The Democratic Republic of Fecilitatem

  • Home
  • The Democratic Republic of Fecilitatem

The Democratic Republic of Fecilitatem Chúng tôi là Cơ Quan Ngôn Luận của Quốc Gia Ảo Fecilitatem. Nơi này có các chủ đề Văn Hoá - Lịch Sử.

Đêm 18 tháng 8 năm 1945, đồn lính Nhật ở Hà Nội chẳng còn cái dáng vẻ kiêu hùng mà người ta vẫn tưởng tượng về “quân đội...
18/08/2025

Đêm 18 tháng 8 năm 1945, đồn lính Nhật ở Hà Nội chẳng còn cái dáng vẻ kiêu hùng mà người ta vẫn tưởng tượng về “quân đội Thiên Hoàng”. Trời oi bức, ve sầu kêu ran, mà trong sân chỉ còn vài ngọn đèn dầu leo lét, hắt ánh sáng vàng đục lên những tấm tôn lụp xụp.

Đã ba ngày kể từ khi đài phát thanh từ Tokyo phát đi cái giọng run run của Nhật hoàng khi tuyên bố đầu hàng. Những kẻ còn ở lại Hà Nội nghe tin ấy, mặt kẻ nào cũng biến sắc. Cũng chưa đầy hai tuần kể từ ngày Hiroshima thành đống tro tàn, mới vài ngày kể từ khi Nagasaki biến mất sau ánh chớp trắng. Và mới chỉ vài tháng trước, đám sĩ quan từng hồ hởi đọc lệnh tổng động viên để giữ Okinawa, bắt lính quèn ở Bắc Kỳ hô hào khắp các làng rằng Đế quốc vẫn trường tồn. Giờ thì, chẳng còn gì ngoài khói thuốc lào quẩn quanh, tiếng ho sặc sụa và nỗi tuyệt vọng rỉ máu từ trong bụng mỗi người.

Trong doanh trại, gạo chất đống, toàn là thứ đã cưỡng chế của dân. Đám lính thừa biết, dân Hà Nội vẫn đang vật vờ ngoài kia, nhưng chính chúng nó nhận ra, nghĩ mẩm mình cũng chẳng khá hơn là mấy, nên cũng chẳng còn tâm trí mà nghĩ sâu xa làm gì. Vài sĩ quan say rượu gào lên hô hào anh em “hãy mổ bụng giữ lấy khí tiết võ sĩ”. Nhưng rồi sáng hôm sau, người ta chỉ thấy ông ta lăn quay trên chiếu, ruột phèo bày ra, còn đám lính thì lạnh lùng bỏ đi — chẳng ai muốn nối gót. Đế quốc chết rồi, giữ khí tiết để làm gì?

Tin tức từ bên ngoài len lỏi vào: Việt Minh huy động quần chúng ở Nhà hát Lớn, Thái Nguyên đã bị chiếm, cờ đỏ búa liềm phấp phới. Từ phương Bắc, quân Tưởng lục tục kéo xuống, vừa hăm hở vừa hằn học, cứ như cái đất Bắc Kỳ này mới chính là chiến lợi phẩm của họ. Lính Nhật thì thì thầm với nhau: chạy xuống Nam đi, lọt vào tay bọn Ăng-lê thì may ra còn đường về quê, chứ rơi vào tay Tưởng thì chỉ có chết.

Cái gọi là “Đế quốc Việt Nam” thì từ lâu đã chỉ còn là tấm bình phong rách nát. Trần Trọng Kim biến mất chẳng ai biết ở đâu, Bảo Đại thì nghe đâu đã kịp ngả theo Việt Minh để giữ chỗ chạy sang Pháp. Những tay “thần tử Đại Đông Á” còn sót lại chỉ vênh váo được trong mấy cuộc rượu. Đám quan chức quèn ở Bắc Bộ phủ thì vỗ vai đám lính Nhật và bảo nhẹ: “chúng mày toi rồi”.

