Trịnh Cường guitarist

Trịnh Cường guitarist Bất kỳ ai cũng có thể chơi được guitar bất kể tuổi tác và năng khiếu. Chỉ cần bạn kiên trì tập theo phương pháp phù hợp.

Ngày này năm 1887 phát minh máy hát của Emile Berliner  được cấp Bằng sáng chế Hoa Kỳ   Trích  "Năm 1637 là một mốc quan...
08/11/2025

Ngày này năm 1887 phát minh máy hát của Emile Berliner được cấp Bằng sáng chế Hoa Kỳ

Trích "Năm 1637 là một mốc quan trọng khi nhà hát opera công cộng đầu tiên được khánh thành ở Venice, đặt dấu chấm hết cho độc quyền nghe nhạc sống của nhà thờ và quý tộc.
Lịch sử âm nhạc đã tiến thêm một nấc về quyền con người, nhưng vẫn còn một vấn đề: một bản nhạc hay là bản nhạc nghe đi nghe lại không chán. Vậy làm sao để được nghe lại bản nhạc yêu thích? Ngoài ra, bạn làm cách nào để chia sẻ cho bạn tri âm một bản nhạc hay? Nếu không đủ khả năng học chơi nhạc thì bạn sẽ phải đợi đến năm 1878 khi Thomas Edison phát minh ra công nghệ thu âm. Thu được âm thanh là tuyệt vời rồi nhưng vẫn chưa chia sẻ cho nhau được vì mới có thu mà chưa phát. Chúng ta chỉ phải đợi 9 năm nữa - năm 1887 và vào chính ngày này tháng 11, Emil Berliner đã được cấp bằng cho phát minh máy hát của ông. Quy trình thu và phát đã hoàn chỉnh để ngày nay chúng ta có vô số cách để thưởng thức và chia sẻ âm nhạc, và cả âm thanh các loại nữa. "

Toàn bài về phát minh vĩ đại của E Berliner: https://bagiaiguitarist.blogspot.com/2024/11/emile-berliner-cha-e-cua-chiec-may-ky.html

CON ĐƯỜNG ÂM NHẠC CỦA TÔI III- Những bài học đầu tiên Nhà tôi ở trên tầng 2 đi lên bằng một cầu thang  qua một khoảng sâ...
07/11/2025

CON ĐƯỜNG ÂM NHẠC CỦA TÔI
III- Những bài học đầu tiên

Nhà tôi ở trên tầng 2 đi lên bằng một cầu thang qua một khoảng sân trời nhỏ. Xưa kia dưới cầu thang vốn là bể nước mưa, còn sân trời là nóc nhà tắm của căn hộ tầng 1 của bác ruột tôi, sau bác không ở bán lại cho người khác. Sân trời sau đã cải tạo thành bếp, còn khi xưa sân trông sang sân vườn của chùa Bà Đá. Vườn chùa có rặng nhãn đầy chim mỗi sáng hót váng tai. Tình cờ sau một cơn mưa rào tôi phát hiện ra quang cảnh đẹp khác thường vì mọi vật nét căng trong bầu không khí trong vắt. Từ đó sau mỗi cơ mưa tôi thường đứng ngắm khung cảnh qua rặng nhãn xanh đến tận nóc ngói đỏ của ngôi nhà trong tu viện dòng Mến Thánh giá ở phố Nhà Chung. Về sau tôi không còn thấy lại cảnh tượng đó nữa, chắc vì ô nhiễm không khí đã tăng theo nhịp đi lên của đời sống xã hội. Sân chùa là nơi tổ dân phố họp hành, như một sự tái hiện công năng của sân đình thuở xưa. Trong một buổi họp tổ dân phố, tôi đã rất ngỡ ngàng khi thấy Cường “híp” ở đầu phố lên kéo violin tặng bà con Bản nhạc pô-lô-ne(polonaise), bản nhạc tuyệt vời trong bộ phim cùng tên của Ba Lan đang hot khi đó. Giờ nhớ lại thấy buồn cười vì mắt tôi cũng híp như nó hoặc hơn nhưng vì đã có tên Cường “Giai” ghép tên ở nhà. Màn biểu diễn viô-lông của Cường “híp” làm tôi ngây ngất rồi ao ước mình có thể kéo được viô-lông như nó. Mãi đến khi trưởng thành tôi mới biết cây đàn của Cường “híp”là viola sau khi biết anh là một cây viola trong Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia. Việc mong muốn được chơi đàn khi nghe người khác đàn cũng là một tiêu chí của năng khiếu âm nhạc là cảm thụ. Một người phải cảm thụ âm nhạc đến mức nhất định mới có khao khát tạo ra nhạc khi chứng kiến người đàn hát. Năm bảy năm sau tôi sẽ biết tác giả bản Pô-lô-ne đó là Oginsky khi được học guitar cổ điển, cũng là lúc tôi đã hiện thực hóa được ước mơ âm nhạc đầu tiên của mình.

