Thị Trường Tự Do Academy

Thị Trường Tự Do Academy THỊ TRƯỜNG TỰ DO ACADEMY - Nơi chia sẻ những kiến thức và nghiên cứu về thị trường & tự do
➤ Website: http://thitruongtudo.vn/

Ayn Rand – Nguồn gốc của chiến tranhNhiều người nói rằng vũ khí nguyên tử làm cho chiến tranh trở thành khủng khiếp đến ...
26/10/2025

Ayn Rand – Nguồn gốc của chiến tranh

Nhiều người nói rằng vũ khí nguyên tử làm cho chiến tranh trở thành khủng khiếp đến mức buộc người ta phải suy nghĩ. Nhưng tất cả các dân tộc trên thế giới đều cảm thấy hốt hoảng và bất lực trước viễn cảnh là chiến tranh có thể xảy ra.

Tuyệt đối đa số người dân – những người sẽ chết trên chiến trường hay chết đói hoặc chết trong những đống đổ nát – không muốn có chiến tranh. Không bao giờ muốn. Nhưng từ thế kỉ này đến thế kỉ khác chiến tranh vẫn thường xuyên nổ ra, giống như một vệt máu dài song hành với lịch sử loài người vậy.

Người ta sợ chiến tranh có thể xảy ra vì họ biết, một cách hữu thức hay vô thức, rằng họ không bao giờ có thể từ bỏ được cái học thuyết vốn là nguyên nhân của các cuộc chiến tranh trong quá khứ và có thể là nguyên nhân của những cuộc chiến tranh trong hiện tại và tương lai – đấy là học thuyết nói rằng sử dụng vũ lực (dùng vũ lực chống lại những người khác) để đạt mục đích là chấp nhận được hay là biện pháp thực tiễn hoặc cần thiết nữa và có thể được biện hộ nếu đấy là mục đích “tốt”. Học thuyết này cho rằng vũ lực là một thành tố hợp pháp hoặc không thể tránh được của cuộc sống của con người và xã hội loải người.

Hãy xem một trong những đặc điểm xấu xa nhất của thế giới hôm nay: sự chuẩn bị chiến tranh điên cuồng nhất đi liền với sự tuyên truyền cho hoà bình cũng điên cuồng không kém. Và cả hai hiện tượng này đều xuất phát từ cùng một nguồn gốc – từ cùng một triết lí chính trị. Mặc dù đã bị phá sản, cái triết lí chính trị gọi là chủ nghĩa quốc gia vẫn giữ thế thượng phong trong thời đại chúng ta.

Xin xem xét bản chất của cái gọi phong trào gọi là hoà bình hiện nay. Tự nhận là nhân bản và lo lắng cho sự tồn vong của nhân loại, phong trào này kêu gào chấm dứt chạy đua vũ trang hạt nhân, từ bỏ vũ khí như là phương tiện giải quyết bất đồng giữa các quốc gia và đưa chiến tranh ra ngoài vòng pháp luật. Nhưng những phong trào hoà bình này lại không chống lại các chế độ độc tài, còn quan điểm chính trị của các thành viên của nó thì muôn màu muôn vẻ, từ nhà nước phúc lợi đến chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản. Điều đó có nghĩa là họ chống lại việc dân tộc này sử dụng vũ lực chống lại dân tộc khác chứ không chống lại việc chính phủ của một nước sử dụng vụ lực nhằm chống lại các công dân của chính nó; điều đó cũng có nghĩa là họ chống lại việc sử dụng vũ lực nhằm chống lại kẻ thù có vũ trang, nhưng không chống lại việc sử dụng vũ lực nhằm chống lại những người tay không tấc sắt.

Các chế độ độc tài đã cướp bóc, phá hoại, gây ra nạn đói, tình cảnh dã man, trại lao động khổ sai, phòng tra tấn, giết người hàng loạt. Đấy chính là cái mà những người tự nhận là yêu hoà bình hiện nay sẵn sàng biện hộ hoặc chịu đựng – nhân danh tình yêu nhân loại.

Rõ ràng là cội nguồn tư tưởng của chủ nghĩa quốc gia (hay chủ nghĩa tập thể) là quan niệm bầy đàn của những người nguyên thuỷ, những kẻ không thể nhận thức được các quyền của cá nhân con người, những kẻ tin rằng bộ lạc là tối thượng, bộ lạc là kẻ nắm quyền toàn trí toàn năng, có quyền sinh quyền sát đối với các thành viên của nó và có thể hi sinh các thành viên bất cứ khi nào và cho bất cứ thứ gì mà nó cho là “tốt”. Không nhận thức được bất kì nguyên tắc xã hội nào, ngoại trừ nguyên tắc vũ lực bạo tàn, những người như thế tin rằng bộ lạc có thể ước muốn bất cứ thứ gì, miễn là có đủ sức và các bộ lạc khác chỉ là những con mồi, phải bị chinh phục, cướp bóc, bắt làm nô lệ hoặc xoá sổ hoàn toàn. Lịch sử của các dân tộc bán khai chính là một loạt những cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc và tàn sát lẫn nhau. Sự kiện là cái hệ tư tưởng nguyên thuỷ đó vẫn còn điều khiển các quốc gia được trang bị vũ khí hạt nhân phải làm cho bất cứ ai quan tâm tới sự sống còn của nhân loại để tâm suy nghĩ.

