không người trú ngụ. Ngài đành dừng chân nơi đó, ngồi kiết già mà niệm Phật. Đêm xuống tuyết rơi dày đặc, gió lạnh buốt xương. Sáng ra nhìn lại, cảnh vật đã biến thành thế giới pha lê trắng xóa. Tuyết dày cả thước, không thể tiến bước, đường đi mịt mù, không biết phương hướng.
Túp lều không vách che, Lão Hòa thượng lúc đầu vẫn trụ tâm niệm Phật trong thế ngồi kiết già, nhưng rồi vì rét buốt và đói lả, thân thể co quắp nằm gọn một góc. Tuyết mỗi lúc một dày, rét mỗi lúc một thấu, bụng càng lúc càng đói, hơi thở thoi thóp, nhưng chánh niệm vẫn chẳng lìa. Một ngày, hai ngày, ba ngày... cứ thế tuyết phủ, gió rét, thân xác héo mòn, dần rơi vào trạng thái hôn mê.
Đến chiều mồng sáu, tuyết ngừng rơi, mặt trời hé lộ, nhưng thân Ngài đã suy kiệt không thể đứng dậy. Sáng mồng bảy, có một người hành khất ghé qua, thấy Lão Hòa thượng nằm bất động giữa tuyết, miệng không thể nói, biết là bị giá lạnh làm tổn thương. Ông liền đào tuyết, gom cỏ tranh quanh đó nhóm lửa nấu cháo kê vàng, đút cho Ngài ăn. Nhờ hơi ấm mà khí lực dần hồi phục, nếu không thì đã chết cóng nơi tuyết phủ rồi.
Người hành khất ấy tự xưng họ Văn, tên Cát, đến từ Ngũ Đài Sơn. Ông khuyên Lão Hòa thượng rằng đường xá xa xôi, thời tiết khắc nghiệt, không cần thiết phải tiếp tục hành lễ. Nhưng Ngài cương quyết đáp:
"Nguyện lực đã lập, chẳng kể năm tháng xa gần, nhất định phải lễ đến cùng."
Sau này đến được Ngũ Đài Sơn, mới biết người hành khất hôm đó chính là Văn Thù Bồ Tát hóa thân, vừa đến để cứu nguy, vừa để khảo nghiệm tâm nguyện của Ngài.
Đây là nạn thứ hai trong cuộc đời cảm ứng kỳ diệu của Lão Hòa thượng.
▪︎ Nạn thứ ba: Kiết lỵ chờ chết
Vào ngày mồng Hai tháng Giêng năm Quang Tự thứ mười (năm Giáp Thân, khi ấy Lão Hòa thượng bốn mươi lăm tuổi), Ngài khởi hương lễ bái từ chùa Hồng Phúc. Khi đến phủ Hoài Khánh, chùa Tiểu Nam Hải trong thành không cho lưu trú, Ngài đành phải ra ngoài thành nghỉ tạm ven đường. Đêm ấy, bụng đau dữ dội như xoắn thắt. Mồng Bốn vẫn cố gắng tiếp tục lễ hành, nhưng đến tối thì phát bệnh lạnh. Mồng Năm khởi chứng kiết lỵ, mỗi ngày vẫn cố gắng tiếp tục tam bộ nhất bái, thân thể đã rất suy kiệt.
Đến ngày mồng Mười Ba, Ngài đến được Hoàng Sa Lĩnh, trên đỉnh núi chỉ có một ngôi miếu đổ nát, không chỗ che mưa gió. Lúc này, Ngài đã không thể tiếp tục bước đi, phải nằm nghỉ lại, không ăn uống được gì, ngày đêm tiêu chảy hàng chục lần, toàn thân suy nhược, không thể nhúc nhích. Đường hoang vắng, không một bóng người qua lại, trong lòng Ngài chỉ còn chờ chết.
Đêm mồng Mười Lăm, vào lúc khuya, chợt thấy phía chân tường bên Tây có ánh lửa bập bùng, thoạt đầu tưởng là đạo tặc, nhưng nhìn kỹ lại thì ra là ông Văn Cát, trong lòng vô cùng mừng rỡ, liền gọi to: “Văn tiên sinh!” Văn Cát cầm đuốc bước đến, soi đèn rồi hỏi:
— "Đại sư phụ sao còn ở chốn này?"