Khi biết tôi thèm được học chơi viô-lông, bố hứa sẽ cho đi học. Ông là người cổ vũ nhiệt thành của âm nhạc, đặc biệt là nhạc cổ điển như đã kể trong các bài trước. Thời đó để chuẩn bị học chơi một nhạc cụ, học viên phải học qua một khoá ký xướng âm. Đến kỳ nghỉ hè của lớp 4, bố đăng ký cho tôi theo học ký xướng âm ở lớp nhạc của thầy Đoàn Chuẩn, số 9 Cao Bá Quát. Lần đầu tiên trong đời tôi được tự đạp xe đạp ra khỏi nhà với chiếc xe đạp thiếu nhi trước đó tôi chỉ được dắt trên hè phố thôi. Mỗi buổi học tôi cứ ê a Đồ Mi Xón Là Mi Phá như một con vẹt. Buối học với thầy Chuẩn, buổi học với chị Lan Anh trợ giảng của thầy. Thầy rất hóm hỉnh, ông luôn giảng bài theo kiểu hóm hỉnh làm bọn trẻ hứng thú suốt cả buổi học. Phải đến tận buổi kiểm tra cuối khóa, tôi mới vỡ lẽ ra cách xác định tên nốt: chỉ cần nhớ được một nốt rồi suy ra các nốt khác theo thứ tự Đô Rê Mi Pha Xon La Xi hoặc ngược lại, đơn giản thế thôi nhưng tôi vốn chậm hiểu. Chả thế mà cô Cầm, giáo viên năm lớp 3- 4, thường chê tôi: anh thì thông minh mà sao em lại mít đặc thế! Anh tôi cũng học lớp cô rồi đến cậu em út cũng học cô. Quả là trong mấy năm cấp 1 tôi mít đặc thật, năm lớp 3 tôi đã cắn bút cả buổi chiều mới hiểu cách giải bài toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu vốn chỉ tính theo công thức đơn giản thôi. Khi lên lớp 5 đầu óc mới vỡ vạc ra dần và cuối học kỳ 1, thằng bé mít đặc đã không tin vào mắt mình khi thấy sổ liên lạc ghi mình đạt học sinh tiên tiến, cứ như một món quà của ông Bụt ban cho. Thành quả này chắc chắn có đóng góp lớn của môn Pháp văn. Khi lên cấp 2 theo tuyến tôi vẫn học ở Hoàn Kiếm nhưng bố đã xin cho tôi chuyển sang học tại Tô Hiệu cuối phố Nhà Chung vì bên đó có môn Pháp văn do cô Hợp sinh viên cũ của bố dạy. Khi đó trường Tô Hiệu là một trong những trường cấp 2 thí điểm dạy ngoại ngữ. Tôi thấy học Pháp văn rất thú vị và vì thế việc học suôn sẻ không như đa số các bạn có vẻ căm ghét nó. Sau thành công này tôi tự tin hẳn lên và việc học cũng suôn sẻ hơn. Nhưng trước khi nhận được món quà của Bụt tôi phải nhận một quả đắng. Số là tôi khá hiếu động, không phải nghịch chân tay mà hay cười bất chợt vì những chi tiết đọc trong truyện bỗng nảy ra trong đầu. Ở nhà chuyện đó vẫn thường xảy ra như cơm bữa: đang ăn cơm tôi đột nhiên tạm dừng ăn để cười vì một ý nghĩ chợt đến. Và chuyện phải đến là viết kiểm điểm có chữ ký của bố mẹ. Trình bố ký bản kiểm điểm là một cực hình, chẳng khác mấy kẻ tử tù bị dẫn ra pháp trường mô tả trong truyện. Nhưng còn tệ hơn thế, sau khi ký bản kiểm điểm thứ hai ba gì đó, bố bảo: học hành cho tử tế đi rồi hãy nghĩ đến chuyện học viô-lông. Xong!

Sau khi thống nhất đất nước, một sáng tầm 9h30 là giờ chuẩn bị nấu bữa trưa, anh tôi tình cờ dò thấy kênh FM của Đài tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và có rất nhiều nhạc trên đó. Không chỉ các ca khúc nhạc đỏ như Đài tiếng nói Việt Nam, mỗi 30 phút cho một thể loại nhạc nối tiếp nhau. Cứ tầm 9h-9h30 hai anh em mở kênh FM vừa nghe nhạc vừa chuẩn bị nấu cơm, quét dọn nhà. Một chương trình gì đó có nhạc hiệu mê ly thế, thỉnh thoảng giai điệu đó lại vang lên trong đầu tôi như nhắc nhở. Có những bản nhạc có nhiều cây viô-lông, lúc thêm tiếng piano hòa cùng … kiểu nhạc giống như trong mấy đĩa nhựa của bố tôi hay nghe từ hồi nhỏ. Lại có những bản nhạc kiểu khác gồm tiếng guitar và trống thật sôi nổi. Mãi về sau mới biết đó là guitar điện cùng ban nhạc nhẹ. Nhưng khi đó hai anh em gọi những bản nhạc viô-lông piano du dương là nhạc nhẹ, vì nó nhẹ nhàng so với guitar trống mà. Mãi đến gần ba mươi năm sau, sau khi được tiếp cận với internet tôi mới biết nhạc hiệu tuyệt vời kể trên là chương 3 của bản Clarinette concerto K. 622 của W A Mozart. Có được hiểu biết đó nhờ tham gia một diễn đàn nhạc cổ điển và tôi không phải là người duy nhất đi tìm danh tính giai điệu này.
Đầu năm lớp 7, tôi được thầy Quế chủ nhiệm bổ nhiệm làm tổ trưởng. Nhưng ngay sau đó thầy phát hiện ra tôi chưa phải Đội viên nên hủy quyết định bổ nhiệm và yêu cầu tôi phải phấn đấu thành Đội viên. Cuối học kỳ 1 tôi đã được kết nạp Đội bằng một nghi thức long trọng của toàn trường dành cho mỗi một mình tôi. Phương Mai cùng lớp đi sinh hoạt ở đội Thư viện Cung Thiếu nhi kể với các bạn trong đội: Lớp tớ có một cậu rất ngộ lên lớp 7 mới vào Đội. Tôi biết chuyện này vì trong số bạn cùng đội của Phương Mai có hai bạn ở gần nhà: Vinh ở Nhà Chung học cùng tôi ở cấp 1 , Nghĩa ở 128 Hàng Trống và Quang ở Phủ Doãn cùng luyện thi học sinh giỏi toán ở tiểu khu. Về sau cả năm chúng tôi thành nhóm bạn thân thiết đến tận ngày nay dù người Nam kẻ Bắc, người Đông kẻ Tây. Sở dĩ tôi chưa vào Đội vì nhát. Khi lên cấp 2 chỉ còn một số đứa chưa vào Đội nhưng khi lên lớp mới nhưng đứa như thế cứ đeo bừa khăn quàng đỏ nghiễm nhiên thành Đội viên, nhưng tôi không thể làm như thế vì cảm thấy thế là lừa dối. Năm lớp 7 tôi có một sự kiện lớn khi được làm đại diện cho trường đi thi học sinh giỏi Toán sau một bài kiểm tra cấp trường. Sau đó tôi được tham gia lớp luyện thi tổ chức ở một phòng nhỏ đầu phố Hàng Trống. Các bạn cùng học đến từ nhiều trường khác nhau trong khu Hoàn Kiếm. Đến kỳ thi vào đội tuyển của khu để đi thi thành phố thì tôi trượt thẳng cẳng, trong bài thi tôi giải được mỗi bài hình. Sau khi thành số 1 toán của trường bố đã trêu tôi: thằng chột làm vua xứ mù, ha ha ha… quả là không sai tý nào. Tự tôi cũng đã thấy trước kết quả khi luyện thi: các bạn toàn thảo luận về những bài toán gì gì mà tôi không hề có khái niệm nào, các bạn toàn từ các lớp chuyên toán Trưng Vương Trưng Nhị thì tôi tuổi gì mà theo được các bạn ý. Nhưng bài giải duy nhất của tôi lại mang về một giải khuyến khích: khi thầy trả bài, cách giải bài hình học của tôi là duy nhất và được thầy đánh giá hay nhất. Thầm tự hào đến mức nhớ như in bài toán này: Qua hai điểm cho trước, chỉ dùng com pa vẽ điểm thứ ba thằng hàng. Từ lớp 6 tôi đã tự thấy mình có sở trường về môn hình học, đặc biệt với dạng tìm quỹ tích là dạng đa số các bạn ngại, khi học đại học lại tình cờ được phân vào ngành công trình.