Trong đồn, vài cậu lính trẻ mê sảng, suốt ngày lẩm bẩm tên người nhà ở Tokyo, Hiroshima, Nagasaki. Vài cậu khác lặng lẽ ôm mặt mà khóc, nhớ lại mẹ già, vợ trẻ chắc chẳng còn xác mà chôn. Một cậu tò mò cầm katana của thủ trưởng, sáng hôm sau đã thấy xác cậu treo lủng lẳng trong lán. Những người còn lại, thôi thì cắm cúi uống rượu, cắm cúi chờ ngày mai. Nếu tháng trước họ còn mơ tưởng sau chiến tranh sẽ về nước mở tiệm gốm, nuôi gà, dạy học… thì giờ, tất cả những gì họ cầu nguyện chỉ là: sống sót qua ngày.

Và rồi, sáng 19 tháng 8. Cả đồn tỉnh dậy trong thứ ánh sáng khác lạ. Ngoài kia, Bắc Bộ phủ rực rỡ cờ đỏ, người người chen vai nhau, hô vang tên “Hồ Chí Minh”. Họ bàng hoàng nhận ra mình vẫn còn bình an vô sự.

Kẻ vui vẻ thở phào, cho rằng thế là qua kiếp nạn. Kẻ thì tức tối bỏ chạy vào Nam, mong hội quân, mong “trả thù cho Nhật Hoàng” mà thực chất chỉ là tìm đường sống bằng cách liếm gót người Anh. Lại có những kẻ khác, dở khóc dở cười, bập bẹ thứ tiếng Việt bồi học được bấy lâu, tới gõ cửa các ủy ban cách mạng: “Xin… xin cho… tôi làm… cho cụ Hồ…”

Một đế quốc sụp đổ, những thân phận lạc loài, và một thành phố đổi màu chỉ trong một đêm.

[CHUYỆN NHÀ NGUYỄN]NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU - TUYỆT THẾ GIAI NHÂN————————Lịch sử triều Nguyễn tự thưở Phúc Ánh phục thù nhà ...
10/08/2025

[CHUYỆN NHÀ NGUYỄN]
NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU - TUYỆT THẾ GIAI NHÂN

————————

Lịch sử triều Nguyễn tự thưở Phúc Ánh phục thù nhà Tây Sơn, đến khi Bảo Đại thoái vị và trao chính quyền về tay nhân dân Việt Nam, chỉ có hai Hoàng Hậu được phong khi còn tại thế, một là Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu - Tống Thị Lan và hai là Nam Phương Hoàng Hậu - Nguyễn Hữu Thị Lan. Với chuyện của Tống thị, bà được phong Hoàng Hậu hoàn toàn xứng đáng khi đã đồng cam cộng khổ cung Gia Long trong suốt quãng đường ông ngậm đắng nuốt cay, chịu bao tủi hổ để chờ ngày phục hận nhà Tây Sơn. Thế nhưng, riêng với Nguyễn Thị thì nó lại là một câu chuyện hoàn toàn đặc biệt. Bởi, xét cho cùng, trong thời đại nhiễu nhương ấy của đất nước, khi Đại Nam đang từng bước chuyển mình theo bánh xe của lịch sử, cộng thêm một thời gian quá dài nhà Nguyễn không lập Hậu, mà bà vẫn được chọn thì có lẽ phải có những lý do sâu xa nào đó chăng?

I. NHÂN VẬT.

Nam Phương Hoàng Hậu, tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan, sinh ngày 14 tháng 11 năm 1913 (chỉ sau chồng mình là Hoàng Đế Bảo Đại vỏn vẹn 23 ngày), là ngọc nữ trong gia đình của một phú hộ giàu có bấy giờ là ông Nguyễn Hữu Hào.

Nói sơ bộ, thì bà này xuất thân trong một gia đình Công Giáo nên từ bé đã được gia đình giáo dục vô cùng tử tế. Năm 12 tuổi (tức 1925, Nguyễn Hữu Thị Lan sang Paris, Pháp học trường Couvent des Oiseaux. Thế nên, càng trưởng thành, người ta càng thấy bà sùng đạo hơn.