Lão Hòa thượng đem hết tình trạng từ mấy ngày qua kể lại. Đêm ấy, Văn Cát ngồi bên cạnh Ngài, rồi đưa một chén nước cho uống. Qua ngày hôm sau, mồng Mười Sáu, ông Văn giúp Ngài giặt giũ quần áo dơ bẩn, lại đưa thêm một chén thuốc. Ngày mồng Mười Bảy, bệnh tình giảm nhẹ, có thể ăn được hai bát cháo kê vàng, toàn thân toát mồ hôi, trong ngoài nhẹ nhõm. Đến mồng Mười Tám, bệnh đã lui đáng kể.
Lão Hòa thượng cảm tạ nói:
— "Hai lần nguy kịch, đều nhờ tiên sinh cứu giúp, ân đức ấy thật khó đền đáp."
Văn Cát cười mà rằng:
— "Chuyện nhỏ, không đáng nhắc! Tôi thấy từ cuối năm ngoái đến giờ, ngài lễ bái chẳng được bao xa, không biết đến bao giờ mới đến nơi; lại thêm thân thể yếu kém, thật khó lòng tiếp tục. Không nhất thiết phải lễ bái từng bước, chỉ cần tâm thành lễ Phật cũng được."
Lão Hòa thượng đáp:
— "Lòng tốt của tiên sinh tôi xin ghi nhận. Nhưng tôi từ lúc mới chào đời chưa từng thấy mặt mẹ, mẹ vì sanh tôi mà thác, cha chỉ có mình tôi là con, vậy mà tôi lại bỏ cha trốn đi xuất gia. Vì tôi mà cha phải từ quan, rồi sớm qua đời. Ân nghĩa trời cao chưa báo đáp, lòng tôi ray rứt khôn nguôi. Do đó phát nguyện lễ bái chí thành cầu Bồ Tát gia bị, nguyện cho cha mẹ lìa khổ, vãng sanh Tịnh độ. Dù trăm ngàn khổ nạn, không đến Thánh cảnh, thề chẳng thối nguyện."
Văn Cát cảm động nói:
— "Ngài chí thành hiếu hạnh, thật khó có. Tôi cũng đang trở về Ngũ Đài Sơn, chẳng có việc chi gấp, nguyện sẽ gánh hành lý cho ngài, hộ tống đường xa. Ngài chỉ cần chuyên tâm lễ bái, như vậy sẽ nhẹ nhàng hơn nhiều, tâm cũng an tĩnh, không còn phân vân do dự."
Lão Hòa thượng xúc động nói:
— "Nếu được như vậy, thì công đức vô lượng. Đợi khi tôi lễ bái đến Ngũ Đài, nguyện đem công đức này: một nửa hồi hướng cho cha mẹ sớm chứng Bồ Đề, một nửa xin hiến tặng cho tiên sinh để đền đáp ân cứu độ, được chăng?"
Văn Cát đáp:
— "Không dám nhận! Ngài là người chí hiếu, tôi chỉ thuận tiện giúp đỡ, chẳng đáng báo đáp gì."
Văn Cát ở lại chăm sóc thêm bốn ngày, bệnh tình Lão Hòa thượng gần như đã hồi phục hẳn.
Đây chính là lần thứ hai Văn Thù Bồ Tát thị hiện, vừa đến cứu độ, vừa khảo nghiệm chí nguyện kiên cố của Lão Hòa thượng.
▪︎ Nạn thứ tư: Miệng chảy máu tươi
Vào ngày 19 tháng Giêng năm Quang Tự thứ mười, Lão Hòa thượng tuy thân còn mang bệnh, vẫn khởi hương lễ bái từ ngôi miếu đổ nát trên đỉnh Hoàng Sa Lĩnh. Suốt đoạn đường, hành lý và việc nấu ăn đều do Văn Cát đảm đương. Lão Hòa thượng vì được hộ trì nên vọng tưởng dừng dứt, ngoài không vướng bận, trong không tạp niệm. Bệnh ngày một thuyên giảm, thân thể ngày một khang kiện. Từ sáng đến chiều có thể lễ hành được hơn 45 dặm, mà không hề cảm thấy khổ nhọc.