Chủ nghĩa quốc gia là bạo lực đã được định chế hoá và cuộc nội chiến không bao giờ dứt. Nó không cho người ta bất cứ lựa chọn nào ngoài việc chiến đấu để giành quyền lực – tức là cướp hay là bị cướp, giết hay là bị giết. Khi vũ lực bạo tàn trở thành thước đo duy nhất đối với các hành vi của xã hội và không kháng cự nghĩa là chết thì ngay một hèn kém nhất, ngay cả con vật, thậm chí con chuột cũng sẽ chiến đấu. Một dân tộc bị nô dịch thì không thể có hoà bình được.

Nội chiến, tức là chiến tranh huynh đệ tương tàn giữa những người không thể tìm được luật pháp và công lí bằng con đường hoà bình, chứ không phải chiến tranh giữa các dân tộc mới là những cuộc đụng độ đẫm máu nhất trong lịch sử. Lịch sử của các nhà nước chuyên chế thường bị gián đoạn bởi những cuộc nổi dậy đẫm máu – những vụ bùng nổ của nỗi tuyệt vọng mù quáng, không cần hệ tư tưởng. không cần cương lĩnh hay kế hoạch nào hết – những vụ bạo loạn thường bị đàn áp bằng những vụ hành quyết dã man những kẻ phản loạn.

Trong chế độ chuyên chế tuyệt đối, cuộc “chiến tranh lạnh” do chủ nghĩa quốc gia sinh ra thường diễn ra dưới hình thức những cuộc thanh trừng đẫm máu, đấy là khi băng đảng này lật được băng đảng kia, như đã từng xảy ra ở nước Đức quốc xã hay ở Liên Xô. Trong nền kinh tế hỗn hợp, cuộc chiến tranh này diễn ra dưới hình thức cuộc chiến đấu giữa các nhóm lợi ích, mỗi nhóm đều chiến đấu cho việc thông qua những đạo luật có lợi cho họ và tước đoạt lợi ích của các nhóm khác.

Đất nước càng chia thành các nhóm đối địch nhau và làm cho người nọ chống báng người kia thì tinh thần quốc gia trong hệ thống chính trị của nước đó càng cao. Khi quyền cá nhân không còn thì cũng không thể nào xác định ai được làm gì, không thể nào xác định được đòi hỏi, ước mong hay quyền lợi của một người nào đó là đúng hay không. Lúc đó sẽ phải trở về với tiêu chuẩn của bộ lạc: anh có thể ước muốn bất cứ thứ gì, miễn là băng nhóm của anh có đủ sức. Muốn sống sót trong một hệ thống như thế người ta buộc phải sợ hãi, căm thù và giết hại lẫn nhau; đấy là hệ thống của những mưu đồ, những âm mưu bí mật, những vụ thông đồng, bao che, phản bội và đảo chính đẫm máu. Hệ thống này không đưa người ta đến tình huynh đệ, sự an toàn, thái độ hợp tác và hoà bình.

Chủ nghĩa quốc gia – cả trên nguyên tắc lẫn thực tế – chỉ là quyền lực của băng đảng. Chế độ độc tài chính là băng đảng được quyền cướp đoạt thành quả lao động của các công dân của chính đất nước mình. Sau khi đã làm khánh kiệt nền kinh tế của đất nước, kẻ cầm quyền có tinh thần quốc gia sẽ tấn công các nước láng giềng. Đấy là cách duy nhất giúp hắn trì hoãn vụ sụp đổ và kéo dài quyền lực của chính hắn. Một đất nước giày xéo lên quyền của các công dân nước mình thì cũng sẽ không tôn trọng quyền của các nước khác. Những kẻ không tôn trọng quyền của cá nhân con người thì cũng sẽ không công nhận quyền của các quốc gia khác: quốc gia là do nhiều cá nhân mà thành.

Chủ nghĩa quốc gia cần chiến tranh, còn đất nước tự do thì không. Chủ nghĩa quốc gia sống nhờ cướp bóc, đất nước tự do sống nhờ sản xuất.

Tất cả những cuộc chiến tranh lớn trong lịch sử đều là do các nước có nền kinh tế bị kiểm soát chặt chẽ hơn phát động nhằm chống lại những nước tự do hơn. Thí dụ Chiến tranh Thế giới I do nước Đức quân chủ và nước Nga Sa hoàng phát động, hai nước này đã lôi kéo các đồng minh tự do hơn của mình vào cuộc chiến. Chiến tranh Thế giới II là do liên minh Xô-Đức và cuộc tấn công phối hợp của họ vào nước Ba Lan gây ra.

Chúng ta thấy rằng trong Chiến tranh Thế giới II cả Đức và Liên Xô đều chiếm và tháo dỡ các nhà máy tại các nước mà họ chiếm được và chở về nhà, trong khi nước có nền kinh tế hỗn hợp tự do nhất là Mĩ, tức là nước nửa tư bản chủ nghĩa, thì chuyển thiết bị trị giá hàng tỉ dollar, trong đó có cả những nhà máy hoàn chỉnh, cho các nước đồng minh. (Xin đọc: Keller W. East Minus West = Zero. N.Y.: G.P. Putnam’s Sons, 1962 để biết toàn bộ câu chuyện về sự cướp bóc của Liên Xô.)

Nước Đức và nước Nga cần chiến tranh, còn Mĩ thì không và cũng chẳng được lợi lộc gì. (Thực ra Mĩ đã thua về mặt kinh tế mặc dù đã giành thắng lợi trong cuộc chiến: chiến tranh đã để lại món nợ khổng lồ cho nhà nước, nợ lại càng gia tăng vì chính sách giúp đỡ các nước đồng minh và kẻ thù cũ mà chẳng mang lại lợi ích gì). Thế mà ngày hôm nay những người yêu chuộng hoà bình lại chống báng chủ nghĩa tư bản và ủng hộ chủ nghĩa quốc gia.

