Hồn Quốc Sử

Hồn Quốc Sử Hồn Quốc Sử là dự án với sứ mệnh kết nối những giá trị lịch sử của dân tộc

[  LỜI CẢM ƠN VÀ THÔNG BÁO XIN KẾT THÚC DỰ ÁN ]🌺Trải qua hơn 1 tháng cuối cùng thì hành trình cùng “ HỒN QUỐC SỬ” đã đến...
24/07/2023

[ LỜI CẢM ƠN VÀ THÔNG BÁO XIN KẾT THÚC DỰ ÁN ]
🌺Trải qua hơn 1 tháng cuối cùng thì hành trình cùng “ HỒN QUỐC SỬ” đã đến hồi kết thúc. Với ý tưởng mong muốn tạo ra những giá trị đối với cộng đồng những người yêu thích lịch sử và những ai mong muốn hiểu sâu hơn về quá khứ của dân tộc, chúng mình rất vui khi nhận được rất nhiều feedback tích cực từ các bạn sinh viên, cộng đồng người yêu sử.
🌺Chúng mình xin gửi lời cảm ơn chân thành đến mọi người đã đồng hành cùng chúng mình trong suốt quá trình thực hiện dự án. Chúng mình rất biết ơn sự tin tưởng tất cả các bạn học sinh, sinh viên cùng các bậc phụ huynh đã luôn quan tâm, theo dõi và ủng hộ dự án, cũng xin gửi lời cảm ơn đến cộng đồng, đã quan tâm, theo dõi và phản hồi về dự án của chúng mình, đã giúp chúng mình lan tỏa thông điệp và giá trị của dự án đến nhiều người hơn.
🌺Đặc biệt, chúng mình xin gửi lời tri ân đến các thành viên trong nhóm, đã làm việc với tinh thần trách nhiệm, nhiệt huyết và chuyên nghiệp cao. Mỗi người trong nhóm đều có vai trò quan trọng và đóng góp tích cực cho sự thành công của dự án. Chúng mình rất may mắn khi có được một nhóm tài năng, sáng dạ và đoàn kết như vậy.
🌺Dự án lịch sử này đã mang đến cho chúng mình những trải nghiệm và học hỏi vô cùng quý giá. Chúng mình đã có cơ hội khám phá và khắc họa lại những sự kiện quan trọng, những con người và những giai đoạn quan trọng trong lịch sử. Đồng thời, chúng mình cũng đã tạo ra một không gian để mọi người hiểu rõ hơn về lịch sử Việt Nam và nhận thức về giá trị của nó đối với hiện tại và tương lai.
🌺Với lòng biết ơn sâu sắc, chúng mình xin thông báo rằng dự án lịch sử này sẽ kết thúc tại đây.. Chúng mình hy vọng rằng dự án này đã góp phần vào việc khơi dậy niềm tự hào về lịch sử Việt Nam oai hùng.
Một lần nữa, chúng mình xin chân thành cảm ơn tất cả mọi người đã đồng hành cùng chúng mình trong dự án này. Sự ủng hộ và đóng góp của mọi người đã làm nên thành công của chúng mình. 💐

BÁO CHÍ THẾ GIỚI VIẾT VỀ ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP----------------------------------------------------------------Ngay sa...
20/07/2023

BÁO CHÍ THẾ GIỚI VIẾT VỀ ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP
----------------------------------------------------------------
Ngay sau khi thông tin Đại tướng Võ Nguyễn Giáp qua đời được truyền đi khắp thế giới, hàng loạt tờ báo lớn ở Trung Quốc đã có các bài viết bày tỏ sự trân trọng vị danh tướng rất được yêu mến, kính trọng ở Việt Nam cũng như trên thế giới.

Nhân dân nhật báo viết "Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhà lãnh đạo quân sự quan trọng trong chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ của Việt Nam đã qua đời, hưởng thọ 102 tuổi. Dù không khởi nghiệp từ quân nhân, nhưng vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã nhiều lần chỉ huy tác chiến thắng lợi, trong đó có chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu."

Trong hai ngày nay, mạng Tân Hoa cũng liên tục đưa tin về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ca ngợi ông là vị anh hùng, là một huyền thoại ở Việt Nam, là người sáng lập ra quân đội nhân dân Việt Nam, đánh bại hai cường quốc quân sự trên thế giới. Mạng tin cũng đăng tải các ảnh tư liệu về Đại tướng - chân dung của Đại tướng, ảnh ông và Chủ tịch Hồ Chí Minh những lần chỉ huy tác chiến, ảnh trên trang bìa tạp chí Thời đại của Mỹ, tiếp Chủ tịch Cuba Fidel Cartro và cố Tổng thống Venezuela Hugo Chavez tại nhà riêng ở Hà Nội.

Trang quân sự của mạng Hoàn Cầu nêu bốn điểm nổi bật về Đại tướng Võ Nguyên Giáp: ông là một trong những nhà sáng lập của quân đội Việt Nam; trực tiếp tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chỉ huy hàng loạt chiến dịch chống Pháp, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ, dư luận phương Tây mệnh danh ông là “Hùm Xám Điện Biên”, và vào tháng 3/1972 Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát động cuộc tấn công “lễ Phục sinh” với quy mô lớn, khiến Mỹ bắt đầu quyết định thoát khỏi cuộc chiến tại Việt Nam; là người bạn tốt của người dân Trung Quốc, có công lớn trong việc bình thường hóa quan hệ Việt Nam-Trung Quốc; tạp chí Thời đại của Mỹ từng 3 lần đăng ảnh ông trên trang bìa, ông là nhân vật được tôn kính chỉ sau Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Việt Nam.

Không đầy 12 giờ đồng hồ sau khi thông tin Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời được truyền đi khắp thế giới, mạng Phượng Hoàng đã mở trang riêng tập hợp hàng chục bài viết và tư liệu liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của ông.

