Biển chiều Ha Long

Biển chiều Ha Long Thông tin nhanh chóng, kịp thời và chính xác

26/12/2024

Tin tưởng vào chủ trương tinh gọn tổ chức bộ máy của Đảng, nhà nước ta là cách hiệu quả nhất để đấu tranh, phản bác với những luận điệu, xuyên tạc chống phá của các thế lực thù địch!

Từ Đại hội VI của Đảng ta đến nay, Đảng ta luôn duy trì chủ trương và quan điểm chỉ đạo xuyên suốt là đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đảng ta xem đây là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, là cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, cần thống nhất rất cao về nhận thức và hành động trong toàn hệ thống chính trị. Hiện nay, Đảng và Nhà nước đang triển khai đồng bộ, mạnh mẽ, đạt nhiều kết quả tích cực với quan điểm “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Tổng Bí thư Tô Lâm và của Bộ Chính trị đã tạo thống nhất trong nhận thức và hành động, nhận được sự đồng tình ủng hộ cao của cả hệ thống thống chính trị và toàn xã hội nhằm đạt được mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giảm chi phí nuôi bộ máy, dành nguồn lực cho phát triển đất nước, phục vụ nhân dân.

Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đã lợi dụng tình hình để xuyên tạc, phủ nhận chủ trương cũng như kết quả của công cuộc cải cách này. Chúng tạo ra những chiêu trò “bẻ lái”, xuyên tạc, tung tin bịa đặt, thổi phồng khuyết điểm hòng đánh tráo mục tiêu, gây hoang mang dư luận. Chúng bịa đặt rằng, việc tinh giản biên chế ở Việt Nam “chỉ là hình thức, mị dân”. Về bản chất không thay đổi mà chỉ chuyển người từ chỗ này sang chỗ khác, chỉ gây tốn kém, phức tạp, không đem lại hiệu quả thực tế như mong muốn. Chúng bịa đặt rằng, việc sáp nhập các đơn vị, hợp nhất bộ máy chỉ nhằm mục đích chia ghế và “chạy chọt”, gây tốn kém ngân sách. Thậm chí, các thế lực thù địch xuyên tạc tinh giản biên chế là “đấu đá quyền lực, phe nhóm”, nhằm cắt giảm quyền lực của người này để tăng quyền lực cho người kia, là cách để “hạ bệ” hoặc “gia cố” quyền lực. Từ đó, nguỵ biện rằng, Việt Nam không có tinh giản biên chế, không có tinh gọn bộ máy mà đây chỉ là “miếng bánh phân chia quyền lực”, chuyện của “các phe phái”... thanh chừng lẫn nhau. Hay mới đây như Tổ chức phản động Việt Tân đưa ra luận điệu xuyên tạc, cố tình bóp méo sự thật bằng sự nghi vấn, hoài nghi gây nhiễu thông tin, “tung hoả mù” gây hoang mang dư luận....

Dẫu biết rằng, thực hiện tinh gọn bộ máy trong giai đoạn hiện nay còn có nhiều tồn tại, hạn chế và khó khăn. Song, để giảm thiểu tình trạng lãng phí, việc tinh giản bộ máy đã và đang là một trong những giải pháp quan trọng, giúp tiết kiệm ngân sách và tái phân bổ các nguồn lực cho các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội.

Ngoài ra, việc tinh giản bộ máy còn là một yếu tố then chốt trong việc nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật và cải thiện công tác quản lý nhà nước. Một bộ máy hành chính tinh gọn và chuyên nghiệp sẽ giúp các cơ quan chức năng phối hợp chặt chẽ hơn trong công tác phòng, chống tham nhũng, xử lý các vi phạm pháp luật, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân và doanh nghiệp. Cũng nhờ vào sự cải cách này, quy trình cung cấp dịch vụ công đã được đơn giản hóa, rút ngắn thời gian chờ đợi, giúp người dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các dịch vụ của Nhà nước.

Rõ ràng, việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức, bộ máy thể hiện quyết tâm chính trị rất cao của Đảng, Nhà nước ta, với mục đích rõ ràng, hoàn toàn không có chuyện “làm cho có”, “chỉ là hình thức”, “tranh giành quyền lực” hay “đấu đá nội bộ” như các thế lực thù địch xuyên tạc, rêu rao. Mà ở đó chúng ta có thể thấy được rằng rằng, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị là việc làm không hề dễ dàng, không đơn giản, không phải làm một sớm, một chiều, làm một lần là xong vì liên quan nhiều vấn đề nhạy cảm, phức tạp. Mục đích, nội dung, ý nghĩa, tính khoa học và tính khả thi của “cuộc cách mạng” tinh gọn bộ máy được các cơ quan có thẩm quyền nêu rõ, thể hiện tính minh bạch, dân chủ, đó là cơ sở để người dân tiếp nhận thông tin và củng cố niềm tin, phản bác các luận điệu xuyên tạc, chống phá của kẻ xấu. Do đó đòi hỏi sự chặt chẽ, khoa học, với quyết tâm chính trị cao, thống nhất trong nhận thức và hành động. Để cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị bảo đảm thắng lợi, đạt được các mục tiêu chiến lược, không chỉ đòi hỏi những nỗ lực phi thường, những cố gắng vượt bậc, không cho phép chúng ta chậm trễ, lơi lỏng, thiếu chính xác, thiếu đồng bộ, thiếu nhịp nhàng trên từng bước đi, mà còn đòi hỏi chính chúng ta phải tin tưởng tuyệt đối vào chủ trương đúng đắn của cuộc cách mạng này.

Trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới, việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đã trở thành một nhiệm vụ đặc biệt cấp bách, tạo ra sự chủ động, sáng tạo, đột phá nhằm đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn, đồng thời nâng cao năng lực quản lý và điều hành quốc gia, giảm mạnh chi phí ngân sách nuôi bộ máy, dành nguồn lực cho đầu tư phát triển và đi lên, xứng đáng với các cường quốc năm châu.

Lê Xuân Bách

26/12/2024
26/12/2024

Nhận diện, phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về Quân đội nhân dân Việt Nam

Những ngày này cả nước ta trong không khí nô nức kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12/1944-22/12/2024. Đây là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong cả nước ôn lại lịch sử, truyền thống hào hùng của Quân đội nhân dân (QĐND).

Tuy nhiên, trên không gian mạng xuất hiện nhiều thông tin sai trái, bịa đặt, xuyên tạc, gây dư luận xấu trong xã hội. Trong những luận điệu chống Đảng, Nhà nước, bôi lem Quân đội có xuất hiện giọng điệu của tổ chức khủng bố Việt Tân. Chúng đăng những thông tin , bài, hình ảnh về một số sự kiện, kèm theo bình luận xuyên tạc trên các trang mạng xã hội với giọng điệu như phủ nhận những giá trị cốt lõi tõ lớn, của Quân đội, xuyên tạc mối quan hệ đoàn kết giữa Quân đội và nhân dân, nhất là chúng đưa ra thuyết “phi chính trị hóa” Lực lượng Vũ trang, trong đó có Lực lượng Quân đội, nhằm đánh tráo về mục tiêu, lý tưởng, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội. Chúng lợi dụng những thếu sót của một số cán bộ, chiến sỹ (CBCS) để khoét sâu, công kích, xuyên tạc bản chất cách mạng của Quân đội.

Phải khảng định rằng, đây hoàn toàn là những lời lẽ vô căn cứ, mang tính thù địch của các phần tử phản động. Đây thực chất là những thủ đoạn trong âm mưu thực hiện “Diễn biến hòa bình”, chúng luôn tìm mọi cách để phá hoại thành quả cách mạng, trong đó Quân đội giữ vai trò đóng góp hết sức lớn lao. Những luận điệu này tuy không mới nhưng đặc biệt nguy hiểm. Bằng những lời lễ ngụy biện có thể gây tâm lý hoài nghi trong tầng lớp nhân dân về lòng trung thành của Quân Đội đối với Đảng, Nhà nước, hoài nghi sự tận tụy của Quân đội đối với nhân dân. Chia rẽ mối quan hệ trong khối đại đoàn kết dân tộc, suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Quân đội, giữa Quân đội với Đảng, Nhà nước.

Phản bác lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, bài viết này xin đưa ra những lập luận, căn cứ minh chứng sau:

Thứ nhất: Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời là một tất yếu khách quan, mang tính lịch sử.

Như chúng ta đã biết, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của QĐND Việt Nam được thành lập ngày 22/12/1944, gồm 34 chiến sỹ. Trải qua 80 năm phấn đấu và trưởng thành, quân đội ta luôn là nguồn sức mạnh của cách mạng. Trước thời điểm nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tuyên bố độc lập ngày 02/9/1945, trước đòi hỏi của tình hình cách mạng diễn biến hết sức cấp bách để tranh thủ “thời cơ ngàn năm có một”, phát động tổng khởi nghĩa trên cả nước, giành chính quyền về tay nhân dân.

Kế thừa tư tưởng, khi nghiên cứu bản Luận cương của V.I.Lê Nin, trong đó có đề cập đến vấn đề cách mạng và bạo lực cách mạng. Bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng nhân dân, có tổ chức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản nhằm thực hiện mục tiêu của cách mạng, vì lợi ích của quần chúng.

Ngay từ cuối thế kỷ thứ XIX, trên con đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích bản chất của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Theo Người, bất cứ lịch sử xâm chiếm của thực dân, đế quốc thì đều viết bằng máu của những người dân lô lệ bản xứ. Vì thế để giải phóng mình, các dân tộc bị áp bức không còn con đường nào khác là con đường cách mạng bạo lực. Bạo lực cách mạng để đập tan bạo lực phản cách mạng giành chính quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh khảng định “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp, của dân tộc, cần sử dụng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng giành chính quyền và bảo vệ chính quyền”. Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời là lực lượng cách mạng đòi hỏi của tất yếu để chống lại kẻ thù.

Đây là tư tưởng cách mạng và quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa dân tộc ta, đất nước ta hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, kháng chiến, đánh thắng mọi thế lực xâm lược và ngày nay đang trên con đường đổi mới xây dựng đất nước ngày càng tươi đẹp, vững mạnh.