II. HÔN SỰ.

Năm 1933, sau khi hồi hương được một năm, dưới sự sắp đặt của Toàn Quyền Đông Dương bấy giờ là ông Pasquier, Nguyễn Hữu Thị Lan và Nguyễn Phúc Vĩnh Thuỵ (tức Bảo Đại) đã gặp nhau tại khách sạn Langbian Palace toạ ở Đà Lạt.

Mặc dù theo nhiều nguồn cho hay, Nguyễn Hữu Thị Lan không hẳn là có tình cảm với Nguyễn Phúc Vĩnh Thuỵ nhưng dưới sự dàn xếp của gia đình cũng như những kẻ máu mặt bấy giờ, bà vẫn đồng ý qua lại với Vĩnh Thuỵ và rồi được Hoàng Đế hỏi cưới. Bấy giờ, bà thay mặt gia đình đề nghị bốn điều sau:

1. Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong Chính Cung Hoàng Hậu ngay trong ngày cưới.
2. Được giữ nguyên đạo Công giáo, và các con khi sinh ra phải được rửa tội theo giáo luật Công giáo và giữ đạo.
3. Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là Phật giáo.
4. Phải được Tòa Thánh cho phép đặc biệt hai người lấy nhau và giữ hai tôn giáo khác nhau.

Và những yêu sách này hoàn toàn chạm đến tận cùng giới hạn của Hoàng Gia thời bấy giờ. Khi mà Thượng Thư Bộ Hình Tôn Thất Đàn (tương đương Bộ Trưởng Tư Pháp ngày nay) đã dự tính thay mặt bá quan văn võ triều Nguyễn gửi thỉnh nguyện thư phản đối và buộc Nguyễn Hữu Thị Lan phải cải sang đạo Phật.

Thế nhưng, chính Bảo Đại lại là người bỏ hết tất cả lời khuyên và sự phản đối từ Hoàng Tộc lẫn triều đình để lấy được Nguyễn Hữu Thị Lan làm vợ. Chính ông ta đã nói:”Trẫm cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và Triều Đình”.

Vậy là ngày 20 tháng 3 năm 1934, hôn lễ được tổ chức khi Bảo Đại và Nam Phương mới 20 tuổi hơn. Sau đó một ngày, Nguyễn Hữu Thị Lan được chính thức phong Hoàng Hậu với danh xưng là Nam Phương.

III. VIỆC NƯỚC - VIỆC NHÀ.

Mặc dù không quá nổi bật về chính trị, nhưng bà được đánh giá là một người vợ - người mẹ chuẩn mực khi đã hoàn thành vai trò của mình đối với các con và Đức Từ Cung Thái Hậu. Song, vì nhiều mâu thuẫn từ tôn giáo đến quan điểm sống mà bà không được Đức Từ Cung đối đãi đúng mực, ít nhất là dưới danh nghĩa “con dâu”. Sau này, phim Ngọn Nến Hoàng Cung đã làm rõ những mâu thuẫn này giữa bà và Đức Từ Cung. Ngoài ra, những năm sau khi Quốc Gia Việt Nam (một thể chế bù nhìn dựng lên bởi thực dân Pháp) được thành lập, Đức Từ Cung đã trao lại mũ áo và những vật dụng mang tính lễ nghi của một Hoàng Hậu cho Thứ Phi Mộng Điệp (người vợ không chính thức của Bảo Đại) để bà thực hiện những nghi lễ đối với các tiên hoàng nhà Nguyễn trong những ngày trọng đại.

Với việc nhà thì thế, nhưng việc nước cũng không kém phần xuất sắc. Nam Phương luôn xuất hiện cùng chồng trong những cuộc gặp gỡ ngoại giao khi tiếp phái đoàn của nguyên thủ các nước khác như Thống Chế Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc, Vua Sihanouk của Cao Miên,…. Thậm chí có lần đích thân Bảo Đại lái xe đến Nam Vang (Pnom Penh) cũng có sự hiện diện của Nam Phương bên cạnh.