Cánh cửa cho ước mơ âm nhạc không đóng kín mãi với tôi. Khi lên lớp chín(/10), bố thường tiếp anh Hải đến chơi, hai người thù tạc đủ chuyện rồi anh hát, hát hay lắm. Sau bố giới thiệu anh là giảng viên nhạc ở trường(ĐH Sư phạm Ngoại ngữ). Bỗng một hôm anh hỏi tôi: anh thấy em hay nghe nhạc, em có thích học guitar không anh dạy? Vâng có ạ! Trúng tim đen nhé, đúng là cơn gió lành đã thổi anh đến đây. Mãi về sau tôi mới biết anh ngang tầm tuổi với một số đồng nghiệp trẻ của bố mà chúng tôi vẫn gọi là chú, chắc vì anh thường xưng em–thầy với bố nên xưng anh–em với tôi. Anh cho tôi mượn một cây guitar tuyệt đẹp với vân gỗ óng ảnh dưới lớp véc ni sáng loáng. Trên tem bên trong đàn ghi là sản xuất tại Ý và có dòng chứ in thêm là quà tặng của UNICEF, hay UNESCO tôi không nhớ. Hai anh em ra cửa hàng sách ngoại văn ở Tràng tiền mua được cuốn giáo trình guitar của Matteo Carcassi, sách của Liên Xô xuất bản rất đẹp. Hằng tuần tôi đến nhà anh trên gác hai ở phố Bát Đàn để học. Học đàn ở phố Bát Đàn nghe hay nhỉ! Nhưng đàn trong tên phố không phải là nhạc cụ mà là đồ đàn, là đồ gốm. Anh đang học sáng tác ở Nhạc viện Hà Nội nên chủ yếu chơi piano. Khi hướng dẫn tôi chơi guitar anh hướng dẫn bằng lời và dựa trên các hướng dẫn trong sách. Sau khi học guitar tôi lại được ngồi nghe anh chơi piano. Một vài lần tôi phát hiện ra một phím đàn sai cao độ và hỏi anh, anh kiểm tra kỹ phím đó rồi rất ngạc nhiên khi thấy các phím đó sai thật. Trong mấy bản anh hay chơi tôi thích nhất hai bản của Tchaikovsky: Khúc hát Napoli và Khúc hát Pháp Cổ. Thích quá nên tôi đã mò đánh trên bản nhạc của anh, tất nhiên chỉ bè trên với khóa Sol thôi. Thích bản Khúc hát Napoli hơn nhưng bản này nhanh quá nên tôi chỉ tập trung mò bản Khúc hát Pháp Cổ rồi cũng chơi được hết giai điệu kèm vài nốt trầm. Hóa ra đó là bản chuyển soạn đầu tay của tôi. Một hôm anh hỏi tôi học toán thế nào và tỏ ra vui khi biết tôi học toán ổn. Một hôm đến chơi với bố, anh nói: Thằng bé nó có năng khiếu thầy ạ, mà lại học toán khá, bọn học sinh trong trường nhạc ít đứa như thế. Một hôm khi lên lớp, anh bảo: Hay em thi vào trường nhạc đi, mà thôi, bọn trong đó đánh gấu lắm. Khi đó tôi mới học được vài bài A B C thôi. Anh hướng dẫn tôi có lẽ được khoảng bốn năm tháng thì cho tôi nghỉ để anh tập trung ôn thi lên đại học. Rồi tôi lớn lên đi học xa và thầy trò không còn giữ liên hệ.