Chủ nghĩa tư bản laissez-faire là hệ thống xã hội duy nhất đặt căn bản trên nguyên tắc công nhận quyền cá nhân và vì vậy mà là hệ thống duy nhất loại bỏ vũ lực ra khỏi các mối quan hệ xã hội. Đây là hệ thống duy nhất chống lại chiến tranh, nếu xét về bản chất các nguyên tắc và quyền lợi căn bản của nó.

Tất cả những người được tự do sản xuất đều không có động cơ cướp bóc, chiến tranh chỉ làm cho họ thua thiệt chứ chẳng mang lại lợi lộc gì. Về mặt ý thức hệ, nguyên tắc tôn trọng quyền con người không cho phép người ta dùng vũ khí làm kế sinh nhai, cả ở trong cũng như ngoài nước. Vế mặt kinh tế, chiến tranh rất tốn kém: trong nền kinh tế tự do, nơi mà tài sản là sở hữu tư nhân, chiến phí sẽ phải lấy từ thu nhập của các công dân – không thể bơm ngân quĩ lên mà che đậy được – các công dân cũng không hi vọng chiến thắng sẽ bù đắp được thiệt hại về mặt tài chính (thuế khoá, sản xuất gián đoạn và tài sản bị phá huỷ). Như vậy là, quyền lợi kinh tế làm cho người công dân đứng về phía hoà bình.

Trong nền kinh tế nhà nước, nơi tài sản là “của công”, người công dân không có nhu cầu bảo vệ hoà bình về mặt kinh tế – anh ta chỉ là một giọt nước trong biển cả mà thôi – trong khi chiến tranh cho anh ta hi vọng (giả tạo) là sẽ được chủ cho thêm. Về mặt ý thức hệ, anh ta được dạy phải coi người là những con vật dùng để hiến tế, anh ta cũng là một trong số những người như thế: anh ta không hiểu được vì sao lại không được giết người nước ngoài trên chính cái bệ thờ nhân danh lợi ích của chính nhà nước.

Trong suốt chiều dài của lịch sử, nhà buôn và chiến binh vẫn là kẻ thù không đội trời chung với nhau. Thương mại không thể phát triển trên bãi chiến trường, nhà máy không thể sản xuất dưới trận mưa bom, lợi nhuận không thể sinh ra trên đống gạch vụn. Chủ nghĩa tư bản là xã hội của các thương nhân – vì vậy mà những kẻ sẵn sàng cướp bóc bao giờ cũng coi thương mại là “ích kỉ”, còn chinh phục là “cao thượng”.

Tất cả những người quan tâm đến hoà bình cần phải thấy rằng chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cho nhân loại giai đoạn hoà bình dài nhất trong lịch sử – một giai đoạn không có những cuộc chiến tranh bao trùm lên toàn bộ thế giới văn minh – đấy là giai đoạn từ sau những cuộc chiến tranh của Napoleon vào năm 1815 cho đến khi nổ ra Chiến tranh Thế giới I vào năm 1914.

Nên nhớ rằng hệ thống chính trị thế kỉ XIX không phải là chủ nghĩa tư bản thuần tuý mà là nền kinh tế hỗn hợp. Nhưng dù sao thành phần tự do cũng là yếu tố chủ đạo, chưa bao giờ loài người tiến gần đến “thời đại tư bản chủ nghĩa” đến như thế. Nhưng thành tố quốc gia chủ nghĩa vẫn tiếp tục phát triển trong suốt thế kỉ XIX và đến năm 1914, tức là khi nó làm thế giới nổ tung, phần lớn chính sách của các chính phủ đã mang màu sắc quốc gia là chính.

Nếu như trong lĩnh vực đối nội, tất cả những điều xấu xa do chủ nghĩa quốc gia và sự kiểm soát của chính phủ gây ra đều được gán cho chủ nghĩa tư bản và thị trường tự do thì trong lĩnh vực đối ngoại, tất cả những điều xấu xa do chính sách mang màu sắc quốc gia chủ nghĩa gây ra đều được gán cho chủ nghĩa tư bản. Những huyền thoại như là “chủ nghĩa đế quốc tư bản”, “trục lợi bằng chiến tranh” hay quan niệm cho rằng chủ nghĩa tư bản giành được thị trường bằng những cuộc chinh phục vũ trang là những thí dụ về sự thiển cận hoặc thiếu thận trọng của các nhà bình luận và các nhà sử học theo trường phái quốc gia chủ nghĩa.

[Lược khảo Ludwig von Mises] Chương I: Tại sao Mises lại là người quan trọng?Ludwig von Mises (1881-1973) là một trong n...
22/10/2025

[Lược khảo Ludwig von Mises] Chương I: Tại sao Mises lại là người quan trọng?
Ludwig von Mises (1881-1973) là một trong những nhà kinh tế học và chính trị học nổi bật nhất của thế kỉ XX. Ông là người đứng đầu, đồng thời là người củng cố và hệ thống hóa “Trường phái kinh tế học Áo”.