Trái với những người công giáo quá mức sùng đạo đến mù quáng như Trần Lệ Xuân sau này, Nam Phương Hoàng Hậu lại là người rất khéo cư xử với các Phật Tử trong nước. Bà thường đi lễ chùa cùng các con trong những ngày lễ lớn của đạo Phật trong thời gian còn là Hoàng Hậu, người ta thường thấy Nam Phương đi thăm các lăng tẩm, luôn đứng thẳng người nhưng hai tay bao giờ cũng chắp lại ngang ngực với một thái độ kính cẩn. Ngoài ra, nhằm thể hiện sự tân thời, bà cũng kiên quyết đòi thực hiện các biện pháp canh tân của mình.

Thế nhưng, một câu chuyện nổi bật khác lại được kể sau khi Triều Đình Huế sụp đổ không lâu…

IV. CHUYỆN TUẦN LỄ VÀNG.

Đó là khoảng thời gian Cách Mạng vô cùng khó khăn về mọi hướng. Khi ấy, Cụ Hồ cùng Chính Phủ Lâm Thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã kêu gọi quyên góp với khẩu hiệu “một miếng khi đói bằng một gói khi no” hay các chương trình “tuần lễ Vàng” với mục tiêu duy nhất, lá lành đùm lá rách trong thời đại đầy bất ổn và lâm nguy vô tận cùng ấy.

Vào trung tuần tháng 9 năm 1945, tại Cung An Định, gia nhân thấy bà Nam Phương cổ đeo vòng vàng, hai tay mười chiếc nhẫn quý. Người ta hỏi bà đi đâu mà phải mang nhiều như thế, bà chẳng trả lời, chỉ lặng lẽ bước ra khỏi Cung và đến nơi tổ chức Tuần Lễ Vàng của Chính Phủ Việt Minh. Khi ấy, trước sự ngỡ ngàng của tất cả các cán bộ cũng như nhân dân, Nam Phương đã tháo tất cả vòng vàng và nhẫn cùng các món trang sức khác bỏ vào trong hộp quỹ của Chính Phủ. Người ta cảm kích vô tận cùng và đã mời bà làm chủ trì của chương trình Tuần Lễ Vàng cùng với một hành động vô cùng ý nghĩa của Việt Minh, các cán bộ đã gắn một huy hiệu in hình cờ đỏ sao vàng lên người bà như sự công nhận và vinh danh một công dân tiêu biểu của nước Việt Nam mới trong thời kỳ đấu tranh trước tang thương như vậy.

V. CHẤM BÚT LẦN THỨ NHẤT.

Ngoài ra, vẫn còn một số câu chuyện thú vị về Nam Phương Hoàng Hậu mà tôi sẽ kể với độc giả trong các số sau. Xin chào và hẹn gặp lại.

————————

Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2025.
-Jay-



[CHUYỆN NHÀ NGUYỄN]GIỚI THIỆU.——————-Một giai đoạn lịch sử gần gũi nhất với chúng ta, được tái hiệu lại qua chuỗi bài vi...
08/08/2025

[CHUYỆN NHÀ NGUYỄN]
GIỚI THIỆU.

——————-

Một giai đoạn lịch sử gần gũi nhất với chúng ta, được tái hiệu lại qua chuỗi bài viết ít người biết đến cùng những bí ẩn xung quanh triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam. Không chỉ là những giai thoại truyền miệng, mỗi bài viết là một hành trình kết hợp giữa tư liệu lịch sử xác thực và cách kể chuyện gần gũi nhằm gửi đến quý bạn.

Từ những cung bậc cảm xúc thầm kín nơi hậu cung, những biến cố chính trường, cho đến những mối tình và những khoảnh khắc đời thường của các bậc quân vương, hoàng hậu, quan lại.

Series này hứa hẹn sẽ đưa bạn quay ngược thời gian, chạm vào những câu chuyện vừa xa xôi, vừa thân thuộc.

Vì chúng tôi cho rằng, muốn đưa ra nhận định rõ ràng nhất về một thời đại nào, cần phải hiểu con người trong bối cảnh thời đại ấy của họ, để thấy đằng sau những con người của lịch sử ấy, họ cũng như chúng ta, cũng là những trái tim biết yêu, biết hận và biết hy sinh.

Bài viết đầu tiên sẽ được đăng chính thức tại The Democratic Republic of Fecilitatem vào Chủ Nhật, ngày 10 tháng 8 năm 2025.