Hơn mười năm trước tôi bỗng nhớ đến thầy và tìm đến căn nhà xưa ở phố Bát Đàn. Nhưng đã bao vận đổi sao dời người cũ không còn ở đó và không để lại dấu vết gì. Tìm trên mạng từ khóa “ Hứa Đông Hải” ra website của Viện nghiên cứu Văn hóa dân gian ở phố Hào Nam có tên thầy trong danh sách nhân viên của Viện và lại ghi chú “đã mất”. Thật bàng hoàng, tôi đã ghi lại địa chỉ để đến Viện hỏi. Chưa kịp tìm đến đó thì bố tôi mất và việc đại tang đã làm việc tìm lại thầy cũ rơi vào quên lãng. Phải năm bảy năm sau, tình cờ thấy một người bạn khoe trên Phây rằng cô tìm được người thân cho một người và tôi đã nhớ lại vụ tìm thầy cũ của mình chưa hoàn thành rồi nhờ cô. Cô đã tìm ra ngay đúng Viện nghiên cứu VHDG mà tôi đã tìm đúng nhưng bỏ dở. Đúng là thầy tôi đã qua đời nhiều năm trước, cầu mong thầy yên nghỉ! Thầy có thể hài lòng về em dù không được học ở Nhạc viện nhưng đã từng thành giảng viên ở đó rồi. Rồi bạn tìm cho tôi số điện thoại của chị Yến vợ thầy. Qua chị Yến tôi mới biết thầy có bút danh là Tô Đông Hải. Thầy không những đã thành công về sáng tác với những ca khúc thiếu nhi như Dàn nhạc trong vườn, Chú bộ đội và cơn mưa, Mưa bóng mây, mà thầy còn là nhà thơ, nhà báo có giải báo chí, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian có tên tuổi với các công trình nghiên cứu được giải của Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam cùng 5-6 đầu sách in riêng. Năm 2019, chị Yến hỏi tôi có cách nào để tìm lại luận án tiến sĩ của thầy để xin hoặc chụp lại làm kỷ niệm. Tôi vào Học viện Âm nhạc Quốc gia hỏi thăm thì được chỉ đến Pgs Nguyễn Thị Nhung hướng dẫn các tiến sĩ khoảng thời gian đó. Năm 1990 Pgs Nhung và Pgs Vũ Hướng là hai đại diện của Ban giám đốc Nhạc viện đã đồng ý nhận tôi và bạn Nguyễn Quốc Vương vào giảng dạy ở bộ môn guitar của Nhạc viện sau khi nghe chúng tôi biểu diễn báo cáo. Gọi điện hỏi bà thì được biết thầy tôi bảo vệ ở Viện của thầy. Qua điện thoại bà Nhung nhận ra tôi ngay sau khi giới thiệu “À cô nhớ rồi, Cường Vương…”. Đầu năm nay qua thăm bà sau khi biết bà ở gần nhà tôi thì bà chẳng còn nhớ tôi nữa, ngoài 90 còn gì, người ta nói người ngoài 70 tính từng ngày từng bữa cơ mà, 6 năm là quá dài với các cụ. Kính chúc bà dẻo dai và an lành!

Sau khi nghỉ học với thầy Hải tôi không phải nghỉ học lâu. Tết năm đó, nhóm bạn cùng lớp đến nhà nhau chơi. Trong nhóm có hai thằng nữa cũng tên là Cường: anh Cường(vì hơn bọn lứa tôi 2 tuổi) và Cường “sĩ”(Cầu mong bạn yên nghỉ!). Thấy trong nhà có cây guitar, Cường “sĩ” bảo: học guitar phải học thầy Vũ Bảo Lâm với tao. Tạ ơn Trời, tôi lại nhận thêm một cơn gió lành nữa. Rồi tôi theo nó đến học thầy Vũ Bảo Lâm ở phố Hai bà Trưng. Thầy Bảo Lâm là một thành viên của nhóm Thất cầm huyền thoại của guitar Hà Nội cùng các nghệ sĩ Đỗ Trường Giang, Đặng Quang Khôi, Phạm Văn Phúc, Nguyễn Hải Thoại, Nguyễn Quang Tôn và Nguyễn Tỵ. Họ là những nghệ sĩ guitar thực sự cổ điển đầu tiên của Hà Nội, tất nhiên mãi về sau tôi mới biết chuyện này. Ở lớp thầy Bảo Lâm, tôi bắt đầu được học guitar cổ điển bài bản hơn. Cũng như mọi học sinh guitar Việt Nam, tôi bắt đầu bằng các tiểu phẩm của F. Carulli có xen kẽ một số làn điệu Việt Nam như Xòe Hoa, Inh Lả Ơi và đặc biệt là bản Fandanguillo của danh cầm Tạ Tấn, thầy của thầy Bảo Lâm cũng như một số thành viên Thất Cầm. Bản Fandanguillo là một sáng tác theo vũ điệu nổi tiếng nhất của âm nhạc dân gian Tây Ban Nha-Malaguena, là một sáng tác hiếm hoi, thậm chí duy nhất, theo thể loại này của một nhạc sĩ guitar Việt nam còn phổ biến đến ngày nay. Thời đó chưa có máy photocopy nên học sinh phải chép bài của thầy và việc đó chiếm phần lớn thời gian của một buổi học. Tất nhiên chép bài sau khi đã trả bài, vừa chép bài vừa nghe bạn khác trả bài, đó cũng là một lợi ích. Một buổi nọ, khi đang chép bài thì tôi dừng lại dỏng tai nghe vì một bạn học chơi “dữ” quá. Đó là một anh lớn tuổi hơn tôi và anh chơi một bản chạy tít mù khiến tôi lặng cả người rồi lại ước ao như ngày nào ước ao sau khi nghe Cường “híp” kéo Pô-lô-ne. Thật tình cờ anh cũng tên là Cường. Về sau, anh Cường thành học trò thành đạt nhất của thầy Vũ Bảo Lâm về mặt vị trí công việc khi trở thành Trưởng bộ môn guitar của Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam. Anh là Vũ Việt Cường có biệt danh là Cường “xoăn” do mái tóc đẹp. Như vậy trong cuộc sống âm nhạc của tôi có đến ba Cường khác có liên quan. Thầy Bảo Lâm còn có những học trò thành danh khác như Lê Thu, Cao Sỹ Anh Tùng.