Mises cho rằng các nhà kinh tế học phải công nhận là mọi việc họ xử lí đều có nguồn gốc từ cách đánh giá và hành động của những con người khác nhau. Nếu các nhà kinh tế học cũng làm như các nhà khoa học tự nhiên, tức là tìm kiếm những mối liên kết có tính cơ học giữa các số liệu như cầu và cung gộp, thì đấy là việc làm vô ích vì chúng đơn thuần chỉ là những con số thống kê, không tính đến sự đa dạng của con người và những giá trị thúc đẩy hoạt động kinh tế của những con người đó. Hơn nữa, ông khẳng định rằng kinh tế học là khoa học diễn dịch: các nguyên tắc của nó có thể được suy ra từ chính sự tồn tại và bản chất của những mục đích và hành động của con người.

Mises còn biện luận rằng thị trường tự do không bị làm cho méo mó đi là hệ thống kinh tế duy nhất có thể hoạt động được. Chủ nghĩa xã hội [theo mô hình Liên Xô cũ] không thể thành công được vì không có giá cả, nó không thể tính toán đúng được giá thành của bất cứ hành động nào. Vì vậy mà ông coi tất cả những cố gắng của chính phủ nhằm “cải thiện” nền kinh tế thị trường đều chắc chắn những hành động phá hoại. Thực vậy, bằng việc bác bỏ một cách quyết liệt tất cả các loại thuế nhập khẩu và tài trợ, bãi bỏ việc kiểm soát giá cả và tiền lương, bãi bỏ hạn chế việc luân chuyển tự do người và hàng hóa và sự can thiệp của chính phủ vào đời sống cá nhân, Mises đã đặt ra tiêu chuẩn cho thị trường tự do cấp tiến, cho chính sách laissez-faire và chủ nghĩa tự do1.

Sau khi trở thành hội viên của Hiệp hội các nhà kinh tế học Mĩ năm 1969, Mises đã viết chín cuốn sách, đa số là những cuốn dày và rất có ảnh hưởng. Số lần in và tái bản ở nước ngoài đạt tới con số 46. Sau khi ông mất ở tuổi 93 vào năm 1972, số lần dịch, tái bản các tác phẩm và tuyển tập của ông còn nhiều hơn nữa2.

Đóng góp về mặt trí tuệ

Thật là một sự xúc phạm nếu ta muốn lựa ra một vài đóng góp có giá trị nhất từ di sản to lớn và đa dạng như thế. Nhưng dù sao sáu tiêu đề dưới đây có thể giúp chỉ rõ cả chiều rộng lẫn chiều sâu thành quả tri thức của ông.

Kinh tế học là nghiên cứu cá nhân

Trước hết, Mises phát triển và hệ thống hóa cách tiếp cận kinh tế học gọi là chủ nghĩa chủ quan. Nghĩa là, muốn hiểu kinh tế học một cách đúng đắn ta phải quay trở lại với hành động và động cơ của các cá nhân khi họ lựa chọn, họ bán và mua. Các nhà kinh tế học dòng chính bàn về ảnh hưởng của một biến số kinh tế vĩ mô (ví dụ như mức giá) lên một biến số khác (ví dụ như cầu gộp).

Nhưng Mises cho rằng như thế là bỏ qua ngay chính lực đẩy của toàn bộ hệ thống, tức là bỏ qua động cơ và hành động của những người có liên quan. Trên thực tế, không có cái gọi là “mức giá” - giá cả trên thị trường không dâng lên và hạ xuống đồng loạt như nước trong bồn tắm - làm tiêu chuẩn cho thị trường tự do. Ngược lại, có hàng triệu giá cả riêng biệt, tất cả đều lên xuống từng giây từng phút. Thật khó mà tưởng tượng được là ta có thể nắm bắt và ghi được tất cả các giá cả đó tại một thời điểm nào đó; thêm nữa, việc tính giá trị trung bình của chúng cũng chẳng giúp ích gì: ngay sau đó tất cả đều đã thay đổi. Tương tự, cầu là số lượng một loại hàng hóa cụ thể nào đó mà dân chúng quyết định mua - cộng gộp số táo, gạch, số người đi cắt tóc, pho mát, giày, các chuyến đi du lịch, máy khâu, kính, máy đếm tiền hay thuốc diệt cỏ mà dân chúng mua cũng chẳng cho ta số liệu thống kẻ hữu ích nào. Cầu về táo có thể ảnh hưởng đến giá táo, nhưng dường như không ảnh hưởng nhiều đến giá máy khâu chẳng hạn. Những món hàng cụ thể, đặc thù nào đó, có thể ảnh hưởng đến những món hàng khác, nhưng số liệu trung bình và cộng gộp của các nhà kinh tế học dòng chính chỉ là kết quả thống kê của quá trình chứ không phải là cái tạo ra quá trình đó.

Xin nhớ, Mises nói, cách chúng ta phản ứng với các sự thực như giá cả là không thể dự đoán được, bởi xét cho cùng, chúng ta cũng chỉ là con người mà thôi. Giá cả của một món hàng cụ thể thay đổi chắc chắn là có làm cho người ta cân nhắc khi chi tiêu; nhưng những người khác nhau - thậm chí vẫn những người ấy trong những thời điểm khác nhau - có thể sẽ phản ứng hoàn toàn khác nhau. Ví dụ, giá đường tăng có thể làm cho một số người cuống quýt mua vì sợ hết hàng, trong khi những người khác có thể coi đây là cơ hội giảm ăn đường để chuyển sang những món ăn có lợi cho sức khoẻ hơn.