Nhưng đăng tại Fecilitatem Socialist Party trước một ngày, tức Thứ Bảy ngày 9 tháng 8 năm 2025.

Kính mong quý vị độc giả cùng thưởng thức.

——————-

Hà Nội, ngày 8 tháng 8 năm 2025.
–Jay–



Một buổi sáng như bao buổi sáng khác từ mấy tháng cuối năm Giáp Thân (1944), trời Vĩnh Lại xám như cái nồi gang bị cọ đế...
06/08/2025

Một buổi sáng như bao buổi sáng khác từ mấy tháng cuối năm Giáp Thân (1944), trời Vĩnh Lại xám như cái nồi gang bị cọ đến mòn cả lòng, sương không đủ để gọi là lạnh, nhưng đủ để gợi lại vị sắt của máu đông vương trên môi mấy đứa trẻ vừa qua đời đêm qua.

Anh nông dân tên Cả Năng – không phải vì có chức có tước gì, mà là vì cả làng cả xóm đều đói, nên anh là người “cả gan” nhất dám lục xác người Nhật xem có gì ăn được – như lệ thường, lại dậy sớm. Mà “dậy” là nói theo thói quen, chứ từ đêm qua đến giờ, anh chỉ lim dim nằm chờ trời sáng để bắt đầu một ngày “kiếm ăn”.

Khác với cái kiếm ăn của dân buôn hồi còn trồng trọt được, cái nghề “kiếm ăn” của Cả Năng không cần vốn, cũng không cần chữ nghĩa gì cho mất công. Anh chỉ cần một bụng đói, một mắt tinh, và một cái gan không quá sợ ruồi nhặng. Mỗi sáng, anh xách một cái rổ – từng là rổ đựng lúa, nay chuyên để đựng xác chuột, rắn, cóc, chim, thậm chí cả một cẳng người nếu thịt còn chưa rữa. Cái gì nhặt được, đem về nướng sơ sơ, cho thêm ít muối – nếu còn muối – là thành món ăn “ngon, rẻ, còn bổ hay không thì tính sau”.

Cái chuyện lả đi giữa đường làng, nằm gọn vào một cái hố chôn tập thể mà bọn Nhật nhẫn tâm quẳng xác dân làng vào, rồi tỉnh dậy thấy mình nằm lẫn với hai ba cái xác khô queo, là chuyện… như cơm bữa. Chỉ tiếc, dạo này không còn cơm.

Buổi chiều cũng thế. Có khác chăng là nắng gắt hơn, ruồi nhiều hơn, và bụng thì đói hơn. Thành quả buổi trưa và tối – nếu có – là một món “đặc sản dân dã”: đầu mèo nướng, ruột chim bóp dấm, chân trẻ con nhặt về nấu cháo. Có món ăn nào hợp vệ sinh không? Không. Có món ăn nào ngon không? Có. Rất ngon. Vì đến lúc ấy, ăn cọng rơm cũng thấy như gân bò tiềm thuốc bắc.

Cả Năng cũng từng khóc vì đói. Từng ngồi bó gối nhìn xác con gái nằm co ro ngoài sân, lũ ruồi bu lấy hai con mắt lồi ra vì thiếu nước. Nhưng khóc mãi rồi cũng cạn nước mắt. Mắt anh giờ mòn như đá mài. Nhìn xác người nhiều đến nỗi, đôi lúc đang bới bới mà quên khuấy là mình đang moi một cái bụng từng biết gọi anh là “cha”.

“Người với người ăn thịt nhau” – Cả Năng từng nghe câu ấy trong một buổi mít-tinh. Nhưng anh nghĩ: đến cái đám đồng chủng đồng văn kia – bọn lính Nhật núp trong đồn – nếu đói quá mà nhai được mấy nhúm đay, thì chúng nó cũng chẳng khác mình là mấy. Cái đói làm con người ta thôi là người, mà thành thú, thành quỷ. Đến nỗi, anh từng thầm mong có cái máy bay nào từ tận Hoa Thịnh Đốn gửi cho vài chục tấn bom để chôn vùi luôn cả cái xứ Đông Dương thối nát này đi cho rồi.