Đài truyền hình trung ương CCTV đưa tin vào lúc 7 giờ 42 phút ngày 5/10, các đài truyền hình khác cũng đã đưa tin và phát lại những thước phim về Đại tướng và gia đình ở nhà riêng.

Trong số ra ngày 6/10, tờ Thương báo ở Hong Kong đã dành 2/3 trang thời sự quốc tế đăng bài viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Với tiêu đề “Danh tướng chống Pháp, chống Mỹ của Việt Nam Võ Nguyên Giáp, người mà kẻ địch cũng phải kính trọng đã từ trần, hưởng thọ 102 tuổi,” bài báo viết rằng trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp từ năm 1945 tới năm 1954, với cương vị Bộ trưởng Quốc phòng kiêm Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông Võ Nguyên Giáp đã chỉ huy triển khai hàng loạt chiến dịch chống Pháp. Đặc biệt sau Chiến dịch Điện Biên Phủ, danh tiếng của ông trở nên lẫy lừng. Sau đó, trong thời gian kháng chiến chống Mỹ, tạp chí “Thời đại” đã ba lần đăng ảnh ông Võ Nguyên Giáp trên trang bìa (tháng 1/1966, tháng 2/1968 và tháng 5/1972).

Trong số tháng 5/1972, tạp chí Thời đại dẫn đánh giá của người Pháp, gọi ông Võ Nguyên Giáp là “núi lửa phủ tuyết trắng”, miêu tả ông là một kỳ tài quân sự, bên ngoài phẳng lặng nhưng nội tâm sục sôi.

Tờ báo dẫn lời Giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Australia nhận định Đại tướng Võ Nguyên Giáp là "nhân vật anh hùng huyền thoại của Việt Nam."

Tờ Minh báo cùng ngày đưa tin "Vị anh hùng độc lập được tôn kính ở Việt Nam, ông Võ Nguyên Giáp đã từ trần, hưởng thọ 102 tuổi." Tờ báo nêu rõ ông Võ Nguyên Giáp từng lãnh đạo quân đội Việt Nam đánh bại quân đội Pháp và quân đội Mỹ. Các nhà lịch sử đã đặt ông ở vị trí ngang với các danh tướng như Montgomery (Anh), Rommel (Đức) và MacArthur (Mỹ)...

Tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng số ra ngày 4/10 đã dành hơn nửa trang “châu Á” để đăng bài và ảnh về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, gồm ảnh thành lập Đội Việt Nam Tuyên tuyền Giải phóng quân năm 1944, ảnh với Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1950, gặp Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông năm 1959, gặp cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara năm 1997 và gặp gỡ phụ nữ dân tộc thiểu số ở Điện Biên Phủ năm 2004.

Trong khi đó, hãng thông tấn Nhà nước và các báo lớn của Algeria ngày 5/10 đều trích đăng thông cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về việc Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần, đăng ảnh và đưa đậm tin ca ngợi những công lao của Đại tướng đối với dân tộc Việt Nam, lịch sử quân sự thế giới và độc lập của các dân tộc.

Hãng thông tấn quốc gia Algeria (APS) ca ngợi Đại tướng Võ Nguyên Giáp là "vị tướng huyền thoại", người "anh hùng của dân tộc Việt Nam." Trong con mắt của giới báo chí Algeria, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là "kiến trúc sư thắng lợi của Việt Nam" trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ (báo Liberté), "người anh hùng của nền độc lập Việt Nam và chiến lược gia trận Điện Biên Phủ" (El Watan), người khiến quân Pháp "thua đậm" ở Điện Biên Phủ (El Moudjahid), một "chiến lược gia quân sự ngoại hạng" (L'Expression), "một trong những chiến lược gia quân sự quan trọng nhất trong lịch sử mà các tướng Pháp và Mỹ cũng phải thừa nhận" (Liberté).

Dư luận Algeria coi Đại tướng Võ Nguyên Giáp là "một người bạn lớn của nhân dân Algeria" (theo APS), người đã "làm rạng danh cuộc đấu tranh của các dân tộc chống thực dân và ách thống trị của nước ngoài" (L'Expression), "đi vào lịch sử quân sự và các công trình nghiên cứu quân sự và chiến lược của thế giới (Le Temps d'Algérie) và là người "được tất cả nể trọng, kể cả các địch thủ của ông" (Horizons).

"Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong những gương mặt chính trị vĩ đại cuối cùng của thế kỷ 20. Cha đẻ của nền độc lập cùng với Hồ Chí Minh, vị anh hùng của chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ trưởng Quốc phòng thời chiến tranh, ông là vị tướng duy nhất có thể tự hào cùng lúc chiến thắng quân đội Pháp và Mỹ." Tác giả Philippe Paquet đã viết như vậy trong bài báo đăng trên tờ La Libre (Tự do) của Bỉ số ra ngày 5/10 sau khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời.

Trong bài báo, tác giả điểm lại những nét chính trong cuộc đời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Là học sinh trường trung học Pháp Albert Sarraut, sau đó là sinh viên Đại học Đông Dương, ông rất giỏi tiếng Pháp nhưng sớm bộc lộ lòng căm ghét chủ nghĩa thực dân. Sau khi gia nhập Đảng Cộng sản và được cử sang Trung Quốc học tập, ông trở về nước và thể hiện sự tự tin và sắc bén trong các cuộc đàm phán với Tướng Salan.

Nhà báo Philippe Paquet nhấn mạnh: "Mọi người đều biết chính trong lòng chảo Điện Biên Phủ, số phận của Pháp ở Đông Dương đã bị quyết định vào tháng 5 năm 1954." Tác giả cũng khẳng định "chính tướng Giáp là người lật đổ chế độ ngụy quyền Nam Việt Nam do Mỹ bảo trợ để thống nhất đất nước."