Cho nên không thể có mối liên kết mang tính cơ học nào giữa các số liệu chung chung của các nhà kinh tế học dòng chính. Tất cả đều phụ thuộc vào sự lựa chọn khác nhau và không thể dự đoán được của các cá nhân, những người có những ưu tiên luôn thay đổi và khác nhau. Điểm xuất phát của đời sống kinh tế hoàn toàn mang tính chủ quan và cá nhân như thế gây khó khăn cho các nhà kinh tế học vĩ mô, việc tìm kiếm mối tương quan không thay đổi giữa các số liệu thống kê của họ chắc chắn là sai lầm. Và nó cũng tạo ra cho các nhà toán kinh tế, những người cố gắng đưa những con số này vào trong một mối tương quan đầy ảo tưởng, rất nhiều vấn đề không thể giải quyết được.

Mises không phải là người đầu tiên đưa ra cách tiếp cận như thế. Nguyên tắc này được Carl Menger trình bày trong tác phẩm Các nguyên lí của kinh tế học (Principles of Economics), xuất bản năm 1871, và đã trở thành điểm đặc trưng cốt lõi của Trường phái Áo do chính Menger sáng lập. Đóng góp chủ yếu của Mises là ông đã áp dụng tư tưởng này một cách triệt để và có hệ thống xuyên suốt tất cả các vấn đề kinh tế. Trong quá trình đó ông đã giải quyết được nhiều vấn đề mà trước đó người ta cho là không thể và đã chỉ ra những sai lầm căn bản của môn kinh tế học dòng chính.

Bản chất và hoạt động của đồng tiền

Ví dụ như cách Mises khám phá ra bản chất thực sự và vai trò của đồng tiền, tác nhân cực kì quan trọng đối với đời sống kinh tế. Các nhà kinh tế học dòng chính coi tiền chỉ là phương tiện trao đổi. Nó không phải là “hàng hóa kinh tế" mà người ta “cần” hay người ta “tiêu thụ” vì nhu cầu tự thân của nó (ngoại trừ những kẻ keo kiệt bẩm sinh). Vì vậy mà dường như nó chỉ là thước đo mang tính tiêu chuẩn của giá trị chứ không phải là một cái gì đó có giá trị, mà giá trị của nó lại phụ thuộc vào cách đánh giá của các cá nhân.

Nhưng Mises còn chỉ ra rằng chính các lực lượng của thị trường, tức là những lực lượng quyết định giá cả của tất cả các loại hàng hóa đồng thời cũng quyết định luôn “giá cả” của đồng tiền. Ví dụ, số tiền mà người ta cần - họ muốn giữ một số tiền nào đó trong ví, trong ngăn kéo hay tài khoản ngân hàng - phụ thuộc vào suy nghĩ của người ta về lợi ích mà đồng tiền có thể mang lại cho họ trong những vụ trao đổi trong tương lai. Nhưng cũng giống như nhiều hàng hóa khác, tiền là của hiếm người ta càng đánh giá cao lợi ích của nó trong việc trao đổi thì người ta càng cần nhiều tiền, và như thế giá trị của đồng tiền lại càng cao - đấy là cái mà ta gọi là sức mua của đồng tiền.

Việc phân tích một cách triệt để như thế là một thành tựu làm người ta phải ngạc nhiên, nhất là Mises viết về vấn đề này khi mới ngoài ba mươi tuổi. Ông chỉ ra rằng tiền không phải là một cái gì đó tách biệt và phi cá nhân, mà nó thể hiện cách đánh giá của con người; ông đã đưa đồng tiền vào lĩnh vực phân tích thị trường.

Chu kì kinh tế

Quan niệm thấu triệt như thế đã giúp Mises giải thích vấn đề đã từng làm các nhà kinh tế học lúng túng trong một thời gian dài, đấy là chu kì kinh tế - sự lên xuống của giá cả và thu nhập, sự thăng giáng theo chu kì trong hoạt động kinh tế đã được người ta ghi nhận trong những năm qua. Ông chỉ ra rằng tín dụng gia tăng một cách đột biến chính là nguyên nhân cơ bản của các chu kì - mà bao giờ cũng do ngân hàng trung ương và các nhà chính trị khởi xướng cả.

Ít nhất là từ thế kỉ XVIII, các nhà kinh tế học đã biết rằng vì lí do nào đó, khi lượng tiền mặt lưu hành tăng lên thì dân chúng sẽ cảm thấy giàu có hơn và chi tiêu nhiều hơn; nhưng tiêu thêm thì lại đẩy giá lên, chẳng ai được lợi lộc gì. Đấy là câu chuyện về lạm phát. Nhưng Mises và đồng nghiệp của ông là Friedrich Hayek thấy rằng vấn đề còn tồi tệ hơn thế. Sự bùng nổ chi tiêu làm cho các doanh nhân tin rằng nhu cầu đối với sản phẩm của họ thực sự gia tăng. Trong khi đó nới lỏng tín dụng làm cho lãi suất vốn vay giảm đi. Cho nên các doanh nghiệp vay nhiều hơn để đầu tư và sản xuất ra nhiều hơn.