Thứ hai: trên thực tế 80 năm qua, Quân đội ta đã có những bước trưởng thành vượt bậc, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, gian khổ, chiến đấu, hy sinh, chiến thắng mọi kẻ thù. Quân đội luôn thể hiện là quân đội kiểu mới, mang đậm bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Đó là quân đội từ nhân dân mà ra vì nhân dân mà chiến đấu. Là lực lượng tin cậy, trung thành của Đảng, Nhà nước, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân, sẵn sàng hy sinh vì lợi ích của nhân dân. Bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ và trong hai cuộc chiến tranh biên giới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ kính yêu, Quân đội ta đã anh dũng chiến đấu, không hề tiếc máu xương để đổi lấy cuộc sống hòa bình, hạnh phúc cho nhân dân. Khi Tổ quốc lâm nguy, cuộc sống của nhân dân bị đe dọa, hàng triệu CBCS Quân đội đã ra mặt trận, xông pha trong đạn bom chiến tranh, để lại gia đình, người thân nơi quê nhà, tham gia chiến đấu cho Tổ quốc trường tồn, cho nhân dân không còn cảnh đau thương. Trong số họ có hàng triệu người đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường. Ngày nay, ngay cả khi đất nước trong thời bình, bao người lính vẫn chấp nhận khó khăn, vất vả, hiểm nguy để canh giữ chủ quyền biên gới quốc gia, biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Trong thời bình nhưng máu của các anh vẫn đổ.

Thứ 3: Quân đội ta không chỉ thể hiện bản lĩnh trong chiến đấu mà còn thể hiện sự gắn bó máu thịt với nhân dân. Ngoài nhiệm vụ thường trực chiến đấu, Quân đội còn là quân đội công tác, quân đội lao động sản xuất.

Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, QĐND là lực lượng lòng cốt cùng toàn dân giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát triển đất nước. Quân đội luôn nêu cao tinh thần cách mạng, đập tan mọi âm mưu hoạt động xâm phạm chủ quyền biên giới, biển đảo của Tổ quốc, thực hiện có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng khu kinh tế quốc phòng, các công trình có ý nghĩa chiến lược của đất nước. Tích cực tham gia các phong trào đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ nhân dân trong phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, địa bàn an toàn, địa bàn trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nâng cao đời sống, y tế, văn hóa. Luôn là lực lượng nòng cốt, xung kích khắc phục hậu quả thiên tại, dịch bệnh. Sự cống hiến của Quân đội góp phần quan trọng vào sự nghiệp củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường thế trận lòng dân, tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân.

Tất cả những điều đó khảng định rằng ở những nơi nguy hiểm nhất, gian khổ nhất, xa xôi nhất đều có Quân đội sát cánh cùng nhân dân vượt qua gian khó, thử thách. Tình đoàn kết gắn bó máu thịt đã trở thành nét văn hóa tươi thắm, đậm sâu trong con tim, khối ốc của mỗi CBCS, bởi luôn thấm lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không có dân thì không có Quân đội”.

Ngày 10/12/2024, trong buổi gặp mặt Đại biểu cựu chiến binh Việt Nam, nhân kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Quân đội; kỷ niệm 35 năm Ngày Quốc phòng toàn dân 22/12/1989-22/12/2024, Đại tướng Phan Văn Giang - Uỷ viên Bộ Chính trị -Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, phát biểu: trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, lớn mạnh của QĐND Việt Nam đều ghi đậm dấu ấn về sự yêu thương, đùm bọc của nhân dân…Bộ Quốc phòng tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định và triển khai đường lối chiến lược quân sự, quốc phòng cũng như trong đấu tranh làm thất bại các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, nhằm “phi chính trị hóa” Quân đội.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự che chở, giúp đỡ của nhân dân, Quân đội ta lớn mạnh không ngừng, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Tiếp tục khảng định tô thắm truyền thống gắn bó máu thịt với nhân dân. Nhân dân dân luôn là nguồn sức mạnh to lớn của Quân đội, giúp đỡ Quân đội trong chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù. Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

Thư tư: Quân đội ta còn thực hiện nghĩa vụ quôc tế cao cả.

Trong những năm qua, với quan điểm nhất quán của Đảng là xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận phòng thủ. Việt nam theo đuổi chính sách đối ngoại “Cây tre Việt Nam” “4 tránh”, “4 không”. Tránh xung đột quân sự, tránh đối đầu kinh tế, tránh cô lập ngoại giao, tránh lệ thuộc về chính trị; Không tham gia liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam, không liên kết với nước này để chống lại nước khác. Với mục đích “thêm bạn, bớt thù”, trên tinh thần chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ tổ quốc, góp phần bảo vệ vững chắc hòa bình cho đất nước.

Ngoài nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, tham gia phát triển kinh tế, Quân đội ta còn tham gia thực hiện nghĩa vụ Quốc tế cao cả, được công đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Trong quá khứ, Quân đội Việt Nam không có bất cứ hành động xâm lược nào. Quân tình nguyện Việt Nam đã giúp Cách mạng nhân dân Lào trong đấu tranh giải phóng dân tộc. Ngày 07/01/1979 đánh đuổi Polpot, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Suốt chiều dài lịch sử, QĐND Việt Nam luôn thể hiện tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung, là nhân tố quan trọng góp phần vào thắng lợi của cách mạng 2 nước Lào và Campuchia.

Trong những năm qua, Việt Nam đã tham gia lực lượng gìn giữ hoà bình quốc tế và ngày càng có vị trí quan trọng trên trường quốc tế với tinh thần Việt Nam mong muốn làm bạn với các quốc gia, luôn sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ quốc tế như tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, tham gia cứu trợ, cứu nạn, cứu hộ tại một số nước có thiên tai.