Đến cuối tháng Ba, Ngài đến chùa Ly Tướng tại huyện Thái Cốc, vào chào vị tri khách. Không ngờ vị tri khách nhìn thấy Văn Cát liền nghiêm giọng hỏi:
— “Vị này là ai của thầy?”
Lão Hòa thượng thành thật trả lời. Tri khách liền nạt nộ:
— “Ra đi hành cước mà chẳng biết thời thế! Mấy năm nay đất Bắc mất mùa, thầy còn muốn lễ bái núi nào? Có quan lớn nào cần kẻ hầu hạ chăng? Muốn hưởng phước thì ở nhà, cần gì phải đi? Thử hỏi có ngôi chùa nào lại lưu trú người thế tục?”
Lão Hòa thượng nghe những lời quở trách, chỉ biết cúi đầu nhận lỗi, không dám đáp lời, rồi xin phép cáo từ. Tri khách lại gắt:
— “Thật vô lý! Tùy thầy vậy, ai bảo thầy đến đây?”
Thấy lời lẽ không ổn, Lão Hòa thượng liền nói dịu:
— “Văn tiên sinh xin đến quán trọ nghỉ, còn tôi chỉ xin trú tại đây một đêm, có được chăng?”
Tri khách nghe vậy liền nói:
— “Vậy thì được.”
Văn Cát lúc này nói:
— “Chỗ này cách Ngũ Đài Sơn không xa, tôi xin quay về trước. Thầy cứ thong thả hành lễ, hành lý chẳng bao lâu sẽ có người đưa lên núi giúp.”
Lão Hòa thượng cố nài ở lại nhưng không được. Sau khi Văn Cát đi, tri khách đổi nét mặt vui vẻ, thân thiện tiếp đãi, mời vào phòng bếp, pha trà tại bếp lửa, đích thân làm mì mời ăn.
Lão Hòa thượng thấy cảnh trước lạnh nhạt, sau ân cần như vậy, trong lòng vừa ngỡ ngàng vừa khó hiểu. Nhân lúc không có ai bên cạnh, mới hỏi:
— “Thường trú ở đây có bao nhiêu vị?”
Tri khách đáp:
— “Tôi trước kia ở ngoại giang, nay về đây trụ trì, nhưng mấy năm nay đói kém, chỉ còn mình tôi ở lại. Lương thực cũng đã cạn, khi nãy chỉ đùa thôi, mong thầy chớ trách.”
Nghe vậy, Lão Hòa thượng cảm thấy dở khóc dở cười, miễn cưỡng ăn được nửa bát mì rồi cáo từ, đi ra phố tìm Văn Cát nhưng tìm khắp nơi vẫn không gặp.
Lúc ấy là ngày 18 tháng Tư, trăng sáng như ban ngày. Nghĩ đến Văn Cát, trong lòng nóng ruột, nên Ngài lập tức lễ bái hướng về phủ Thái Nguyên, suốt đêm không nghỉ. Ngày hôm sau thì phát sốt nặng, hai bên mũi chảy máu không ngừng.
Ngày 20, Ngài đến chùa Bạch Vân ở Hoàng Thổ Câu. Vị tri khách thấy Ngài miệng chảy máu liền không cho lưu trú, Ngài đành qua đêm ngoài chùa trong cảnh khốn khổ. Sáng 21, Ngài vào thành Thái Nguyên, đến chùa Cực Lạc, nhưng lại bị mắng nhiếc, không cho trọ.
Ngày 22, sáng sớm xuất thành tiếp tục lễ bái, ở ngoài Bắc môn gặp một vị sa di trẻ tuổi tên là Văn Hiền, đến gần đón chào, chủ động nhận lấy bồ đoàn và hành lý. Ngài nghỉ lại đó mười ngày, bệnh dần khỏi hẳn, thân thể khôi phục, tiếp tục lên đường lễ bái.
Đây là lần nạn thứ tư mà Lão Hòa thượng trải qua, do thân tâm mệt mỏi, khí huyết trào dâng, lại thêm lòng lo lắng cho Văn Cát, nên phát chứng nhiệt, xuất huyết. Song nhờ gặp người trợ duyên đúng lúc, tai nạn lại được tiêu trừ, tiếp tục hành trình báo ân và cầu đạo.