Nhưng đấy là đầu tư sai lệch: đầu tư quá nhiều hoặc quá ít, vì nó dựa trên tín hiệu sai lầm về giá cả. Chẳng bao lâu sau, việc chi tiêu vung tay quá trán của xã hội sẽ dừng lại do giá cả leo thang. Và do lãi suất thấp, người ta không còn muốn tiết kiệm tiền để đầu tư cho những dự án đầu tư mới của doanh nghiệp nữa. Các doanh nhân lúc đó mới nhận ra rằng họ như đang nằm trên đe dưới búa: nhu cầu thì giảm nhưng lãi suất vốn vay lại tăng. Các dự án đầu tư mới của họ sẽ phải thanh lí, còn nguồn lực thực sự thì bị mất trắng. Giai đoạn bùng nổ kinh doanh sai lầm dẫn đến hậu quả là một giai đoạn sụp đổ đầy đau đớn. Theo Mises, phải hạn chế một cách nghiêm khắc việc in tiền - sử dụng vàng làm tiêu chuẩn - mới có thể ngăn chặn được các chu kì kinh tế và những thiệt hại mà chúng gây ra. Các nhà kinh tế học trước Mises đã từng nghĩ đến chu kì kinh tế. Nhưng Mises đã tạo nên một cú đột phá bằng cách liên kết những tư tưởng khác nhau - về tín dụng, về cơ cấu sản xuất và về lãi suất - vào một lí thuyết thống nhất về tăng trưởng nóng và suy thoái kinh tế. Đấy là một thành tựu đáng kinh ngạc nữa.

Xem toàn bộ dưới phần bình luận

[Đại cương về thuế] - Chương 3: Mục đích và vấn đề CHƯƠNG 3. MỤC ĐÍCH VÀ VẤN ĐỀMục đích chính của thuế là tạo thu ngân s...
18/10/2025

[Đại cương về thuế] - Chương 3: Mục đích và vấn đề

CHƯƠNG 3. MỤC ĐÍCH VÀ VẤN ĐỀ

Mục đích chính của thuế là tạo thu ngân sách để tài trợ cho các dịch vụ do chính phủ cung cấp, chẳng hạn như quốc phòng, hệ thống tư pháp, đường sá, giáo dục, phúc lợi, lương hưu và chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, thuế cũng được sử dụng cho những mục đích khác. Ví dụ, chính phủ có thể tìm cách điều tiết nền kinh tế và làm dịu các chu kỳ bùng nổ-suy thoái bằng cách tăng thuế trong thời kỳ bùng nổ và giảm thuế trong thời kỳ suy thoái. Hoặc chính phủ có thể hướng đến mục tiêu làm giảm tình trạng bất bình đẳng bằng cách tăng thuế đánh vào người giàu và giảm thuế đối với những đối tượng khác. Chính phủ cũng có thể hy vọng làm giảm nhu cầu đối với các sản phẩm có hại như rượu, thuốc lá và nhiên liệu có chì bằng cách đánh thuế những mặt hàng này.

Tuy nhiên, đôi khi, chính phủ sử dụng thuế cho những mục đích không được cao quý như thế. Ví dụ, thuế có thể được phân bổ cho hoặc không cho các nhóm người cụ thể nào đó (chẳng hạn như chủ sở hữu bất động sản) với mục đích là mang lại lợi ích cho những người ủng hộ đảng cầm quyền. Hoặc thuế có thể được sử dụng nhằm mang lại lợi ích cho các nhà sản xuất trong nước được nhà nước ưu ái bằng cách đánh thuế hàng nhập khẩu giá rẻ. Thậm chí vì thái độ đố kị, người ta có thể đánh thuế những nhóm người thành công, hoặc vì ác cảm mà người ta đánh thuế các dân tộc thiểu số hay các nhóm tôn giáo nào đó.

Tại sao lại phải đóng thuế?

Nhiệm vụ hàng đầu của tất cả các chính phủ - tìm cách gây quỹ từ thuế - là thiết lập hòa bình và an ninh: bảo vệ công dân khỏi những hành động thù địch từ ngoại quốc và tội phạm trong nước, làm cho cuộc sống và tự do trở thành khả thi (ví dụ, xem Leviathan của Thomas Hobbes, 1651). Có nghĩa là đứng lên chống lại đe dọa hoặc sử dụng vũ lực của các thế lực ngoại quốc, và bảo vệ công dân, không để họ bị đe dọa, lừa dối, gian lận hoặc bạo lực từ chính đồng bào của mình. Đây không phải là nhiệm vụ nhỏ bé, cũng không phải là nhiệm vụ dễ dàng, vì nó đòi hỏi phải xây dựng các thiết chế vững mạnh.

Ví dụ, giữ gìn hòa bình và an ninh ám chỉ phải có hệ thống quốc phòng, an ninh, cảnh sát và tư pháp. Có nghĩa là phải có lực lượng vũ trang có thể phản ứng một cách hiệu quả trước bất kỳ cuộc tấn công nào. Cũng có nghĩa là phải có lực lượng cảnh sát đủ sức ngăn chặn tội phạm, điều tra và truy tố khi hành động phạm tội xảy ra. Cũng có nghĩa là phải có hệ thống tòa án và hình phạt.

Thậm chí, có thể ám chỉ phải có hệ thống quản lý nhằm đảm bảo rằng tất cả các cơ quan này đều hoạt động vì lợi ích công cộng và không bị mua chuộc. Cũng cần phải có thiết chế, chẳng hạn như quốc hội, để quyết định những hành động nào bị coi là thù địch hoặc hình sự; biện pháp hoạt động của bộ máy quốc phòng, cảnh sát và tư pháp; và hình phạt phù hợp khi có hành động phạm tội. Và có lẽ cần có cơ quan công quyền để quản lý tất cả các chức năng này. Cần tài trợ để chính phủ thực hiện tất cả các chức năng cơ bản.