Đây là những minh chứng thể hiện tình cảm, sự nhân đạo của Nhân dân và Quân đội Việt Nam đối với nhân dân các nước trên thế giới, cũng là cam kết cùng nhau thúc đẩy các quan hệ, hợp tác hữu nghị để xây dựng một tương lai tốt đẹp cho nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới.

Ngày 07/6/2019, Việt Nam trở thành Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2020-2021 với số phiếu ủng hộ gần như tuyệt đối 192/193. Đây là sự khảng định rõ ràng, có ý nghĩa phản ánh ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam đổi mới, hội nhập quốc tế mà còn là sự tin tưởng, kỳ vọng vào đóng góp đầy trách nhiệm của Quân đội Việt Nam đối với hòa bình, an ninh khu vực và quốc tế.

Những minh chứng cụ thể là lời đanh thép, vững chắc, thuyết phục, có ý nghĩa phản bác lại những luận điệu phản động của các thế lực thù địch hòng bôi lem, phủ nhận vai trò của Quân đội, là cơ sở để các để cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân nói chung, các thế hệ CBCS Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng nhận thức đúng đắn, giữ vững bản lĩnh chính trị, lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Từ nhận thức đúng đắn, mỗi người dân, cán bộ, đảng viên, chiến sỹ Quân đội sẽ luôn tỉnh táo, cảnh giác trước âm mưu cổ xúy thuyết “Vũ khí luận”, góp phần vào vạch trần luận điệu xuyên tạc, chống phá, phủ nhận truyền thống và những cống hiến, hy sinh của QĐND Việt Nam.

Tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng, QĐND Việt Nam sẽ luôn giữ được truyền thống quý báu “Chí thép, lòng son”, xứng đáng với danh hiệu cao quý Bộ đội Cụ Hồ mà nhân dân dành tặng. Xứng đáng là “Quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng” như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời./.

Nguyễn Hưng

26/12/2024

LỊCH SỬ CỦA MỘT TÊN GỌI: "QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM"

Bây giờ thì tên gọi Quân đội Nhân dân Việt Nam đã trở nên quá đỗi thân thuộc, thế nhưng quân đội ta từng có những tên gọi nào và tên gọi Quân đội Nhân dân Việt Nam xuất hiện từ bao giờ thì không phải ai cũng biết

1. Tên gọi đầu tiên của quân đội ta là Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, được thành lập theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh và được đồng chí Võ Nguyên Giáp tiến hành thành lập ngày 22/12/1944 tại khu rừng Trần Hưng Đạo (nay thuộc xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng). Sở dĩ đội lấy tên như vậy vì chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong chỉ thị là “chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền”, trong bối cảnh hết sức khó khăn của những ngày chuẩn bị lực lượng vũ trang tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền.

Sau này, ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân 22/12/1944 được lấy làm ngày kỷ niệm thành lập quân đội ta và cho đến nay đã tròn 80 năm.

2. Trong những đội quân tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam, ngoài Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân thành lập 22/12/1944 thì trước đó, sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, đội du kích Bắc Sơn được thành lập và duy trì. Trong quá trình đấu tranh bảo vệ căn cứ địa cách mạng, các trung đội Cứu quốc quân lần lượt được thành lập Cứu quốc quân 1 (23/02/1941), Cứu quốc quân 2 (15/9/1941), Cứu quốc quân 3 (25/02/1944). Các trung đội Cứu quốc quân 1 và 2 đã trải qua những năm tháng ác liệt chiến đấu để bảo vệ vùng căn cứ địa và bảo vệ lực lượng của mình. Trong cuộc chiến đấu ác liệt này, các đồng chí Phùng Chí Kiên, Lương Văn Tri, chỉ huy lực lượng Cứu quốc quân đã hy sinh anh dũng.

Tháng 04/1945, Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ họp tại Hiệp Hòa, Bắc Giang chủ trương thống nhất các lực lượng vũ trang hiện có. Thực hiện chủ trương này, ngày 15/5/1945, tại Định Biên Thượng, Chợ Chu, Thái Nguyên, đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã thống nhất với các đơn vị Cứu quốc quân cùng các tổ chức vũ trang cách mạng tập trung của cả nước thành Việt Nam Giải phóng quân.

Việt Nam Giải phóng quân chính là lực lượng vũ trang cách mạng làm nòng cốt cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945 trên cả nước.

3. Cách mạng tháng Tám thành công, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Trong bối cảnh mới, lực lượng vũ trang cách mạng tiếp tục được xây dựng và phát triển. Tuy nhiên, những tháng năm này là những tháng năm cách mạng Việt Nam ở vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” khi phải đối mặt với các thế lực thù trong, giặc ngoài và hàng loạt những khó khăn về kinh tế, chính trị, xã hội. Ngay cả Đảng Cộng sản Đông Dương cũng phải tuyên bố tự giải tán, thực chất là rút vào bí mật, để tránh mũi nhọn tấn công của kẻ thù và để tăng cường thu phục các lực lượng yêu nước vào Mặt trận Việt Minh chống lại kẻ thù. Tháng 11/1945 Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán thì cũng là thời điểm Việt Nam Giải phóng quân đổi tên thành Vệ Quốc đoàn. Đây là tên gọi thứ ba của quân đội ta. Ở vào thời điểm này, lực lượng vũ trang cách mạng có khoảng 50.000 người, được biên chế, tổ chức thành khoảng 40 chi đội ở hầu hết các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ, trong đó có một số chi đội đã ngay lập tức Nam tiến để hưởng ứng cuộc kháng chiến chống Pháp của đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ.