Kết luận bài báo, tác giả miêu tả: "Dù bận rộn nhưng Tướng Giáp luôn dành thời gian trả lời phỏng vấn báo chí và ông luôn thể hiện là một người khiêm tốn, giản dị, thậm chí rất bình thường. Vì thế ông đã đi vào lòng dân, đúng như hàng loạt điện chia buồn đăng tải dày đặc trên các mạng xã hội sau khi thông tin ông từ trần được công bố"
Nguồn : Ban Tuyên giáo Việt Nam

VÌ SAO PHÁP THUA TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ?-----------------------------------------------Câu trả lời là khi đó quân Việt mạnh ...
20/07/2023

VÌ SAO PHÁP THUA TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ?
-----------------------------------------------
Câu trả lời là khi đó quân Việt mạnh hơn vượt trội cả về quân số ( 60000 lính Việt - 16000 lính Pháp ) lẫn công nghệ vũ khí so với Pháp v
Thế mạnh duy nhất quân Pháp hơn hẳn là không quân tỏ ra vô dụng với chiến trường rừng núi quân đội hai bên áp sát nhau như ĐBP.
Và quân trọng hơn quân VN lại được khối XHCN trang bị những vũ khí lợi hại mà Pháp không có được . Dưới đây là bài viết của đại tá Hồ Khang, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam trên báo nhân dân :
''Bước vào chiến dịch, Việt Nam đề nghị Trung Quốc giúp đỡ và Trung Quốc lập tức đáp ứng trên tinh thần "toàn lực chi viện, chiến trường cần thứ gì, cần bao nhiêu, đều cố gắng cung cấp nhanh nhất".
Trước yêu cầu cấp bách, Trung Quốc đã viện trợ 1.700 tấn gạo, bằng 6,8% tổng số gạo huy động cho chiến dịch, chi viện 3.600 viên đạn pháo 105 mm (đó là cơ số đạn đi theo 24 khẩu pháo viện trợ đưa về Việt Nam từ cuối năm 1953), chiếm 18% tổng số đạn pháo sử dụng, sau chuyển thêm cho Quân đội nhân dân Việt Nam 7.400 viên đạn 105 mm, mặc dù đạn pháo 105 mm của Trung Quốc đã trở nên khan hiếm sau chiến tranh Triều Tiên (tuy nhiên, vì điều kiện vận chuyển khó khăn, đến tháng 5-1954, 7.400 viên đạn này mới tới nơi khi trận đánh đã kết thúc).
Trung đoàn lựu pháo 105 mm là đơn vị hỏa lực mạnh nhất của Việt Nam, do Trung Quốc giúp đỡ đã rót đạn xuống đầu đối phương khiến địch hoảng hốt, mất tinh thần.
Chuẩn bị cho chiến dịch Ðiện Biên Phủ, Ðoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tích cực tham gia cùng các tướng lĩnh Việt Nam trong các khâu khảo sát, lên kế hoạch và chuẩn bị chiến trường. Về phương án tác chiến, sau khi cân nhắc thuận lợi và khó khăn về cách đánh, cũng như về khả năng bảo đảm hậu cần, ngày 9-12-1953, các cố vấn Trung Quốc đề nghị chọn phương án "đánh nhanh, thắng nhanh" trong hai phương án được đặt ra.
Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu kế hoạch tác chiến "đánh chắc, tiến chắc" của Ðại tướng Võ Nguyên Giáp; đồng thời, phân tích và quan sát tình hình thực tế, ngày 26-1-1954, đoàn cố vấn Trung Quốc đã hoàn toàn ủng hộ phương án của Ðại tướng.
Về phía Liên Xô, từ năm 1950, sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao, Liên Xô đã viện trợ Việt Nam một số mặt hàng có ý nghĩa chiến lược về quân sự, kinh tế. Trong đó, viện trợ không hoàn lại và thường giúp thêm ngoài mức Việt Nam đề nghị. Từ tháng 5-1950 đến tháng 6-1954, trong số 21.517 tấn hàng viện trợ quốc tế với tổng trị giá 54 triệu rúp, Việt Nam đã nhận được từ Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác, thì toàn bộ pháo cao xạ 37 ly-76 khẩu, toàn bộ 14 dàn hỏa tiễn H6, toàn bộ số tiểu liên K50, phần lớn số ô-tô vận tải 685 chiếc trên tổng số 745 chiếc là của Liên Xô.
Ðặc biệt, trong đợt ba của chiến dịch Ðiện Biên Phủ, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định bổ sung 12 GIÀN HOẢ TIỄN 6 NÒNG H6 (trong tổng số 14 dàn) do Liên Xô viện trợ tham gia chiến đấu, trực tiếp tác chiến tại khu vực bắc Him Lam.
HOẢ TIỄN H6 ( CACHIUSA )đã phát huy uy lực, khiến đối phương vô cùng sợ hãi, hoảng loạn, góp phần nhanh chóng LÀM CHO QU N PHÁP SUY SỤP TINH THẦN, TÊ LIỆT Ý CHÍ CHIẾN ĐẤU.
Với sự chuẩn bị kỹ càng, sau 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm (từ 13-3 đến 7-5-1954), quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Ðiện Biên Phủ, giành thắng lợi quyết định, có lợi cho việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ. Trong chiến thắng chung cuộc của sự kiện lịch sử "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", có dấu ấn và những đóng góp đáng ghi nhận của các nước đồng minh Trung Quốc, Liên Xô.
Một quân đội giàu lòng yêu nước và tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh đã làm nên "thiên sử vàng", như Tướng Pôn Êly, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp từng phải thốt lên: "Một lần nữa, kỹ thuật lại bị thua bởi những con người có tâm hồn và một lòng tin". Chiến thắng Ðiện Biên Phủ là chiến thắng của sức mạnh chính trị, tinh thần của trí tuệ Việt Nam, của việc nhạy bén, cương quyết chuyển từ cách "đánh nhanh, thắng nhanh, với chiến thuật đầu nhọn, đuôi dài nở hoa trong lòng địch" sang cách đánh Việt Nam "đánh chắc, tiến chắc; dùng chiến thuật bao vây đánh lấn theo kiểu bóc vỏ, xẻ múi, nghiền hạt".
Chín năm gian khó kháng chiến chống Pháp, toàn thể nhân dân Việt Nam đã đồng cam, cộng khổ, phấn đấu không mệt mỏi cho mục tiêu độc lập, tự do. Hy vọng về một ngày toàn thắng và một tương lai tươi sáng đã nâng bước chân dân tộc tiến về phía trước. Trong chặng đường đầy chông g*i, thử thách, trên nền tảng chính nghĩa của cuộc kháng chiến, nhân dân Việt Nam không đơn độc. Kề vai, sát cánh cùng Việt Nam luôn có các lực lượng dân chủ thế giới. Việt Nam nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ nhiệt tình và to lớn từ các nước trong "đại gia đình dân chủ", trong đó có Trung Quốc, Liên Xô
Ðại tá, PGS, TS HỒ KHANG
Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
ảnh :Hỏa tiễn 6 nòng 122 ly do Liên Xô sản xuất, được Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam vào những ngày cuối cùng của chiến dịch