▪︎ Nạn thứ năm: Trượt chân rơi xuống nước
Từ năm Quang Tự thứ mười tám đến hai mươi, Lão Hòa thượng cư trú nơi am tranh ở đỉnh Thúy Phong, núi Cửu Hoa, chuyên tâm nghiên cứu kinh điển giáo pháp. Đến năm Quang Tự thứ hai mươi mốt (năm Ất Mùi, Ngài 56 tuổi), trụ trì chùa Cao Mân tại Dương Châu là Pháp sư Nguyệt Lãng đến Cửu Hoa, thỉnh mời Ngài về chùa Cao Mân để tham gia pháp hội do thí chủ họ Chu phát tâm cúng dường, tổng cộng là mười hai kỳ "thất nhật thiền", gồm cả bốn kỳ thất cũ.
Lão Hòa thượng hoan hỷ đáp ứng lời mời. Sau khi xuống núi, đến địa phận Địch Cảng, Đại Thông, dọc theo bờ sông mà đi, gặp lúc nước sông dâng cao phải qua đò. Người chèo đò đòi sáu đồng tiền, nhưng Lão Hòa thượng trên thân không có đến nửa xu, nên bị người lái đò gác mái chèo mà bỏ đi.
Không còn cách nào khác, Ngài đành tiếp tục lần bước dọc bờ nước, đi mãi, đi mãi… chẳng ngờ trượt chân rơi xuống sông, thân chìm nổi theo dòng, trôi dạt suốt một ngày một đêm, đến gần vùng Thái Thạch Kê thì bị một ngư phủ đánh cá thả lưới vớt lên được.
Thấy Ngài là tăng nhân, người đánh cá liền gọi các tăng sĩ chùa Bảo Tích đến nhận người. May thay, trong đó có một vị tăng sĩ từng sống cùng Lão Hòa thượng ở Xích Sơn, vừa thấy mặt thì kinh ngạc vô cùng, vội vàng đưa vào chùa, chăm sóc cứu tỉnh.
Lúc ấy là ngày 28 tháng 6 âm lịch.
Đây là nạn thứ năm mà Lão Hòa thượng trải qua: nếu chẳng nhờ có thiện duyên và lòng chí thành cảm ứng, thì đã trôi thân mất mạng nơi dòng nước rồi.
▪︎ Nạn thứ sáu: Đại bệnh đột phát
Vào khoảng tháng 11, năm Quang Tự thứ hai mươi ba (năm Đinh Dậu, Hòa thượng 58 tuổi), Lão Hòa thượng đột nhiên phát cơn đại bệnh, không thể lễ Phật, bệnh tình mỗi ngày một trầm trọng, chỉ có thể nằm mà không thể ngồi dậy, uống thuốc cũng không có hiệu nghiệm.
Lúc ấy, đại chúng đều cho rằng Ngài khó lòng qua khỏi, nên dời Ngài vào tịnh thất Như Ý để tiện chăm sóc. Các vị như Thủ tọa Hiển Thân, Giám viện Tông Lượng của chùa A Dục Vương cùng cô Lư và nhiều người khác đã hết lòng cứu chữa, tiêu phí rất nhiều tài lực và tâm lực, nhưng bệnh vẫn không thuyên giảm.
Lão Hòa thượng lúc đó tự nghĩ duyên đời sắp hết, tùy duyên buông xả. Tuy nhiên, việc phát nguyện thiêu một ngón tay để báo ân mẫu thân thì không thể hoàn thành, khiến tâm Ngài sinh ra khẩn thiết, lo lắng không nguôi.
Vài ngày sau, có tám người vào tịnh thất thông báo rằng ngày 17 là ngày ấn định để thiêu ngón tay, Lão Hòa thượng nhất tâm xin được tham gia. Nhưng các vị Thủ tọa đều không tán thành, e rằng Ngài đang bệnh nặng, nếu thiêu chỉ e nguy đến tính mạng.