4. Ngày 22/5/1946 theo Sắc lệnh 71- SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Vệ Quốc đoàn đổi tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam, được đặt dưới sự chỉ huy tập trung thống nhất của Bộ Tổng tham mưu. Quân đội ta lúc này đã được xây dựng hệ thống tổ chức chính quy, biên chế thống nhất theo trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội. Bên cạnh xây dựng lực lượng vũ trang tập trung, Đảng ta cũng đã chú ý xây dựng lực lượng bán vũ trang (bao gồm dân quân, du kích, tự vệ) lên tới gần 2 triệu người. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Quân đội Quốc gia Việt Nam trở thành lực lượng chiến đấu ngăn chặn bước tiến quân thù và đánh bại âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, mở đầu cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính.

5. Năm 1949, thực dân Pháp trao trả độc lập cho chính quyền Bảo Đại và thành lập nhà nước Quốc gia Việt Nam. Nhà nước Quốc gia Việt Nam cũng tiến hành thành lập quân đội với tên gọi ban đầu là Vệ binh Quốc gia, sau đổi là Vệ binh Quốc gia Việt Nam và đến tháng 12/1950, chính thức đổi tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam, là một phần trong quân đội Liên hiệp Pháp tại Đông Dương.

Như vậy, đến thời điểm cuối năm 1950, cả quân đội ta và quân đội của Bảo Đại đều có tên là Quân đội Quốc gia Việt Nam, chỉ khác là một bên là quân đội cách mạng, bên kia là quân đội phản cách mạng. Vậy nên xuất hiện những ý kiến cho rằng nên tìm một cái tên khác để đặt tên cho quân đội ta nhằm phân biệt quân đội ta là quân đội cách mạng với quân đội bù nhìn của chính quyền Bảo Đại.

Chính vì vậy có ý kiến cho rằng tên gọi Quân đội Nhân dân Việt Nam được xuất hiện từ cuối năm 1950 để phân biệt với quân đội quốc gia của chính quyền Bảo Đại. Suy luận này có vẻ logic nhưng lịch sử lại còn những bước đường lắt léo của nó.

Các tài liệu cho thấy kể cả đến năm 1951-1953 thì quân đội ta vẫn được gọi là Quân đội Quốc gia Việt Nam.

La Văn Cầu, thành viên đoàn đại biểu Việt Nam đi Đại hội Thanh niên và Sinh viên thế giới, tổ chức vào tháng 8/1951 tại Berlin, Đức, đến tháng 5/1952, được phong Anh hùng quân đội trong Đại hội Chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc, trong bản báo cáo thành tích của mình tại Đại hội vẫn xác định rằng là đại biểu của Quân đội Quốc gia Việt Nam.

Vậy nên tên gọi Quân đội Nhân dân Việt Nam được cho là xuất hiện từ cuối năm 1950 là tương đối hợp logic, tuy nhiên. lại không đúng với lịch sử bởi vì chưa có văn bản chính thức nào của Đảng và Nhà nước ta chính thức đổi tên Quân đội Quốc gia Việt Nam thành Quân đội Nhân dân Việt Nam, mặc dù lúc này, quan điểm chung của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta và nhà nước ta là Quân đội ta là quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân và chiến đấu, vì nhân dân mà phục vụ. Do vậy, có thể nói, từ năm 1950 đến tháng 9 năm 1954, Quân đội ta vẫn được gọi với tên Quân đội Quốc gia Việt Nam.

6. Gần đây, các tư liệu lịch sử được công bố cho thấy tên gọi chính thức của quân đội ta là Quân đội Nhân dân Việt Nam xuất hiện lần đầu vào tháng 9/1954.

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và Hiệp định Geneva được ký kết, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào thời điểm kết thúc. Trước tình hình tên gọi quân đội ta vẫn chưa thống nhất, ngày 23/9/1954, Thủ tướng phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Công văn số 400 – TTg do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký, gửi các bộ, các ủy ban hành chính liên khu và khu, các đoàn thể ghi rõ: “Quân đội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ nay gọi thống nhất là Quân đội Nhân dân Việt Nam”.

Như vậy, tên gọi Quân đội Nhân dân Việt Nam chính thức xuất hiện từ sau ngày 23/09/1954, sau khi chúng ta giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với Hiệp định Geneva được ký kết và thời điểm Đảng, Chính phủ, quân đội ta đang chuẩn bị trở về tiếp quản Thủ đô Hà Nội từ tay thực dân Pháp và chính quyền tay sai.

Lịch sử quân đội ta tròn 80 năm và lịch sử tên gọi Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng đã tròn 70 năm.Từ năm 1944 đến năm 1954, trong vòng 10 năm, quân đội ta đã mang những cái tên như đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Việt Nam giải phóng quân, Vệ quốc đoàn, Quân đội Quốc gia Việt Nam và từ tháng 9/1954 đến nay, chính thức mang tên Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Đức Mậu ST