ĐỐ BẠN: AI LÀ NHÀ THIẾT KẾ NỘI THẤT CHUYÊN NGHIỆP ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM.------------------------------------------------...
20/07/2023

ĐỐ BẠN: AI LÀ NHÀ THIẾT KẾ NỘI THẤT CHUYÊN NGHIỆP ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM.
---------------------------------------------------------------------------
Ngày 26/8/1945, tại ngôi nhà lịch sử số 48 Hàng Ngang của Trịnh Văn Bô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam.
Ít ai biết rằng, nhà thiết kế nội thất chuyên nghiệp đầu tiên ở Việt Nam – ông Trịnh Hữu Ngọc chính là người đã thiết kế và làm toàn bộ nội thất đồ gỗ cho ngôi nhà lịch sử đó.
Không những vậy, ông còn tham gia xây dựng kỳ đài lễ Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 cùng nhà báo Nguyễn Hữu Đang và kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh.
Trịnh Hữu Ngọc (1912-1997) là một họa sĩ,một nhà thiền sư,một nhà thiết kế nội thất với thương hiệu nội thất MEMO lừng danh đầu thế kỉ 20, là người truyền cảm hứng đến thế hệ nghệ sĩ ngày nay. Ông được mệnh danh là nhà thiết kế nội thất chuyên nghiệp đầu tiền của Việt Nam.

Một phụ nữ Việt Nam đang rửa xương cho những người chết đói trong nạn đói lớn năm 1945 giết chết 2 triệu người ở Việt Na...
20/07/2023

Một phụ nữ Việt Nam đang rửa xương cho những người chết đói trong nạn đói lớn năm 1945 giết chết 2 triệu người ở Việt Nam.

THƯ CỦA VUA BẢO ĐẠI GỬI THIẾU NHI NHÂN TẾT TRUNG THU -------------------------------------------------------------------...
20/07/2023

THƯ CỦA VUA BẢO ĐẠI GỬI THIẾU NHI NHÂN TẾT TRUNG THU
---------------------------------------------------------------------
Lâu nay người ta vẫn biết đến những bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thiếu niên nhi đồng trong dịp Tết Trung thu. Dưới đây là bức thư ít người biết đến: thư của cựu Hoàng Bảo Đại (khi đó là Quốc trưởng chính thể Quốc gia Việt Nam) gửi thiếu nhi nhân Tết Trung thu. Bức thư này đề ngày 21-9-1953 và đăng trên trang nhất báo Thân Dân (tờ báo do Nguyễn Thế Truyền quản lý).
Cựu hoàng Bảo Đại dùng đại từ nhân xưng "tôi" và "các em" trong xưng hô. Nguyên văn bức thư như sau:

Thư Đức Quốc trưởng gửi cho nhi đồng V.N ngày Tết Trung thu

Mặc dầu công việc bộn bề, tôi không quên hôm nay là ngày Tết của các em nhi đồng ở xứ sở.

Ở xa, tôi cũng tưởng tượng thấy những trò vui tưng bừng náo nhiệt do các em tụ họp tổ chức: nào là chơi cỗ, chơi đèn, nào là múa rước. Dưới ánh trăng rằm sáng tỏ và nên thơ, các em vui vẻ xiết bao!

Cùng với cha mẹ các em, tôi chia vui cùng các em. Tuổi xanh là tuổi rèn luyện trí óc, tâm hồn. Chơi cũng là tập: tập cho thân hình cứng cáp, mạnh mẽ, tập cho trí khôn lanh lợi, tập để cảm thông với những nguồn vui thiên nhiên mà tạo vật dành cho mọi người.

Tết Trung thu là tết đượm màu thi vị của phương Đông. Các em chơi tết Trung thu hãy tự hào về nền văn minh của nước nhà từ bao thế kỷ đã hiểu biết và mến yêu vẻ đẹp của vũ trụ. Chơi trăng tức là các em để tầm con mắt lên trời cao, hô hấp khi trời trong sạch , làm cho tâm hồn sáng lạn và trong lòng phấn khởi.