Lão Hòa thượng nghe vậy, lệ tuôn như suối, nói rằng:
“Sanh tử ai tránh khỏi? Nay tôi vì báo ơn mẹ mà phát nguyện thiêu ngón tay. Nếu vì bệnh mà phải dừng lại, thì sống còn có ích gì nữa?”
Giám viện Tông Lượng khi ấy mới hai mươi mốt tuổi, nghe được lời bi ai từ đáy lòng của Lão Hòa thượng, cảm được tấm lòng chí hiếu, không cầm được nước mắt, thưa rằng:
“Hòa thượng đừng lo! Con nguyện trợ duyên cho Ngài viên thành đại nguyện. Ngày mai trai lễ để con cúng dường, con xin sắp xếp trước, có được chăng?”
Lão Hòa thượng cảm kích vô hạn, chắp tay cảm tạ.
Sáng ngày 17, Tông Lượng cho mời sư đệ là Tông Tín phụ giúp Hòa thượng thiêu ngón tay. Có nhiều người cùng nhau đỡ Ngài lên Đại Hùng Bảo Điện, hành lễ Tam Bảo. Trải qua đầy đủ các nghi lễ tụng niệm và đại chúng cùng chí tâm sám hối.
Lão Hòa thượng nhất tâm niệm Phật, cầu siêu độ cho thánh mẫu. Ban đầu, cảm giác rất đau đớn, nhưng dần dần tâm trí an định, cuối cùng đạt đến minh tịnh sáng suốt, tâm thần rỗng lặng.
Khi niệm đến danh hiệu:
“Pháp giới tạng thân A Di Đà Phật”,
thì toàn thân tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông đều dựng ngược, phát khởi năng lượng cảm ứng vi diệu. Lúc ấy, ngón tay đã thiêu xong, Lão Hòa thượng tự mình đứng dậy lễ Phật, không cần người đỡ, cũng hoàn toàn không nhớ mình đang mang bệnh.
Sau đó, Ngài còn tự đi bộ cảm tạ đại chúng, trở về tịnh thất. Ai nấy đều kinh ngạc, tán thán là việc hi hữu chưa từng có.
Đây là nạn thứ sáu mà Lão Hòa thượng trải qua, tuy mang trọng bệnh, nhưng nhờ lòng hiếu chí thành và nguyện lực sâu dày, được cảm ứng đạo giao, thân tâm chuyển hóa, bệnh lui một cách không thể nghĩ bàn.
▪︎ Nạn thứ bảy: Đứt dây, chìm nước
Vào năm Quang Tự hai mươi tám (năm Nhâm Dần, Lão Hòa thượng 63 tuổi), Ngài đến núi Nga Mi, leo lên Kim Đỉnh, chiêm ngưỡng ánh Phật quang, cảm thấy giống hệt như ánh Phật quang đã thấy tại núi Kê Túc. Ban đêm, Ngài lại thấy vạn ngọn đèn sáng, chẳng khác nào lúc lễ trí tuệ đăng tại núi Ngũ Đài.
Khi đến điện Tích Oa, Ngài đảnh lễ Chân Ứng lão Hòa thượng, bậc tôn túc đứng đầu toàn núi, một đại tông sư trong Thiền môn, lúc ấy đã hơn bảy mươi tuổi. Hai vị gặp nhau vài ngày, đàm đạo tâm pháp, tương kiến rất mực hoan hỷ.
Sau khi xuống núi, Lão Hòa thượng theo đường qua các nơi: Trì Tượng Trì, Đại Nga Tự, Trưởng Lão Bình, Tỳ Lô Điện, huyện Nga Mi, huyện Hiệp Giang, rồi đến thôn Ngân, qua sông Lưu Sa.
Đúng lúc ấy, nước sông dâng cao, từ sáng đến trưa mới đợi được thuyền đến. Lão Hòa thượng nhường cho Pháp sư Giới Trần lên trước, lại chuyển hành lý lên thuyền. Khi Ngài chuẩn bị bước lên, bất ngờ dây thừng bị đứt, mà nước lại chảy xiết.
Lão Hòa thượng dùng tay phải bám vào mạn thuyền, nhưng vì thuyền nhỏ mà người lại đông, chỉ cần nghiêng nhẹ là sẽ lật, nên Ngài không dám động đậy, cứ thế bị dòng nước cuốn trôi, thân ngâm chìm trong nước.