Mỗi sáng Chủ nhật tôi trả bài cũ nhận bài mới, đến thứ Ba hoặc muộn nhất là thứ Tư tôi đã thuộc làu làu bài mới và mong Chủ nhật sau đến cho nhanh để lại được giao bài mới. Gần đây có một dịp cùng ôn lại kỷ niệm xưa cùng thầy và vài người quen, thầy đã nhắc lại ấn tượng về tôi khi đó “Nó toàn trả bài thuộc lòng” như một trường hợp không phải phổ biến. Về kỹ thuật và các chỉ dẫn bằng thuật ngữ tiếng nước ngoài thì tôi cần thầy hướng dẫn, còn tự vỡ hoàn toàn các bài mới. Tôi tự hiểu được những nguyên tắc các bản nhạc nhiều bè, còn về tiết tấu tôi quy các nốt theo trường độ nhỏ nhất để xác định tiết tấu và chưa bị sai lần nào. Tuy nhiên cũng có cái sai đến khi thành chuyên nghiệp mới nhận ra, đó là khi đó đập nhịp 6/8 thành 2 phách, tức là đập nhịp tắt theo hai phách mạnh. Tuy nhiên là sai về lý thuyết còn nghe vẫn đúng bản nhạc .
Tôi được học một số bản phổ biến nhất của Carulli, Carcassi và Sor. Rồi đến một buổi học tôi đã ngừng thở trong giây lát khi thầy đưa một bản chép tay với tiêu đề “Polonaise” – niềm mơ ước thuở nhỏ của tôi. Về nhà tôi cày ngấu nghiến vài hôm đã thuộc làu. Đó là năm lớp 10 nên tôi cũng không được ôm đàn cả ngày dù không đi học thêm mấy. Mấy tháng cuối học kỳ 2 lớp 10, theo gợi ý của bố tôi có đi học thêm hóa và lý với hai thầy là bạn bố, chắc bố tin môn toán của tôi vững hơn hóa lý. Đó là một lớp khoảng hơn chục bạn học ở nhà một bạn ở Cửa Đông. Dù phải tập trung ôn thì tốt nghiệp và đại học nhưng sau hơn một năm học thầy Bảo Lâm tôi đã chinh phục những tác phẩm hot nhất của nhạc mục guitar đương thời: Asturias, Capricio Arabe, Los Sitios De Zaragosa, Bài ca hy vọng, Các biến khúc trên chủ đề Cây Sáo Thần(bản làm tôi ước ao khi nghe anh Cường “xoăn”chơi kể trên). Riêng Los Sitios trước khi được học tôi đã tự mò được đoạn chủ đề theo đĩa mượn của bác tôi. Một lần đang ngồi chơi đoạn tự mò, một chị sinh viên đến gặp bố nghe thấy khen: em chơi giỏi quá thầy ạ. Ôi, câu khen nghe lỏm làm thằng bé phổng rách cả mũi.

Ở lớp guitar của thầy Bảo Lâm tôi tình cờ quen Tuấn Anh ở số 5 Tràng Thi. Tôi đã có lần đầu tiên dự khán một buổi hòa nhạc guitar cổ điển chính là nhờ Tuấn Anh rủ. Đó là buổi biểu diển của thầy chúng tôi cùng các nghệ sĩ trong nhóm Thất Cầm tại rạp Công Nhân, buổi hòa nhạc tuyệt vời lại làm tôi thêm ước ao. Và Tuấn Anh còn là thủ phạm một vụ trêu chọc một người đáng kính làm tôi ân hận mãi. Số là mấy năm sau, tay đàn của tôi đã tiến khá xa sau khi học với hai thầy khác và chơi đến kiệt tác La Catedral làm Tuấn Anh mê lắm. Lần nào gặp nhau nó cũng nài tôi chơi ít nhất một lần mới chịu. Một hôm nó rủ: qua nhà ông chú tôi tý rồi ông oánh bài này tặng ông ý được không? Được thôi. Nó dẫn tôi đến phố Cầu Gỗ vào một nhà sâu hun hút rồi lên tầng 2 gặp một ông chú trông hơi quen quen. Tuấn Anh bảo: cháu có thằng bạn muốn xin học chú ạ? Được thôi, anh học từ đầu hay đã biết? Tuấn Anh đỡ lời: nó biết ít rồi ạ. Vậy cậu đánh thử một bài đi. Ông đưa một cây đàn cho tôi ,Tuấn Anh hất đầu ý bảo tôi chơi như đã hứa. Khi nốt đàn cuối cùng kết thúc, ông chú bảo: cậu chơi được như thế thì tôi chả có gì dạy cậu đâu. Vâng ạ, chúng cháu cảm ơn chú ạ! Rồi chúng tôi ra về, ra đến ngoài phố thằng quỷ đó cười hí hí khoái chí lắm: ông ý là thầy Quang Tôn đấy (cầu mong ông yên nghỉ!). Tôi vừa tức vừa ân hận nhưng cũng pha tí hãnh diện nên quên ngay chuyện đó. Mãi về sau khi thường đến chú Tôn chơi tôi đã kể lại chuyện này và xin lỗi chú thì chú gạt đi: có phải lỗi của cậu đâu.
Đúng lúc viết đến đây thì tối hôm qua 5/11 tôi có dự concert của các đồng nghiệp trẻ còn đang là sinh viên. Trong đó có cô bé Tuệ Như 15 tuổi mới học đàn được một năm đã chơi Các biến khúc trên chủ đề Handel của M Giuliani, một tác phẩm trình độ đại học. Cô bé làm tôi bồi nhớ lại bản thân mình xưa cũng mới học một năm mà đạt được trình độ tương đương, chỉ khác là mình lủi thủi tập một mình không có bạn đàn để tận hưởng cảm xúc tuyệt vời khi chơi hòa tấu. Có một dịp gặp được một bạn nhạc thì lại là một gã lừa. Chị Xuyến sinh viên của bố giới thiệu một người bạn chị cũng tên là Cường ở phố Hàng Bông thích đàn guitar. Tôi có chơi cho anh Cường nghe và anh rất ngưỡng mộ. Một hôm tôi đang ngồi đàn chơi với Vinh, thằng bạn thân ở gần nhà, thì anh Cường đến chơi cùng một người bạn cũng mê guitar. Người bạn mới cũng rất khen ngợi tôi sau khi nghe tôi đàn. Sau khi đàn đạo cả bốn anh em ra hiệu sách ngoại văn ngó nghiêng quầy sách và đĩa nhạc, thời đó là đĩa nhựa của các hãng đĩa từ các nước XHCN. Chúng tôi đều quan tâm đến một đĩa của Segovia và bạn anh Cường đề nghị chị bán hàng cho nghe thử. Vừa nghe nhạc bạn anh Cường vừa xuýt xoa khen hay, đặc biệt đến một câu nhạc anh chống hai tay lên mặt quầy vừa so vai vừa xuýt xoa vẻ biểu cảm cao độ của một người sành nhạc. Ít hôm sau, anh Cường đến và thông báo vẻ cực kỳ nghiêm trọng: thằng chó đó lừa bọn anh em ạ, một cái áo len của chị A(em gái anh) và 2 vé máy bay(thời cuối thập kỷ 1970 hai món đó là một khoản lớn), anh mà bắt được nó thì sẽ bẻ hết chân tay nó. Tôi cũng mất cuốn vở chép nắn nót những tác phẩm quan trong nhất vì bị thằng chó đó mượn.
7/11/2025
Hai phần đầu: https://bagiaiguitarist.blogspot.com/2025/10/con-uong-am-nhac-cua-toi-hoi-ky-am-nhac.html
Trịnh Cường guitarist