26/12/2024

Năm tôi lớp 8, bố mẹ tôi chia tay nhau, tôi ở với bà. Vì bà tuổi đã cao, không có khả năng nuôi tôi ăn học, nên tôi được “các bố mang quân hàm xanh” đưa về quân đội nuôi nấng. 5 năm cùng ăn cùng ở với các bố ở Đồn biên phòng, tôi được chăm lo từng li từng tí và được động viên tinh thần, truyền động lực học tập,... Các bố nuôi tôi, chăm tôi như đứa con trong nhà. Cùng ăn, cùng ở, tôi tiếp xúc với môi trường quân đội từ rất sớm, và cũng từ ấy nuôi ước mơ được trở thành một Bộ đội Biên phòng, được mang trên vai quân hàm xanh như những người bố đã nuôi nấng tôi.
Đến ngày hôm nay, tôi đã là học viên của Học viện Biên phòng, hứa sẽ tiếp nối các bố yêu thương nhiều hơn, chia sẻ với những người, những em nhỏ có hoàn cảnh cần sự giúp đỡ.
___________
Ngồi bên dưới, nghe cậu bạn Nguyễn Anh Vũ kể, giọng to, dõng dạc và đầy tự hào khi nói về ước mơ trở thành Bộ đội Biên phòng, mình xúc động nhiều. Xúc động vì nghị lực của bạn, cũng xúc động vì “các bố mang quân hàm xanh” . Các bố thương Vũ và các bạn có hoàn cảnh giống Vũ như con cái ruột trong nhà, làm thầy - làm bố - làm bạn đồng hành của bao nhiêu đứa trẻ. Và cũng nhờ các bố, những ước mơ tưởng như lỡ dở một lần nữa lại được thắp lên.
Cảm ơn Human Act Prize đã tôn vinh “Nâng Bước Em Tới Trường - Con Nuôi Đồn Biên Phòng” - dự án thực sự ý nghĩa quá!

KHÔNG GIAN MẠNG

26/12/2024

CẢNH BÁO CHIÊU TRÒ "HỖ TRỢ LẤY LẠI TIỀN" TỪ NẠN NHÂN VỤ MR. PIPS (PHÓ ĐỨC NAM)

Sau khi cơ quan chức năng của Nhà nước Việt Nam tiến hành khởi tố bắt giam TikToker Mr Pips tên thật là Phó Đức Nam và Lê Khắc Ngọ (TikToker Mr. Hunter) cùng 29 người khác về các tội l.ừa đảo chiếm đoạt tài sản, rửa tiền, không tố giác tội phạm, chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có.

Gần đây, trên mạng xã hội xuất hiện nhiều tài khoản giả mạo cơ quan công an hoặc luật sư, hứa hẹn “thu hồi tiền không cần cọc” hoặc “chỉ thu phí sau”. Tuy nhiên, đây chỉ là một hình thức lừa đảo mới nhằm tiếp tục chiếm đoạt tài sản của các nạn nhân vụ Mr. Pips. Những kẻ này thường sử dụng hình ảnh và video giả mạo để tạo lòng tin, khiến không ít người mất cảnh giác và rơi vào bẫy.

Thực chất đây là “các thủ đoạn tinh vi” bời vì. Giả mạo danh tính: chúng sử dụng tên, hình ảnh của các cơ quan chức năng hoặc luật sư uy tín; hứa hẹn không cần đặt cọc: Đánh vào tâm lý muốn lấy lại tiền của nạn nhân để yêu cầu họ cung cấp thông tin cá nhân hoặc thực hiện các bước chuyển tiền tinh vi; dùng bằng chứng giả: Những hình ảnh, video hoặc giấy tờ “chứng minh” thành công thực chất là giả mạo.

Vậy nên để tránh những thủ đoạn trên mọi người cần. Không cung cấp thông tin cá nhân: Tuyệt đối không chia sẻ thông tin tài khoản ngân hàng, số CMND/CCCD hoặc bất kỳ thông tin nhạy cảm nào với các tài khoản không rõ ràng. Không chuyển tiền trước: Dù kẻ lừa đảo cam kết "chỉ thu phí sau", chúng vẫn có thể nghĩ ra nhiều cách để tiếp tục lừa bạn. Xác minh kỹ thông tin: Nếu nghi ngờ, hãy trực tiếp liên hệ cơ quan công an hoặc luật sư đáng tin cậy để kiểm tra.

Chúng ta cần thay đổi cách ứng xử trước những vụ việc tương tự. Thay vì nóng vội hoặc nhẹ dạ tin vào các lời hứa hão huyền, mỗi người cần hiểu rằng pháp luật Việt Nam có đầy đủ cơ chế bảo vệ người dân trước các hành vi gian lận, lừa đảo. Hãy tích cực phối hợp với cơ quan công an, cung cấp thông tin chính xác để các vụ việc được điều tra và xử lý kịp thời. Chỉ khi mỗi cá nhân ý thức được trách nhiệm của mình trong việc tuân thủ và bảo vệ pháp luật, những chiêu trò lừa đảo mới không còn đất sống. Hãy chia sẻ thông tin này rộng rãi để cộng đồng cùng nâng cao cảnh giác./.

Nguồn tổng hợp

26/12/2024

VỌNG TƯỞNG “NẾU KHÔNG… THÌ SẼ NHƯ HÀN QUỐC BÂY GIỜ

Ngày nay những kẻ bại trận sau năm 1975 vẫn rỉ rả không ngừng: Sài Gòn ngày trước được gọi là “Hòn ngọc Viễn Đông”, nếu không có giải phóng 30-4-1975, miền Nam bây giờ sẽ giàu có như Hàn Quốc và có thể còn hơn Hàn Quốc.

Để có đáp án chính xác cho câu hỏi này, cần được phân tích, dẫn chứng đầy đủ, cơ sở chắc chắn chứ không thể tin một cách mơ hồ, mơ màng như vậy.