Kẻ ăn không (free rider1). Hầu hết mọi người đều thấy được lợi ích của việc có quốc phòng và an ninh: nhưng liệu tất cả mọi người có tự nguyện đóng góp cho việc đó hay không? Miễn là có đủ người đóng góp thuế để đảm bảo đất nước và cộng đồng được bảo vệ tốt, thì những người khác có thể được hưởng lợi ngay cả khi họ không đóng góp gì. Trong trường hợp đó, có thể khó có người đóng góp, vì biết rằng họ có thể “ăn theo” những người đóng góp.

Giải pháp thông thường cho vấn đề này là buộc mọi người phải trả tiền cho những dịch vụ này, bằng cách đe dọa trừng phạt nếu không tuân thủ. Nói cách khác, là đánh thuế các công dân.

Đây không phải là lựa chọn hoàn toàn dễ chịu. Sử dụng vũ lực nhằm chống lại người dân chính xác là việc mà chính phủ nên giảm đến mức tối đa. Một số người có thể phản đối mang tính đạo đức việc tiền thuế của họ bị chi cho vũ khí, hoặc để thực thi những luật lệ mà họ cho là bất công, hay chống lại việc cầm tù những người khác. Tuy vậy, đa số đồng ý rằng đánh thuế — ít nhất là để phục vụ cho các mục đích bảo vệ cơ bản như thế — là chính đáng.

Phạm vi dịch vụ?

Vấn đề gây tranh cãi gay gắt hơn là những thiết chế và dịch vụ nào là cần thiết đến mức không thể được tài trợ bằng những cách khác, phải dùng tiền thuế để trả.

Không có ranh giới rõ ràng. Ngay cả Adam Smith - mặc dù là người chỉ trích chính phủ cồng kềnh - vẫn tin rằng nhà nước có vai trò trong việc cung cấp cơ sở hạ tầng như cầu đường và bến cảng. Ông lập luận rằng những cơ sở hạ thầng là rất quan trọng đối với thương mại và làm giàu cho xã hội, mặc dù không bao giờ có thể mang lại lợi nhuận cho bất kỳ nhà cung cấp nào. Ông cho rằng nhà nước cũng có vai trò trong việc cung cấp trường học và giáo dục cho người lớn, vì những trường học và giáo dụ là rất quan trọng đối với văn hóa và sức khỏe tinh thần của người lao động và gia đình họ (Butler 2007).

Nhưng dường như không có giới hạn logic nào cho những việc làm như thế. Ví dụ, cơ sở hạ tầng có thể được mở rộng đến mức nhà nước cung cấp cả các phương tiện giao thông vận tải. Giáo dục có thể vượt ra ngoài lĩnh vực học tập phổ thông và nhà nước cung cấp cả các trường cao đẳng, chương trình học tập cho người lớn và các khóa học nghề. Chăm sóc sức khỏe có thể được dùng để biện minh cho việc nhà nước trả lương cho không chỉ bác sĩ và chi phí điều trị mà còn tài trợ cho cả các câu lạc bộ sức khỏe và thậm chí cả các lớp học khiêu vũ. Có thể nói, những hàng hóa và dịch vụ này đều có thể giúp làm gia tăng hiệu quả kinh tế của đất nước. Nhưng, những người chỉ trích đặt câu hỏi, liệu tất cả những hoạt động này có phải đều do chính phủ tài trợ, bằng tiền thuế hay không?

Hàng hoá công. Chính phủ cũng cung cấp các tiện ích, ví dụ như công viên khu vực và quốc gia, hải đăng và đèn đường, được phân loại là “hàng hóa công cộng” vì khó có thể ngăn cản bất kỳ cứ người nàp tiếp cận các lợi ích của những loại hàng hoá này, và nhiều người có thể hưởng lợi ích cùng một lúc. Ở đây, luận cứ được đưa ra là nếu không có thuế, thì không bao giờ có những hàng hoá này, vì người ta có thể “ăn theo” mà không phải trả tiền, và không có người sản xuất nào chịu đầu tư vào những lĩnh vực này.

Nhưng danh sách những sản phẩm gọi là “hàng hóa công cộng” dường như là bị phóng đại. Thông thường, những loại hàng hóa này thực sự có thể được thu phí, hoặc được tài trợ theo cách khác, mà không cần dùng tiền thuế. Ngay cả hải đăng – từ lâu được ca ngợi là loại hàng hóa công cộng thuần túy nhất vì bất kỳ tàu thuyền nào đi qua cũng tiếp cận được tín hiệu cảnh báo, thậm chí khi không phải trả tiền – cũng bắt nguồn từ việc các hoa tiêu đốt lửa để quảng cáo dịch vụ hàng hải của mình; trong một thời gian dài, hải đăng được tài trợ bằng phí thu trên các tàu thuyền ghé vào các cảng hải gần đó (xem Geloso 2019).

Các công viên quốc gia cũng có thể được tài trợ bằng cách bán quyền thăm dò khoáng sản, hoặc bằng phí đỗ xe và chỗ cắm trại, cũng như bán thực phẩm, đồ uống, đồ lưu niệm, cây cảnh và nhiều thứ khác2. Các trung tâm mua sắm cung cấp cho khách hàng những hàng hóa công cộng như đèn chiếu sáng, hệ thống sưởi ấm, an ninh, chỗ ngồi và nhà vệ sinh, không phải bằng cách tính phí trực tiếp cho từng mặt hàng mà bằng cách tính phí tiện ích “trọn gói” đối với các đơn vị thuê các gian hàng. Các nhóm tình nguyện giữ gìn vệ sinh công viên, bãi biển và các cơ sở khác. Và các công nghệ mới cho phép các nhà cung cấp loại trừ những người “ăn theo” - chẳng hạn như gây nhiễu tín hiệu truyền hình cáp và vệ tinh hoặc xác định và tính phí những người lái xe sử dụng những con đường đang bị tắc.