07/11/2025
BIỆT DANH BÍ ẨN CỦA MỘT CHƯƠNG NHẠC"The Harmonious Blacksmith"(người thợ rèn du dương) là tên gọi phổ biến của chương kế...
06/11/2025

BIỆT DANH BÍ ẨN CỦA MỘT CHƯƠNG NHẠC
"The Harmonious Blacksmith"(người thợ rèn du dương) là tên gọi phổ biến của chương kết “Air and Variations”(Giai điệu và các biến khúc) trong suite cho harpsichord số 5 giọng Mi trưởng, HWV 430, của nhà soạn nhạc vĩ đại George Frideric Handel. Đây là một trong những tác phẩm cho harpsichord đầu tiên của Handel được xuất bản vào năm 1720. Tác phẩm gồm có bốn chương. Chương kết gồm có năm doubles - biến khúc theo phong cách chia nhỏ kiểu Anh, tức là trong mỗi biến khúc, trường độ các nốt giai điệu được chia nhỏ dần để tăng dần mức độ chuyển động. Chủ đề Air này được nhiều nhà soạn nhạc khác sử dụng để sáng tác các biến khúc trên đó như Mauro Giuliani viết cho guitar, hoặc như L. Spohr, F. Poulenc, P. Grainger sử dụng làm chủ đề cho sáng tác của mình.
Nhưng biệt danh “The Harmonious Blacksmith” lại không phải do Handel đặt mà chỉ xuất hiện vào đầu thế kỷ XIX và chưa xác định được nguồn gốc. Tuy nhiên đã có những nỗ lực lý giải nguồn gốc của nó.
Có câu chuyện kể rằng khi đang làm việc cho James Brydges(sau sẽ là Công tước Chandos) tại Cannons trong khoảng thời gian 1717-1718, có lần Handel đã trú mưa trong một lò rèn. Ở đó, ông đã có cảm hứng sáng tác một giai điệu khi nghe tiếng búa đập xuống đe. Một dị bản khác của câu chuyện này là ông đã nghe người thợ rèn hát một giai điệu mà sau sẽ thành chủ đề của Air. Tuy nhiên không có căn cứ nào xác thực cho câu chuyện này. Nó được đề cập trong một ấn phẩm gọi là "Tạp chí Âm nhạc" vào năm 1835. Sau đó, Henry Wylde và Richard Clark đã tìm thấy một cái đe cũ trong một lò rèn gần Whitchurch, Edgware, và bịa ra một câu chuyện để nhận dạng William Powell là người thợ rèn hư cấu đó, mặc dù trên thực tế, Powell là thư ký giáo xứ. Họ đã quyên góp để dựng một đài tưởng niệm bằng gỗ cho ông. Năm 1868, người dân Whitchurch tiếp tục quyên góp để xây dựng một bia mộ cầu kỳ vẫn còn đến ngày nay. Nội dung bia mộ ghi: "Tưởng nhớ William Powell, Người Thợ Rèn Du dương, được chôn cất ngày 27 tháng 2 năm 1780, hưởng dương 78 tuổi. Ông là Thư ký Giáo xứ trong suốt thời gian Handel bất tử làm nghệ sĩ organ của nhà thờ này. Được dựng bằng tiền quyên góp, tháng 5 năm 1868." Tuy nhiên, Handel lại sáng tác các suite cho harpsichord và được xuất bản năm 1720 trước khi ông sống ở Cannons mà khi ông đang ở Adlington Hall tại Cheshire, hoặc thậm chí còn sớm hơn nữa.
Truyền thuyết khác
William Lintern là một thợ rèn học việc đến từ Bath rồi sau chuyển sang làm âm nhạc, và ông chính là Người Thợ rèn Du dương. Tác phẩm này đã được gọi theo tên ông, có lẽ bởi vì ông đã xuất bản nó dưới tên đó vì những lý do được nêu trong đoạn sau: Vài tháng sau khi ấn phẩm của Clark ra đời, tác giả đã gặp ông J. W. Windsor ở Bath, một người rất ngưỡng mộ Handel và là người nắm rõ tất cả các tác phẩm đã xuất bản của nhà soạn nhạc. Windsor nói với tác giả rằng câu chuyện về người Thợ rèn ở Edgware chỉ là sự bịa đặt, và người xuất bản đầu tiên bản nhạc của Handel dưới tên Người Thợ rèn Du dương là một người bán nhạc ở Bath tên là Lintern. Windsor quen biết Lintern vì thường mua nhạc ở cửa hàng của ông ta và ông đã hỏi Lintern về lý do của cái tên mới này. Lintern đã giải thích rằng đó là một biệt danh do mọi người đặt cho chính ông, bởi vì ông từng làm thợ rèn trước khi chuyển sang làm âm nhạc, và đó là tác phẩm mà mọi người liên tục yêu cầu ông chơi. Ông đã in chương nhạc đó dưới dạng một ấn phẩm riêng vì ông có thể bán đủ số lượng để kiếm lời.
Trích dẫn lời của William Chappell (1809–1888) năm 1889, ấn bản đầu tiên của Từ điển Âm nhạc Grove.
Chappell là một nhà sử học âm nhạc đáng kính và câu chuyện này có lẽ là sự thật. Tuy nhiên, không có bản sao ấn phẩm nào của Lintern tại Viện bảo tàng Anh. Ông W. C. Smith, người làm việc tại bảo tàng và là một chuyên gia về Handel rất có uy tín, nói rằng bản sao sớm nhất mà ông có thể tìm thấy dưới tên Người Thợ rèn Du dương (tính đến năm 1940) là bản được xuất bản bởi British Harmonic Institution, được chuyển soạn cho song tấu piano-forte, và giấy của bản in này là giấy có in chìm số '1819'.
6/11/2025
Trịnh Cường guitarist
Lớp Guitar Thành Công cho mọi lứa tuổi