Mãi đến chiều tối, thuyền mới ghé vào bờ, mọi người mới kéo được Lão Hòa thượng lên, lúc ấy áo quần ướt đẫm, hai bàn chân đều bị đá nhọn dưới sông cứa rách.
Đây là nạn thứ bảy trong đời Lão Hòa thượng, một phen nguy nan suýt mất mạng nơi dòng nước, chỉ nhờ tâm chí thành và lòng nhẫn nhục mà cảm ứng vượt thoát hiểm nạn.
▪︎ Nạn thứ tám: Suýt bị mổ bụng
Vào năm Quang Tự ba mươi mốt (năm Ất Tỵ, Lão Hòa thượng 66 tuổi), Ngài đến Ngưỡng Quang (Yangon, Miến Điện), viếng chùa Đại Kim Tháp, tham bái các thánh tích. Sau đó, Ngài theo đường từ Penang (Mã Lai) trở về nước.
Khi thuyền cập bến, do trên thuyền có hành khách chết vì dịch bệnh, nên lập tức treo cờ “đả hạn”, nghĩa là toàn bộ người trên thuyền phải lên núi, cách ly kiểm dịch, đợi khám xét mới được nhập cảnh.
Toàn thuyền hơn một ngàn người, sau khi lên núi thì bị nắng thiêu ban ngày, mưa dầm ban đêm, không có lấy một mái che, mỗi ngày chỉ phát một bát cơm nhỏ, hai củ cải, phải tự mình nhóm lửa nấu ăn. Bác sĩ mỗi ngày đến khám hai lần. Qua một tuần, một nửa số người đã chết, mười ngày sau thì mọi người chết sạch, chỉ còn lại một mình Lão Hòa thượng.
Lúc ấy, thân thể Ngài đã suy kiệt tột độ, không thể ăn uống, tâm sinh lo lắng vô cùng, bệnh lại trầm trọng thêm, dáng vẻ tiều tụy, thống khổ không tả.
Đến ngày thứ mười tám, bác sĩ đến, chuyển Ngài vào một phòng riêng, vốn không có ai ở. Lão Hòa thượng nghe vậy thì trong tâm khởi niềm hoan hỷ.
Chốc lát, có một lão ông đến tuần tra, Ngài hỏi thăm quê quán, biết ông là người Tuyền Châu. Lão ông thở dài nói:
“Căn phòng này vốn dành cho người chuẩn bị chết, nơi đây là để chuẩn bị mổ bụng kiểm tra xác.”
Ngài liền bạch rõ nguyện vọng rằng mình là người đi lễ Phật, muốn đến chùa Cực Lạc. Lão ông động lòng, nói:
“Ta sẽ cho ông thuốc uống.”
Lát sau, ông đem đến một chén “thần trà”, Ngài uống hai ngày thì thân thể chuyển nhẹ. Lão ông lại dặn:
“Khi bác sĩ đến, nghe ta ho, ông phải gắng ngồi dậy, biểu lộ tinh thần, bác sĩ có đưa thuốc thì chớ uống.”
Quả nhiên, hôm sau bác sĩ đến, cưỡng ép uống thuốc, nếu không uống thì không được. Bác sĩ đi rồi, lão ông đến hỏi, Ngài thành thật thưa rằng đã uống. Lão ông giật mình nói:
“Vậy là khó sống rồi! Mai họ sẽ đến mổ bụng ông. Ta sẽ cho ông thêm thuốc, chỉ mong chư Phật gia hộ.”
Sáng hôm sau, lão ông trở lại, thấy Ngài ngồi xếp bằng dưới đất, mắt mở nhưng không còn thấy gì, lão vội bế lên thì thấy máu ra loang khắp nền, liền cho uống thuốc, thay y phục, lau sạch sàn, rồi than:
“Hôm qua, người khác uống thuốc ấy, chưa kịp tắt thở đã bị mổ bụng. Ông không nên chết, vì có Phật gia hộ! Chín giờ bác sĩ đến, nghe ta ho thì ông phải tỏ ra còn thần khí.”