Rồi đây chẳng còn mấy bữa nữa, ngày khai giảng sẽ khiến các em quay về tề tựu, ở các nhà trường, gặp các thầy giáo, cô giáo, lo bài học, bài làm. Khi đó tôi mong những kỷ niệm giờ vui đêm nay, sẽ thúc giục các em cố gắng học hỏi để sau này trở nên người hữu ích. Nước nhà đang trải qua một giai đoạn cực kỳ khó khăn nhưng đầy vinh quang hứa hẹn. Hứa hẹn đó chính là các em: tôi khuyên các em đừng xao nhãng điều ấy. Có chăm chỉ học hành và luyện trí thức, nết na và ý chí các em mới xứng đáng với phụ huynh..........................................(chữ mất không dịch được)
khắp trên non sông tổ quốc, nhưng thu khói lửa sớm.....(mất chữ)

Evian, ngày 21 tháng 9 năm 1953

ĐỨC QUỐC TRƯỞNG

Nguồn: Trúc Bạch Thư Xã

BỨC TƯỢNG DUY NHẤT CỤ HỒ CÚI ĐẦUCó những con người ghi danh vào lịch sử một Dân tộc chỉ vài khoảnh khắc đặc biệt. Và cũn...
20/07/2023

BỨC TƯỢNG DUY NHẤT CỤ HỒ CÚI ĐẦU
Có những con người ghi danh vào lịch sử một Dân tộc chỉ vài khoảnh khắc đặc biệt. Và cũng chỉ cần như thế Dân tộc khó mà quên con người đó.
Thời điểm có thể nói để lại dấu ấn đặc biệt hào hùng và sâu đậm của cụ Hồ chính là năm 1945.
Nguyễn Thị Kim, 29 tuổi, cựu nữ sinh viên hiếm hoi của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã khắc hoạ chân dung cụ Hồ chân thật nhất ở thời điểm lịch sử ấy.
Trong hai tháng nữ điêu khắc gia tạc khuôn mặt cụ Hồ, không biết có được cụ Hồ hài lòng không. Và, không biết các lãnh đạo đảng, những người luôn thần tượng lãnh tụ có hài lòng không.
Chỉ biết, bức tượng này sau đó được tác giả đúc đồng và giữ lại cho riêng mình. Hoạ sĩ Phạm Văn Đôn chồng của điêu khắc gia Nguyễn Thị Kim đã chôn tượng xuống đất gần bàn thờ gia đình khi Pháp tái chiếm Hà Nội.
Sau tiếp quản Hà Nội 1954, hoạ sỹ Phạm Văn Đôn đã đào lên để năm 1959 đem tặng Bảo tàng Cách mạng khi bảo tàng này được thành lập.
Đây là bức tượng duy nhất cụ Hồ cúi mặt xuống khác với tất cả tượng và chân dung cụ sau này đều nhìn thẳng hoặc ngước mặt lên.
Một lãnh tụ biết cúi mặt xuống chính là một lãnh tụ không cao ngạo.
Dân tộc chỉ có thể ngẩng cao đầu khi các nhà lãnh đạo không cho phép mình đứng trên Nhân dân và ngược lại.

𝗕𝗮̀𝗶 𝘁𝗵𝗼̛ 𝘃𝗲̂̀ 𝗮𝗻𝗵 𝗵𝘂̀𝗻𝗴 𝗣𝗵𝗮̣𝗺 𝗛𝗼̂̀𝗻𝗴 𝗧𝗵𝗮́𝗶Là thanh niên yêu nướcTheo phong trào Đông DuHồng Thái nuôi chí lớnBáo quốc h...
20/07/2023

𝗕𝗮̀𝗶 𝘁𝗵𝗼̛ 𝘃𝗲̂̀ 𝗮𝗻𝗵 𝗵𝘂̀𝗻𝗴 𝗣𝗵𝗮̣𝗺 𝗛𝗼̂̀𝗻𝗴 𝗧𝗵𝗮́𝗶

Là thanh niên yêu nước
Theo phong trào Đông Du
Hồng Thái nuôi chí lớn
Báo quốc hận, gia thù.
Sáng lập Tâm Tâm xã
Một tổ chức thanh niên
Làm bạo động, ám sát
Cùng một số thành viên.
Như là Hồ Tùng Mậu
Có cả Lê Hồng Phong
Cùng một số đồng chí
Xả thân vì cộng đồng.
Năm một chín hai bốn
Toàn quyền Pháp, Mec-lanh.
Bị Hồng Thái ám sát
Nhưng sự việc không thành.
Hôm ấy ở Khách sạn
Tại Sa Diện, Quảng Châu
Tiếng bom Phạm Hồng Thái
Làm chấn động địa cầu.
Sau khi tiếng bom nổ,
Phạm Hồng Thái đường cùng
Gieo mình xuống sông lớn
Chọn cái chết anh hùng.
Đó là một sự kiện
Gây điên đảo chính trường
Nó biểu hiện bất mãn
Của người dân Đông Dương.
Nó dự báo giông tố
Đang sắp sửa xảy ra
Không thể nào tránh khỏi
Ở xứ Việt Nam ta.
Mai táng Phạm Hồng Thái
Rất chu đáo trang nghiêm
Một đoàn người Trung Quốc
Đứng cúi đầu, lặng im.
Ngôi mộ Phạm Hồng Thái
Tọa trên Nhị Vọng Cương
Hướng Tây Nam, mát mẻ
Đầu dõi về cố hương.
Bao nhiêu người cảm khái
Muốn hành động như anh
Sống làm quả bom nổ
Chết hóa dòng nước xanh.
(Trích 3001 bài thơ sử Việt - Sang Đỗ)

📝📝𝑳𝒊̣𝒄𝒉 𝒔𝒖̛̉ 𝒄𝒉𝒖̛̃ 𝒗𝒊𝒆̂́𝒕 𝒕𝒊𝒆̂́𝒏𝒈 𝒗𝒊𝒆̣̂𝒕 ✍️✍️Tiếng Việt là ngôn ngữ của người Việt Nam và là ngôn ngữ chính thức của Việ...
20/07/2023