Provided to YouTube by Universal Music GroupGiuliani: Variations on a Theme of Handel, Op. 107 · Pepe RomeroThe Art of Pepe Romero℗ 1978 Universal Internatio...

HÁT TRÊN NƯỚC CỦA FRANZ SCHUBERT Phiên bản guitar solo Những kiệt tác luôn làm tôi muốn chơi bằng guitar, có bản chuyển ...
05/11/2025

HÁT TRÊN NƯỚC CỦA FRANZ SCHUBERT
Phiên bản guitar solo
Những kiệt tác luôn làm tôi muốn chơi bằng guitar, có bản chuyển soạn thành có bản không. Hát Trên Nước tôi định soạn từ lâu rồi nhưng bỏ quên và gần đây mới nhớ ra để hoàn thành.

Từ năm 1820 đến năm 1823, Schubert đã đạt được sự trưởng thành trong âm nhạc của mình. Hai trong số những vở operetta và một số ca khúc nghệ thuật của anh đã được trình diễn trước công chúng và các nhóm tứ ca chuyên nghiệp và nghiệp dư đã hát những ca khúc của anh cho giọng nam. Một số tác phẩm của anh bắt đầu được xuất bản và biểu diễn trong các buổi hòa nhạc riêng. Vào tháng 9 năm 1821 Schubert và Schober rời Vienna về nông thôn với ý định viết Alfonso und Estrella, vở opera lớn duy nhất của mình. Ngay sau khi trở về thành phố, anh gặp Edward Bauernfeld, người đã giới thiệu cho anh những tác phẩm của William Shakespeare (1564–1616). Vào mùa thu năm 1822, sau khi hoàn thành Mass La giáng trưởng, Schubert bắt đầu thực hiện giao hưởng Si thứ, sau được gọi là Bản Giao hưởng chưa hoàn thành. Ba chương đã được phác thảo; hai đã được hoàn thành. Người ta không biết lý do tác phẩm bị bỏ dở. Sức khỏe của Schubert bắt đầu suy yếu. Vào tháng 5, anh đã phải đi điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Vienna. Rosamunde, một vở kịch mà Schubert đã viết nhạc nền, đến nay chỉ có phần overture và phần nhạc ballet, đã thất bại vào năm 1823 và kết thúc những nỗ lực kéo dài để sáng được một vở opera thành công. Nhưng trong thời gian này anh đã có một kiệt tác trong số các ca khúc nghệ thuật là Auf dem Wasser zu singen(Hát trên nước), D. 774. Ca khúc viết dựa trên bài thơ cùng tên của Friedrich Leopold zu Stolberg-Stolberg, một nhà thơ trong phong trào Xung kích và bão táp của giới nghệ sĩ Đức khi đó.
Như nhiều ca khúc khác của Schubert, bè piano tuyệt vời đến mức có thể chơi như một bản độc tấu. Trong ca khúc này, âm hình chủ đạo của bè piano là từng cặp 2 nốt một lên xuống liên tục như sóng nước lung linh êm ái trong hoàng hôn. Trên sóng nước đó ca sĩ hát chia sẻ những tâm sự, giai điệu cũng lên xuống theo bè đệm nhưng ít hơn. Đặc biệt trong mỗi đoạn luôn thay đổi sắc thái sáng tối đan xen bằng thủ pháp đơn giản là trưởng thứ đan xen. Giọng của ca khúc là thứ nhưng câu cuối mỗi đoạn chuyển sang trưởng tạo cảm giác vầng dương bừng lên trong quang cảnh âm u của rừng cây buổi hoàng hôn.