Quả nhiên, đúng chín giờ, bác sĩ đến, nhìn thấy Ngài, chỉ chỉ tay rồi mỉm cười bỏ đi. Lão ông nói:
“Ông ta cười, vì thấy ông không nên chết!”
Ngài liền cầu xin lão ông giúp đem ít tiền biếu bác sĩ, xin được tha. Ngài lấy ra 40 đồng, là tiền cúng dường của cư sĩ Cao ở Ngưỡng Quang, đưa 20 đồng cho bác sĩ, 20 đồng tạ ơn lão ông. Lão ông từ chối, nói:
“Tôi không cần tiền của ông. Ngày mai, bác sĩ người Quảng Đông đến, có thể thương lượng được.”
Tối hôm ấy, ông trở lại, báo rằng đã thương lượng xong, ngày mai có thể được cho xuất viện.
Sáng hôm sau, bác sĩ đến khám, rồi gọi thuyền đưa qua biển, lão ông dìu Lão Hòa thượng lên thuyền, thuê xe nhỏ chở đến Quảng Phúc Cung.
Một trận hiểm nạn thập tử nhất sinh, nhờ Phật lực gia trì, nguyện lực chân thành mà thoát nạn trong đường tơ kẽ tóc.
▪︎ Nạn thứ chín: Toàn thân khô cứng như gỗ
Vào năm Quang Tự ba mươi ba (năm Đinh Mùi, Lão Hòa thượng 68 tuổi), khi đến Bangkok (Mãn Cốc, Thái Lan), Ngài nhập định suốt chín ngày. Sau khi xuất định, hai chân tê bại, ban đầu chỉ giao động khó khăn, nhưng chẳng bao lâu, toàn thân cứng đơ như khúc gỗ, không thể cầm đũa, phải nhờ người đút ăn.
Hộ pháp tại bản xứ thỉnh cả đông y lẫn tây y đến chữa trị, châm cứu, uống thuốc đều vô hiệu. Miệng không thể nói, mắt không thể thấy, chư y đều bó tay.
Tuy vậy, thân tâm Ngài vẫn thanh tịnh, không thấy khổ đau, mọi sự thế gian đều đã buông bỏ sạch, chỉ duy nhất một việc khiến Ngài chưa thể an tâm. Việc gì vậy?
Chính là: Ngài đang giữ các tờ ngân phiếu dùng để thỉnh mua Đại Tạng Kinh và tu sửa điện các chùa trên núi Kê Túc (Gijushan), đã may kín vào trong cổ áo, chưa ai biết đến.
Nay miệng chẳng nói được, tay chẳng viết được, lỡ như hóa thân, thân xác bị thiêu, số tiền ấy tiêu tan, thì nhân quả phải gánh vác thế nào đây? Nghĩ tới đó, nước mắt rơi như mưa, trong lòng lặng lẽ khẩn cầu Tôn giả Ca Diếp gia bị.
Khi ấy, có thầy Diệu Viên, vốn là bạn đồng tu thuở xưa ở núi Chung Nam, thấy Ngài rơi lệ, môi khẽ động, liền tới gần lắng nghe bên tai.
Ngài thầm bảo thầy Diệu Viên:
“Xin pha trà, lễ cầu Tôn giả Ca Diếp.”
Sau khi uống trà xong, tâm liền mát mẻ, liền nhập mộng. Thấy một vị lão tăng tướng mạo giống Tôn giả Ca Diếp, ngồi bên cạnh, lấy tay xoa đầu, rồi bảo rằng:
“Tỳ-kheo! Y bát và giới pháp không rời thân, ông không cần lo. Chỉ cần lấy y bát làm gối mà ngủ, là được.”
Ngài nghe xong, liền gối đầu lên y bát, ngoảnh lại thì Tôn giả đã biến mất. Khắp mình toát mồ hôi đầm đìa, trong tâm hoan hỷ khôn tả.
Không lâu sau, lưỡi có thể động đậy trở lại, Ngài bèn nhờ thầy Diệu Viên đến cầu thuốc trước tượng Hoa Đà. Đơn thuốc chỉ có hai vị: lược mộc và dạ minh sa. Sau khi dùng, mắt có thể thấy, miệng có thể nói.