📝📝𝑳𝒊̣𝒄𝒉 𝒔𝒖̛̉ 𝒄𝒉𝒖̛̃ 𝒗𝒊𝒆̂́𝒕 𝒕𝒊𝒆̂́𝒏𝒈 𝒗𝒊𝒆̣̂𝒕 ✍️✍️

Tiếng Việt là ngôn ngữ của người Việt Nam và là ngôn ngữ chính thức của Việt Nam. Trong lịch sử Việt Nam, có ba loại chữ dùng để ghi tiếng Việt: chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Chữ Hán và chữ Nôm là văn tự ngữ tố, mỗi chữ Hán và chữ Nôm biểu thị một hoặc một số âm tiết. Chữ quốc ngữ đã bắt đầu được sử dụng chính thức tại Việt Nam vào đầu thế kỷ XX.
Các dạng chữ viết tiếng Việt từng được sử dụng trong lịch sử
𝑪𝒉𝒖̛̃ 𝑯𝒂́𝒏
Vai trò của chữ Hán để ghi chép tiếng Việt chủ yếu là ghi lại các yếu tố Hán-Việt có trong văn bản Nôm, ngoài ra, chữ Hán cũng là thành tố quan trọng để tạo ra chữ Nôm.
Từ đầu công nguyên đến thế kỷ X, Việt Nam chịu sự đô hộ của phong kiến Trung Hoa, chữ Hán và tiếng Hán được giới quan lại cai trị áp đặt sử dụng. Theo Đào Duy Anh thì nước Việt bắt đầu có Hán học khi viên Thái thú Sĩ Nhiếp (137 - 226) đã dạy dân Việt thi thư. Trong khoảng thời gian hơn một ngàn năm, hầu hết các bài văn khắc trên tấm bia đều bằng chữ Hán.
Có ý kiến cho rằng chữ Hán đã hiện diện ở Việt Nam từ trước Công nguyên, dựa trên suy diễn về dấu khắc được coi là chữ trên một con dao găm . Tuy nhiên đó là lúc chữ Hán chưa hình thành, và trên các trống đồng Đông Sơn có thời kỳ 700 TCN - 100 SCN thì hiện diện "các chữ của người Việt cổ" chưa được minh giải, và chưa có tư liệu xác định vào thời kỳ trước Công nguyên cư dân Việt cổ đã sử dụng chữ.
Từ sau thế kỷ thứ X, tuy Việt Nam giành được độc lập tự chủ, nhưng chữ Hán và tiếng Hán vẫn tiếp tục là một phương tiện chính trong việc ghi chép và trước tác. Đến cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20 thì bị thay thế bởi chữ Quốc ngữ. Nền khoa bảng Việt Nam dùng chữ Hán chấm dứt ở kỳ thi cuối cùng năm 1919.
𝑪𝒉𝒖̛̃ 𝑵𝒐̂𝒎
Chữ Nôm là hệ thống văn tự ngữ tố dùng để viết tiếng Việt, được tạo ra dựa trên cơ sở là chữ Hán. Nó bao gồm các từ Hán Việt và một hệ thống các từ vựng khác được tạo ra dựa vào việc vận dụng phương thức tạo chữ hình thanh, giá tả, hội ý của chữ Hán để tạo ra các chữ mới bổ sung cho việc viết. Cũng như việc biểu đạt các từ thuần Việt không có trong bộ chữ Hán ban đầu.
Sau khi Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ của Trung Quốc vào năm 939, chữ Nôm lần đầu tiên thành chữ quốc ngữ để diễn đạt tiếng Việt qua mẫu tự biểu ý. Hơn 1.000 năm sau đó—từ thế kỷ 10 cho đến thế kỷ 20—một phần lớn các tài liệu văn học, triết học, sử học, luật pháp, y khoa, tôn giáo và hành chánh được viết bằng chữ Nôm. Dưới triều đại nhà Tây Sơn, toàn bộ các văn kiện hành chánh được viết bằng chữ Nôm trong 24 năm, từ 1788 đến 1802. Những văn bản như sổ sách, công văn, giấy tờ, thư từ, khế ước, địa bạ v.v. chỉ đôi khi có xen chữ Nôm khi không thể tìm được một chữ Hán mang nghĩa tương đương chỉ các danh từ riêng (như tên đất, tên làng, tên người), nhưng tổng thể vẫn là văn bản Hán Việt bởi quan niệm sai lầm của giới sĩ đại phu các triều đại: "nôm na là cha mách qué". Nói cách khác, chữ Nôm là công cụ thuần Việt ghi lại lịch sử văn hoá của dân tộc trong khoảng 10 thế kỷ, mặc dù đó là công cụ còn chưa chứng tỏ được tính hữu hiệu và phổ dụng của nó so với chữ Hán.
𝑪𝒉𝒖̛̃ 𝑸𝒖𝒐̂́𝒄 𝒏𝒈𝒖̛̃
Chữ Quốc ngữ là bộ chữ hiện dùng để ghi tiếng Việt dựa trên các bảng chữ cái của nhóm ngôn ngữ Rôman với nền tảng là ký tự Latinh.
Việc chế tác chữ quốc ngữ Việt Nam là một công việc tập thể của nhiều linh mục dòng Tên người Châu u. Trong công việc này có sự hợp tác tích cực và hiệu quả của nhiều người Việt Nam, trước hết là các thầy giảng Việt Nam (giúp việc cho các linh mục người u). Alexandre De Rhodes đã có công lớn trong việc góp phần sửa sang và hoàn chỉnh bộ chữ Quốc Ngữ. Đặc biệt là ông đã dùng bộ chữ ấy để biên soạn và tổ chức in ấn lần đầu tiên cuốn Từ điển Việt - Bồ Đào Nha - Latinh (trong đó có phần về ngữ pháp tiếng Việt) và cuốn Phép giảng tám ngày. Xét về góc độ ngôn ngữ thì cuốn diễn giảng vắn tắt về tiếng An Nam hay tiếng đàng ngoài (in chung trong từ điển) có thể được xem như công trình đầu tiên khảo cứu về ngữ pháp; còn cuốn Phép giảng tám ngày có thể được coi như tác phẩm văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Quốc Ngữ, sử dụng lời văn tiếng nói bình dân hàng ngày của người Việt Nam thế kỷ 17.
Tuy chữ Quốc ngữ của Alexandre De Rhodes năm 1651 trong cuốn từ điển Việt-Bồ-La đã khá hoàn chỉnh nhưng cũng phải chờ đến từ điển Việt-Bồ-La xuất bản năm 1772, tức là 121 năm sau, với những cải cách quan trọng của Pigneau de Behaine thì chữ Quốc ngữ mới có diện mạo giống như hệ thống hiện nay.
Sự kiện đánh dấu vị thế chữ Quốc ngữ là khi người Pháp hoàn thành xâm chiếm Nam Kỳ vào cuối thế kỷ 19. Ngày 22 tháng 2 năm 1869 Phó Đề đốc Marie Gustave Hector Ohier ký nghị định bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ thay thế chữ Nho trong các công văn ở Nam Kỳ . Nghị định 82 do Thống đốc Nam Kỳ Lafont ký ngày 06/04/1878 cũng đề ra mốc hẹn trong bốn năm (tức năm 1882) thì phải chuyển hẳn sang chữ Quốc ngữ . Sang thế kỷ 20 thì chính phủ Đông Pháp mở rộng chính sách dùng chữ Quốc ngữ, giao cho Nha Học chính giảng dạy ở Bắc Kỳ từ năm 1910..
Việc cổ động cho học "chữ Quốc ngữ" ở toàn cõi nước Việt gắn với các phong trào cải cách trong giai đoạn 1890 - 1910 như Hội Trí Tri, phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục và ngành báo chí mới hình thành, đã thừa nhận và cổ vũ học "chữ Quốc ngữ", coi là phương tiện thuận lợi cho học hành nâng cao dân trí .
Theo tư liệu trong "Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ (25/5/1938)" do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức ngày 25/5/2008, thì Hội ra đời ngày 25/5/1938, đến ngày 29/7/1938 Thống sứ Bắc Kỳ công nhận sự hợp pháp của Hội. Đó là dấu mốc chắc chắn cho vị thế "chữ Quốc ngữ".
Nguồn: sưu tầm