Theo tài liệu còn lưu trữ, trong cuộc khảo sát tiến hành năm 1971, chính phủ Việt Nam cộng hòa ước tính ở miền Nam khi đó có 88% lao động trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp, lao động trong lĩnh vực công nghiệp - thương mại chỉ chiếm 8,7%, dịch vụ 3,3%. Cơ cấu GDP nông - lâm - ngư nghiệp chiếm tỷ trọng 30%, công nghiệp - thương mại trong khoảng 8-10%. Công nghiệp của miền Nam khi đó phụ thuộc chặt chẽ vào nguyên liệu và nhiên liệu nhập khẩu. Riêng khu vực dịch vụ tăng nhanh chóng, dần chiếm khoảng 60%.

Nguyên nhân dịch vụ chiếm tỷ trọng cao là nhờ sự có mặt của gần 1 triệu lính Mỹ và các nước đồng minh đánh thuê cho Mỹ. Trong 21 năm tham gia chiến tranh ở Việt Nam, Mỹ đã viện trợ cho nền kinh tế Việt Nam cộng hòa hơn 10 tỷ USD theo thời giá thập niên năm 1960, tương đương 70-80 tỷ USD theo thời giá năm 2015. Ngoài khoản viện trợ kinh tế này, một khoản tiền lớn hơn rất nhiều là tiền lương của lính Mỹ có mặt ở Việt Nam. Trung bình mỗi lính Mỹ được trả 800 USD/tháng. Lúc cao điểm, Mỹ có hơn nửa triệu lính ở miền Nam. Như vậy, riêng lương của lính Mỹ tiêu xài ở miền Nam trong mỗi năm khoảng 5 tỷ USD lúc bấy giờ, tương đương khoảng 40 tỷ USD hiện nay. Mặc dù quân đội Mỹ đã tạo ra một chuỗi các cửa hàng dành riêng cho lính của họ ở Việt Nam, nhưng không thể đáp ứng mọi nhu cầu. Do vậy, tiêu thụ tại chỗ của lính Mỹ tạo ra động lực chính cho khu vực dịch vụ của nền kinh tế Việt Nam cộng hòa. Hay nói cách khác, nền kinh tế của miền Nam lúc bấy giờ gần như phụ thuộc vào túi tiền và sự tiêu xài của lính Mỹ. Một số học giả phương Tây đánh giá lính Mỹ đã biến Sài Gòn thành một “nhà thổ khổng lồ”.

Có một thực tế, giai đoạn 1955-1960, kinh tế của Việt Nam cộng hòa tăng trưởng khá, song từ năm 1961 trở đi bắt đầu đi xuống và dần lệ thuộc nhiều hơn vào Mỹ. Từ năm 1965, đường lối sản xuất thay thế nhập khẩu bị gác lại. Một số ngành công nghiệp non trẻ như dệt, sản xuất đường... không được bảo hộ nữa nên gặp khó khăn. Lạm phát diễn ra nghiêm trọng, giá cả mọi hàng hóa đều tăng vọt. Khảo sát năm 1970 của chính phủ Hoa Kỳ cho thấy, 33,8% dân số của Việt Nam cộng hòa sống ở đô thị, với đô thị lớn nhất là Sài Gòn và đây cũng là đô thị duy nhất có trên 500 ngàn dân. Khu vực trung tâm thành phố có một số công trình, khu phố được xây dựng to đẹp và sang trọng. Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu do người Pháp xây dựng từ thập niên 1940. Các khu nhà mới rất ít được xây dựng kể từ sau năm 1950. Trong khi đó, dân cư nông thôn đổ về thành thị tìm việc và tránh chiến sự khiến Sài Gòn dần trở thành một khu ổ chuột khổng lồ.

Chênh lệch giàu nghèo Việt Nam cộng hòa rất lớn khi thu nhập của tầng lớp thiểu số thân cận với Mỹ hay chính quyền chiếm 43,5% GDP, tầng lớp lao động chỉ đạt 1,8% GDP... Sau cuộc tổng tấn công Mậu Thân năm 1968, quân đội Mỹ rút dần kéo theo chính quyền Việt Nam cộng hòa phải tự đảm đương nhiều hoạt động quân sự hơn, nên viện trợ từ Mỹ tăng nhưng vẫn không đủ, dẫn tới thâm hụt, lạm phát tiếp tục ở mức phi mã. Báo cáo kinh tế của chính phủ Việt Nam cộng hòa cho thấy năm 1970, lạm phát tới 36,8%, tăng dần tới năm 1973 là 44,5%. Trong những năm từ 1969-1971, một loạt biện pháp củng cố kinh tế được ban hành. Tuy nhiên, như đánh giá của chính chính phủ Việt Nam cộng hòa khi đó, nó giống như “cuộc chạy đua không ngừng giữa lạm phát phi mã và những chương trình ổn định thụ động nối tiếp”. Khi quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam, thị trường tiêu thụ các mặt hàng bị thu hẹp. Do đó, sản xuất công nghiệp tàn lụi dần. Tổng sản lượng công nghiệp năm 1972 giảm 5% so với năm 1971, đến năm 1973 giảm 22%, năm 1974 tiếp tục giảm 21%. Một loạt ngành công nghiệp giảm sút nghiêm trọng... Việc rút đi của hơn nửa triệu quân Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ đã để lại một khoảng trống khổng lồ trong nền kinh tế của miền Nam. Khoản 4-5 tỷ USD hằng năm trước đây được lính viễn chinh Mỹ tiêu xài trong xã hội qua các dịch vụ mua sắm đã không còn. Số lượng công nhân làm ở các cơ sở của Mỹ năm 1971 là 100.000 người, đến tháng 12-1972 chỉ còn 10.000 người, tạo ra thất nghiệp hàng loạt... Từ đó có thể rút ra trong 21 năm tồn tại chế độ Việt Nam cộng hòa, nền kinh tế miền Nam không có nội lực mà phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn tiền của người Mỹ.