Ca từ lược dịch từ bản tiếng Anh của Richard Wigmore
Trong ánh lung linh sóng nước phản chiếu
Như con thiên nga thuyền tôi bập bềnh lướt,
Trên sóng nước êm ái mê say.

Tâm hồn ta cùng lướt theo thuyền.
Vầng dương cũng dần buông
Cùng nhảy múa trên sóng quanh thuyền.

Từ những ngọn cây khu rừng phía tây
Ánh dương đỏ trìu mến vẫy chào
Dưới những nhánh cây khu rừng phía đông
Lau sậy thầm thì hẹn ước.

Tâm hồn hít hà niềm hân hoan của thiên đường,
Cùng sự yên bình trong rừng, dưới vầng dương rực đỏ.
Chao ôi, với đôi cánh đẫm sương
Thời gian tan biến trên sóng nước bập bềnh.

Ngày mai hãy để thời gian lại tan biến với đôi cánh ấy
Như chiều nay và mọi chiều xưa,
Đến một ngày, trên đôi cánh cao hơn, rực rỡ hơn,
Chính tôi sẽ biến mất khỏi dòng thời gian.

5/11/2025

Arranged and played by MC Trinh

Hôm nay là sinh nhật nhà soạn nhạc người Anh Nicholas Maw.  John Nicholas Maw (5/11/1935 – 19/5/2009) sinh ra tại Gr...
05/11/2025

Hôm nay là sinh nhật nhà soạn nhạc người Anh Nicholas Maw. John Nicholas Maw (5/11/1935 – 19/5/2009) sinh ra tại Grantham, Lincolnshire, và học nhạc tại Học viện Âm nhạc Hoàng gia với nhạc sư Paul Steinitz và Lennox Berkeley. Sau đó, ông đến Paris theo học với danh sư Nadia Boulanger và Max Deutsch. Sau khi giảng dạy ở Đại học Yale, Cao đẳng Bard, Đại học Boston, Học viện Âm nhạc Hoàng gia, Đại học Cambridge và Đại học Exeter, từ năm 1998 đến năm 2008, Maw giảng dạy sáng tác tại Nhạc viện Peabody thuộc Đại học Johns Hopkins. Maw thành công nhất với tác phẩm Scenes and Arias (1962) viết cho ba giọng nữ và dàn nhạc, hai tác phẩm cho dàn nhạc Odyssey (1987) và The World in the Evening (1988), Violin concerto(1993) tác phẩm cho guitar Music of Memory (1989) https://youtu.be/je3mwkuJ2z8?si=NKTHHnHkSTynks1y .
Ngoài Music of Memory, ông còn có các sáng tác khác cho guitar:
Little Suite for Guitar (1984) cho guitar solo.
Six Interiors (1966) cho tenor và guitar.
Tango from Sophie's Choice (2004) cho guitar solo.
The Voice of Love, Eight Peter Porter songs (1966) cho mezzo-soprano và piano hoặc guitar .
5/11/2025
Trịnh Cường guitarist

TIẾT TẤU VÀ NHỊP ĐIỆUĐây là hai khái niệm  dễ bị nhầm lẫn với nhau, đặc biệt khi dịch từ rhythm của tiếng Anh Theo Từ đi...
04/11/2025

TIẾT TẤU VÀ NHỊP ĐIỆU
Đây là hai khái niệm dễ bị nhầm lẫn với nhau, đặc biệt khi dịch từ rhythm của tiếng Anh

Theo Từ điển Giải thích Thuật ngữ Âm nhạc(Nguyễn Bách)
Tiết tấu: là kiểu sắp đặt âm thanh theo thời gian khác nhau (nghĩa là nhanh chậm không giống nhau, nhưng theo một quy luật lặp lại nào đó). Trong âm nhạc có nhiều loại tiết tấu và kiểu kết hợp tiết tấu khác nhau. Tiết tấu được cụ thể hóa bởi “phách”. Những nhóm 2, 3, 4, 5, 6, 7, 9 phách, v.v., hình thành nên các “loại nhịp” khác nhau(nhịp chia 4:2/4,3/4… chia 8:3/8,6/8 …). Các loại nhịp này là cơ sở để các nhạc sĩ tạo nên các mẫu tiết tấu đa dạng. Ví dụ hành khúc có tiết tấu 3-1 như móc đơn chấm dôi - móc kép thường goi nôm na là móc kép giật. Tiết tấu trong tiếng Anh là rhythm.

Nhịp điệu: Trong khi giai điệu được tạo thành từ những âm thanh có cao độ khác nhau thì nhịp điệu là cấu trúc liên kết những âm thanh có trường độ thay đổi. Nhịp điệu phong phú hơn giai điệu vì với cùng một giai điệu chúng ta có thể viết thành nhiều nhịp điệu khác nhau. Trong khi nhịp chỉ là những phần bằng nhau trong một bản nhạc, còn nhịp điệu là cách sắp xếp những nốt cao-thấp, dài-ngắn, các dấu lặng, những phách mạnh-nhẹ. Trong ý nghĩa này nhịp điệu còn được gọi là tiết nhịp. Khi sắp xếp này theo một quy định mà tác giả muốn, lúc đó chúng ta có những mẫu điệu nhạc. Điệu nhạc có thể nằm trong một ô nhịp, cũng có thể kéo dài qua nhiều ô nhịp và lặp lại thành từng chu kỳ. Những điệu nhạc thường gặp như bolero, slow, tango, valse, v.v… Nhịp điệu trong tiếng Anh là meter.
4/11/2025
Trịnh Cường guitarist

Address

P. 502, Don Nguyen 2, Ngo 73 Nguyen Hong, Dong Da
Hanoi

Telephone

+84906251921

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Trịnh Cường guitarist posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share

Category