𝐓𝐞̂𝐧 𝐠𝐨̣𝐢 𝐜𝐮̉𝐚 𝐧𝐮̛𝐨̛́𝐜 𝐭𝐚 𝐪𝐮𝐚 𝐜𝐚́𝐜 𝐭𝐡𝐨̛̀𝐢 𝐤𝐢̀ 𝐥𝐢̣𝐜𝐡 𝐬𝐮̛̉   👉1. XÍCH QUỶ - Tên nước ta thời vua Kinh Dương VươngTheo truy...
20/07/2023

𝐓𝐞̂𝐧 𝐠𝐨̣𝐢 𝐜𝐮̉𝐚 𝐧𝐮̛𝐨̛́𝐜 𝐭𝐚 𝐪𝐮𝐚 𝐜𝐚́𝐜 𝐭𝐡𝐨̛̀𝐢 𝐤𝐢̀ 𝐥𝐢̣𝐜𝐡 𝐬𝐮̛̉

👉1. XÍCH QUỶ - Tên nước ta thời vua Kinh Dương Vương
Theo truyền thuyết, các tài liệu và thư tịch cổ, năm 2879 Trước Công nguyên, Kinh Dương Vương lên ngôi vua, lập lên Nhà nước Xích Quỷ - nhà nước sơ khai độc lập có chủ quyền đầu tiên của dân tộc ta. Kinh Dương Vương kết duyên với Thần Long sinh ra Lạc Long Quân (tên húy là Sùng Lãm). Sau đó, Lạc Long Quân kết duyên với u Cơ sinh ra các vua Hùng.
👉2. VĂN LANG – Tên nước ta thời các vua Hùng
Từ đầu thời đại đồng thau, có khoảng 15 bộ Lạc Việt sinh sống chủ yếu ở miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả. Thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt, dựng lên Nhà nước Văn Lang, xưng vua - mà sử cũ gọi là Hùng Vương, kinh đô đặt ở Phong Châu.
Quốc hiệu Văn Lang mang ý nghĩa gì? Hiện nay có nhiều cách giải thích khác nhau. Theo ý tôi, lang là lan tỏa, văn là văn hóa. Văn Lang nghĩa là cội nguồn văn hóa mang sức mạnh lan tỏa.
Thời gian tồn tại của nước quốc hiệu Văn Lang tồn tại khoảng 2.671 năm khoảng từ đầu thiên niên kỷ I trước Công nguyên đến thế kỷ III trước Công nguyên.
👉3. ÂU LẠC – Tên nước ta thời vua An Dương Vương
Sau khi khiến Tần Thủy Hoàng phải lui quân chịu thất bại trong âm mưu xâm lược nước ta vào năm 208 trước công nguyên, Thục Phán bằng ưu thế của mình đã xưng vương (An Dương Vương), liên kết các bộ lạc Lạc Việt và u Việt lại, dựng nên nước u Lạc (tên ghép hai chữ của hai bộ lạc u Việt và Lạc Việt). Quốc hiệu u Lạc tồn tại 50 năm từ 257 trước CN đến 207 trước CN
👉4. VẠN XUÂN – Tên nước ta thời nhà tiền Lý và nhà Ngô
Vào mùa Xuân năm 542, Lý Bí khởi nghĩa, đánh đuổi quân Lương, giải phóng được lãnh thổ. Đến tháng 2 năm 544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, lấy tên hiệu là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân (Với ý nghĩa đất nước bền vững vạn mùa Xuân), khẳng định niềm tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập và mong muốn đất nước được bền vững muôn đời.
Chính quyền Lý Bí tồn tại không lâu thì thất bại, nước ta rơi vào vòng đô hộ của các triều đạiTrung Quốc (từ năm 602). Quốc hiệu Vạn Xuân trải qua nhiều thăng trầm và được khôi phục sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán bằng chiến thắng Bạch Đằng năm 938.
👉5. ĐẠI CỒ VIỆT - Tên nước ta thời nhà Đinh
Năm 968, Ðinh Bộ Lĩnh dẹp yên loạn 12 sứ quân cát cứ, thống nhất đất nước, lên ngôi Hoàng đế và cho đổi quốc hiệu là Ðại Cồ Việt (Đại nghĩa là lớn, Cồ nghĩa là lớn, do đó tên nước ta có nghĩa là nước Việt lớn). Ta cũng thấy lần đầu tiên yếu tố “Việt” được có trong quốc hiệu.
Tên nước Đại Cồ Việt tồn tại 86 năm (968-1054) trải qua suốt đời Ðinh (968-979), Tiền Lê (980-1009) và đầu thời Lý (1010-1053).
👉6. ĐẠI VIỆT - Tên nước ta thời nhà Lý, nhà Trần, sau đó sang thời nhà Hồ thì bị thay đổi
Năm 1054, nhân điềm lành lớn là việc xuất hiện một ngôi sao sáng chói nhiều ngày mới tắt, nhà Lý (Lý Thái Tông) liền cho đổi tên nước thành Đại Việt (nước Việt lớn, yếu tố “Việt” tiếp tục được khẳng định), và quốc hiệu Đại Việt được giữ nguyên đến hết thời Trần thì bị thay đổi.