TƯƠNG QUAN NÀO SO VỚI HÀN QUỐC

Về xuất phát điểm, có thể khẳng định kinh tế miền Nam Việt Nam không hơn, cũng không kém là bao so với Hàn Quốc thời điểm năm 1954. Bởi vì khi đó Hàn Quốc vừa trải qua cuộc nội chiến ác liệt với Triều Tiên, còn miền Nam Việt Nam cũng vừa trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp. Hàn Quốc và Việt Nam cộng hòa có một điểm chung là trong thời kỳ này đều dựa hoàn toàn vào viện trợ của Mỹ.

Số liệu thống kê về viện trợ của Mỹ cho Hàn Quốc cho thấy: Trong giai đoạn 1954-1961, mỗi năm Hàn Quốc nhận được từ 200 đến 300 triệu USD từ viện trợ của Mỹ. Từ năm 1961 trở đi, Mỹ giảm viện trợ cho Hàn Quốc xuống dưới 200 triệu USD, thập niên 1960 chỉ còn trên dưới 100 triệu USD và tiếp tục giảm trong thập niên 1970. Trong khi đó, từ 1954-1960, mức viện trợ kinh tế của Mỹ cho Việt Nam cộng hòa giảm dần từ mức 200 đến 300 triệu USD của 3 năm đầu xuống khoảng trên dưới 200 triệu USD trong 2 năm tiếp theo, rồi chỉ còn 150 triệu USD trong 2 năm 1961 và 1962. Nhưng từ năm 1963, sau cuộc đảo chính lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm, Mỹ ráo riết chuẩn bị đổ quân trực tiếp tham chiến thì mức viện trợ tăng trở lại, năm 1963 là 195 triệu USD, lần lượt tăng các năm 1964, 1965 là 230, 290 triệu USD và lên 793 triệu USD vào năm 1966. Từ năm 1966-1974, mức viện trợ kinh tế của Mỹ cho Việt Nam cộng hòa luôn từ 500-700 triệu USD, đến 4 tháng của năm 1975 kết thúc chiến tranh cũng đạt 240 triệu USD.

Thống kê này cho thấy, Mỹ viện trợ cho Việt Nam cộng hòa lớn hơn rất nhiều so với Hàn Quốc. Thế nhưng, trong giai đoạn này, Hàn Quốc đã nỗ lực vượt qua khó khăn, gia tăng rất nhanh giá trị xuất khẩu, kinh tế phát triển nhanh, ngày một khởi sắc hơn. Và từ cuối thập niên 1960, kinh tế Hàn Quốc đã dần dần giảm sự phụ thuộc vào Mỹ, vì thứ nhất chính Mỹ cắt giảm viện trợ, thứ hai bản thân Hàn Quốc đã tích cực phát triển nội lực của họ. Đến thập niên 70, căn bản nền kinh tế Hàn Quốc đã vượt xa và đến thời điểm 30-4-1975, đã vượt rất xa so với nền kinh tế Việt Nam cộng hòa.

Có thể minh họa điều này bằng thống kê của Ngân hàng Thế giới về thu nhập bình quân đầu người của Hàn Quốc từ năm 1970-1975 tăng từ 279 USD lên 608 USD/ năm. So với số liệu đã nêu trong kết quả nghiên cứu của Đại học Brussels, năm 1970 mức bình quân này là gấp khoảng 3 lần của Việt Nam cộng hòa, nhưng đến năm 1975 đã gấp khoảng 10 lần.

Từ những dữ liệu đã phân tích, có thể khẳng định rằng, nếu Mỹ cắt viện trợ kinh tế, không biết đến bao giờ Việt Nam cộng hòa mới có thể đứng được trên đôi chân của mình, có thể “cai” được “sữa” của Mỹ không trước khi nó sụp đổ?!

Nhân đây, người viết cũng xin được trích dẫn lời phát biểu của cựu tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in trong bài phát biểu nhân Ngày tưởng niệm những người lính Hàn Quốc vào ngày 06/6/2017 tại Nghĩa trang tưởng niệm quốc gia ở Seoul: “nền kinh tế Hàn Quốc đã tồn tại được là nhờ vào sự cống hiến và hy sinh của những người lính tham chiến tại Việt Nam”. Với tỷ lệ gần 40% trong tổng số quân đồng minh có mặt tại Nam Việt Nam, những “con thú mặt người” xứ Kim Chi trở thành “cánh tay phải” của quân Mỹ, gây ra nhiều tội ác chiến tranh man rợ để được chính phủ Hoa Kỳ trả lương và đồng thời Hàn Quốc tiếp tục nhận được viện trợ kinh tế, công nghệ, quân sự từ Hoa Kỳ.

(Bài viết có sử dụng kết quả nghiên cứu của một số tổ chức, học giả)
HPham

Address

Phường Hà Phong
Ha Long
01000

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Biển chiều Ha Long posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share