Ngài lại xin thêm toa khác, chỉ có xích tiểu đậu (đậu đỏ nhỏ). Dùng đậu nấu cháo ăn, không được dùng tạp vật. Ăn hai ngày, đầu có thể cử động nhẹ. Xin thêm lần nữa, vẫn là xích tiểu đậu.
Từ đó, lấy đậu làm lương thực, đại tiểu tiện thông suốt, chất thải đen như sơn mài, rồi dần dần có thể cảm nhận đau ngứa, ngồi dậy đi lại.
Trải qua hơn hai mươi ngày, cơn đại nạn ấy mới được vượt qua.
▪︎ Nạn thứ mười: Bị giặc đánh đập tàn nhẫn
Từ sau cơn đại nạn lúc 68 tuổi, Lão Hòa thượng bình an hoằng pháp, lợi sinh, kiến lập đạo tràng, trải suốt hơn bốn mươi năm. Mãi đến năm 1951 (năm Canh Dần), Ngài đã 111 tuổi, mới gặp phải cơn nạn lớn nhất trong đời.
Vào mùa xuân năm ấy, tại chùa Vân Môn, khi đang tổ chức khai giới, bỗng có hơn trăm người kéo đến, lục soát toàn tự viện. Sau đó, họ giam Lão Hòa thượng vào một phòng kín, không cho ăn uống, cấm tiểu tiện, ngày đêm chỉ một ngọn đèn leo lét, cảnh tượng không khác địa ngục trần gian.
Ba ngày sau, có mười tên đại hán xông vào, ép Ngài giao nộp vàng bạc, súng ống. Ngài bình thản trả lời không có, liền bị đánh đập dữ dội – lúc đầu dùng gậy gỗ, sau chuyển sang gậy sắt, đánh đến đầu mặt đầm đìa máu, xương sườn gãy nát, vừa đánh vừa tra hỏi.
Ngài ngồi kiết già nhập định, thân thể như vàng đá, gậy đập vào vang tiếng “bụp bụp” như gõ vào kim khí. Ngày ấy, chúng đánh bốn lần, quật ngã Ngài xuống đất, tưởng là đã đánh chết, la hét rồi bỏ đi.
Giữa khuya, thị giả lại bế Ngài ngồi lên giường.
Hôm sau, nghe nói Lão Hòa thượng chưa chết, bọn chúng lại kéo vào, thấy Ngài vẫn an nhiên nhập định, lại càng nổi giận, lôi xuống đất dùng gậy lớn đánh tiếp, hơn mười tên dùng giày da đạp lên toàn thân, năm khiếu chảy máu, gục ngã dưới đất.
Lại tưởng Ngài chết rồi, hò hét bỏ đi. Thị giả lại ôm Ngài an trí lên giường.
Năm ngày sau, Lão Hòa thượng chuyển mình nằm nghiêng, giống như tướng nhập Niết-bàn của Đức Phật, tròn một ngày một đêm hoàn toàn bất động, thị giả dùng cọng cỏ thử nơi mũi, vẫn không lay động, nhưng thân thể còn ấm, dung nhan như sống.
Sau hai mươi bốn tiếng, Ngài khẽ rên lên, được nâng ngồi dậy. Thị giả thưa:
“Bạch Hòa thượng, mấy ngày qua Ngài nhập định và nằm nghỉ lâu như vậy.”
Ngài nói:
“Lúc ấy thần thức ta du hành lên cung trời Đâu-suất, nghe pháp sự.”
Qua mấy ngày đó, mọi người chứng kiến thần thái kỳ diệu của Ngài, sinh lòng nghi ngờ và kính sợ. Một kẻ giống như đầu lĩnh hỏi các vị tăng:
“Lão già đó sao đánh mãi mà không chết?”
Một vị tăng đáp:
“Lão Hòa thượng vì chúng sanh mà chịu khổ, vì các ông mà tiêu tai, nên không thể đánh chết được. Về sau, các ông sẽ tự biết rõ.”
Tên đầu lĩnh nghe xong, sợ hãi vô cùng, từ đó không dám bức hại Ngài thêm.
Đây là trận nạn lớn nhất mà Lão Hòa thượng trải qua trong hành trình độ sinh khổ hạnh của mình.