👉7. ĐẠI NGU - Tên nước ta thời nhà Hồ
Tháng 3 năm 1400, Hồ Quý Ly phế vua TrầnThiếu Đế lập ra nhà Hồ và cho đổi tên nước thành Đại Ngu (“Ngu” tiếng cổ có nghĩa là “sự yên vui”). Quốc hiệu đó tồn tại cho đến khi giặc Minh đánh bại triều Hồ (tháng 4/1407).
👉8. ĐẠI VIỆT - Lại được sử dụng làm quốc hiệu nước ta vào thời kỳ Hậu Lê và nhà Tây Sơn
Sau 10 năm kháng chiến (1418-1427), cuộc khởi nghĩa chống Minh của Lê Lợi toàn thắng. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đặt tên nước là Ðại Việt (lãnh thổ nước ta lúc này về phía Nam đã tới Huế). Quốc hiệu Ðại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê (1428-1787) và thời Tây Sơn (1788-1802).
Tính cả nhà Lý, Trần, Hậu Lê vàTây Sơn, quốc hiệu ĐẠI VIỆTcủa nước ta tồn tại 748 năm (1054-1804)
👉9. VIỆT NAM - Tên nước ta thời Nhà Nguyễn tính từ năm 1804-1884
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua và sau đó cho đổi tên nước là Việt Nam. Sách Đại Nam thực lục chép: “Giáp Tý, Gia Long năm thứ 3 (1804), tháng 2, ngày Đinh Sửu, đặt Quốc hiệu là Việt Nam, đem việc cáo Thái Miếu. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài”.
Tên gọi Việt Nam mang ý nghĩa chỉ quốc gia của người Việt ở phương Nam để phân biệt với quốc gia của những người ở phương Bắc.
Quốc hiệu Việt Nam tồn tại 80 năm (1804-1884). Tuy nhiên, hai tiếng "Việt Nam" lại thấy xuất khá sớm trong lịch sử nước ta như là trong các tài liệu, tác phẩm của trạng nguyên Hồ Tông Thốc (cuối thế kỷ 14), Nguyễn Trãi (đầu thế kỷ 15), trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585),...
👉10. ĐẠI NAM - Tên nước ta thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn
Dưới thời Minh Mạng (1820-1840), lãnh thổ đất nước được mở rộng hơn cả. Năm 1838, ông đổi tên quốc hiệu từ Việt Nam thành Đại Nam, nghĩa là quốc gia phương Nam rộng lớn. Quốc hiệu Đại Nam tồn tại đến năm 1945, tổng cộng 107 năm.
👉11. VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA - Tên nước ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1945-1975)
Ngày 19/8/1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, lật đổ hoàn toà nách thống trị phong kiến và thực dân, mở ra một kỷ nguyên mới. Khoảng 14h ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Quốc hiệu này khác với các quốc hiệu khác ở chỗ gắn với thể chế chính trị (dân chủ cộng hòa) thể hiện bản chất và mục đích của nhà nước là quyền dân chủ, tự do, công bằng cho tất cả mọi người.
👉12. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM – Tên nước ta từ năm 1976 đến nay
Ngày 30/4/1975, miền Nam được giải phóng, đất nước được thống nhất. Ngày 02/7/1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, toàn thể Quốc hội đã nhất trí lấy tên nước là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hiệu này, cũng như quốc hiệu trước đó, gắn với thể chế chính trị (Cộng hòa xã hội chủ nghĩa) và mang ý nghĩa thể hiện mục tiêu tiêu vươn tới một xã hội tốt đẹp hơn.

Address

Hoà Lạc/Thạch Thất
Hanoi

Telephone

+84966574443

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Hồn Quốc Sử posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Business

Send a message to Hồn Quốc Sử:

Share

Category