Tóm lại, mặc dù thuế có thể là biện pháp rõ ràng nhằm tài trợ cho nhiều hàng hóa và dịch vụ, và có thể là không thể nào tránh được, nhưng vẫn còn nhiều khả năng khác - thường bị bỏ qua - cần được xem xét.

Thuế để tài trợ cho đầu tư công

Như Adam Smith đã nhận xét, việc tài trợ cho một số khoản đầu tư về vật chất (ví dụ, cơ sở hạ tầng như thông tin liên lạc, giao thông, hoặc nhà cửa) hoặc đầu tư cho con người (ví dụ, giáo dục, kỹ năng, kiến thức và nghiên cứu và phát triển) có thể không manh lại lợi ích cho các cá nhân tư nhân – mặc dù thực tế là đầu tư vào những hạng mục đó sẽ mang lại lợi ích cho toàn thể cộng đồng. Do đó, dường như việc chính phủ đầu tư vào các dự án này là quan trọng, cần thiết và không thể tránh được.

Tuy nhiên, đầu tư do chính phủ chủ trì cũng có những vấn đề của nó. Những người chỉ trích cho rằng nó “lấn át” các khoản đầu tư tư nhân do chiếm dụng phần lớn vốn khả dụng, và đầu tư công, do các chính trị gia và công chức thúc đẩy, kém hiệu quả hơn so với đầu tư do các doanh nhân hướng vào giá trị thúc đẩy.

Đầu tư hay chi tiêu? Một vấn đề khác là tính linh hoạt của thuật ngữ “đầu tư công”. Các nhà kinh tế học coi đầu tư là việc sử dụng nguồn lực để mua hoặc tạo ra hàng hóa, từ đó sản xuất ra các hàng hóa hoặc dịch vụ khác nhanh hơn, tốt hơn hoặc rẻ hơn, hoặc tạo ra lợi nhuận tài chính. Do đó, khi các nhà sản xuất chi tiền mua máy móc, hoặc người dân đi học thêm buổi tối để có bằng cấp, đủ điều kiện cho những công việc được trả lương cao hơn, hoặc mua trái phiếu để có thu nhập khi nghỉ hưu, thì đó là đầu tư.

Trong khu vực công, việc chi tiền xây dựng một con đường cao tốc mới hoặc bến cảng giúp tăng tốc độ vận chuyển người và hàng hóa, hoặc lắp đặt máy quét hộ chiếu sân bay giúp xử lý thủ tục nhập cảnh nhanh hơn, hoặc xây dựng các khu khoa học mới cho trường học thì đấy là đầu tư.

Ngược lại, chi tiêu là việc sử dụng nguồn lực để thỏa mãn nhu cầu trong hiện tại, chứ không phải với hy vọng thỏa mãn trong tương lai. Và trên thực tế, phần lớn chi tiêu của chính phủ ở các quốc gia đã phát triển là chi tiêu “hàng ngày” cho các loại phúc lợi trong hiện tại như trợ cấp phúc lợi, lương hưu, y tế và chăm sóc xã hội, nhà ở, giao thông và thu gom rác thải. Mặc dù một số khoản chi tiêu này có thể mang lại lợi ích trong tương lai, nhưng tất cả đều chủ yếu mang lại lợi ích cho chúng ta ngay trong hiện tại. Các chính trị gia có thể gọi chúng là “đầu tư” vì điều đó nghe có vẻ như là biện pháp sử dụng tiền của người đóng thuế xứng đáng hơn, nhưng không làm cho nó trở thành hợp pháp hơn nhằm biện minh cho việc đánh thuế.

Address

Hanoi

Website

https://www.facebook.com/FGroupVietNam

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Thị Trường Tự Do Academy posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Business

Send a message to Thị Trường Tự Do Academy:

Share

Thị Trường Tự Do Academy

THỊ TRƯỜNG TỰ DO ACADEMY là một dự án phi lợi nhuận của Trung tâm nghiên cứu giải pháp thị trường cho các vấn đề kinh tế và xã hội (MASSEI) – một doanh nghiệp xã hội tư nhân tại Việt Nam – nhằm xây dựng một thư viện điện tử chuyên cung cấp các kiến thức học thuật về sự vận hành của nền kinh tế thị trường và ý nghĩa của thị trường tự do trong nền văn minh nhân loại.

Thitruongtudo Academy là nơi lưu trữ các tác phẩm, bài nghiên cứu, bài bình luận của các tác giả trong và ngoài nước, được các nhà nghiên cứu kinh tế của MASSEI lựa chọn, thẩm định, và sắp xếp môt cách khoa học, nhằm phục vụ mọi đối tượng độc giả từ chuyên gia tới độc giả phổ thông.

*Tầm nhìn:

Thitruongtudo Academy trở thành một cổng thông tin điện tử tiếng Việt lớn nhất Việt Nam lưu trữ một cách hệ thống các tác phẩm có giá trị và sự nghiệp của các tác gia có ảnh hưởng đến việc thúc đẩy phát triển nền văn minh nhân loại dựa trên nền tảng kinh tế thị trường.