Ấy thế mà, mỗi ngày, anh đều nghe mấy anh đội cờ đỏ về làng. Có hôm một người. Hôm sau năm người. Rồi mười người, trăm người. Đội nào cũng hô khẩu hiệu nghe như kinh Phật: “Giải phóng dân tộc! Đánh đổ đế quốc! Làm cách mạng ruộng đất!” Người làng – nếu còn được coi là người trong bất cứ loại định nghĩa nào – thì nghe như kẻ sắp chết đuối gặp cọc rơm. Không hiểu “cách mạng” là cái gì, chỉ nghe có thể được ăn, là theo liền.

Một hôm, đang lần mò kiếm xác, Cả Năng nghe tiếng loa đằng chùa vọng ra: “Toàn dân đứng dậy! Đánh Nhật, giành thóc về tay nhân dân!” Anh lết ra xem, thì bị đẩy ngay vào giữa đám người cờ đỏ đang chuẩn bị hô to: “Xông vào kho thóc nhà cụ Lý!”

Anh chưa kịp hiểu, thì phía bên kia – gia nhân cụ Lý và mấy anh đồn trưởng Nhật – cũng lao vào. Có gậy gộc, có dao phay, có cả… hàng nóng.

Trong hỗn loạn, Cả Năng bị xô. Bên nào xô thì cũng không ai biết. Xô lần này là lần thứ chín. Trước đó tám lần lả đi, khốn nạn thay Cả Năng đều toàn mạng. Lần này, anh nghĩ: “Thôi, ngỏm đi cho nhẹ người.”

Nhưng như một trò hề dở khóc dở cười của số phận, anh lại tỉnh dậy. Bên cạnh là một anh thanh niên đeo băng đỏ, cười như được mùa, dúi cho anh một cái thúng, rồi bảo:
— Bác vào kho lấy gạo đi. Kho của dân ta, gạo của dân ta đấy ạ.

Cả Năng, một “cựu thanh niên”, cụ thể là 25 tuổi theo như giấy tờ của cách mạng sau này, nghe thấy chữ “thóc”, chữ “gạo” mà tưởng như mình đã sang vũ trụ người hiền. Nhưng rồi Năng tự hỏi, âm ti gì mà khung cảnh y hệt làng mình thế này? Diêm Vương đâu? Sao lại toàn gương mặt quen thế này, chẳng nhẽ… cả làng ngỏm rồi à?

Mấy mươi năm sau, người ta không còn gọi anh là Cả Năng nữa, mà là ông Năng, Đảng viên lão thành. Anh từng thấy cụ Hồ kêu gọi bình dân học vụ, kêu gọi tăng gia sản xuất, từng thấy Pháp quay lại, rồi thấy Pháp cút. Từng được chia ruộng, từng đứng giữa trận địa súng máy phòng không bắn máy bay Mỹ, từng tiễn thanh niên làng vào Nam, lên biên giới kháng chiến, rồi… cũng tự đi từng nhà an ủi gần như cả làng khi đám thanh niên ấy mãi không trở về. Từng treo ảnh Hồ Chủ tịch trong gian thờ chính, từng đếm tem phiếu từng tháng để nuôi con. Từng ngỡ là đời sang trang, rồi lại thấy bao cấp, rồi đổi mới, rồi thị trường.

Nay, anh có vợ, có con, có cháu. Nhưng mỗi lần ngồi quây quần với gia đình, với một bữa cơm no đủ, anh lại thầm nghĩ: “Mình đang mơ à?”

Không. Không phải là mơ. Là thật. Là một giấc mơ có thật, mà trong giấc mơ ấy, anh từng nhai đầu chuột để sống, từng nằm giữa xác người mà không phân biệt nổi đâu là ruột mình, đâu là ruột người ta.

Một giấc mơ đẫm mồ hôi, máu và nước mắt của gần chục thế hệ. Nhưng cũng đầy hy vọng, như một mầm lúa mọc lên từ tro tàn.

Một giấc mơ mang tên: Việt Nam.

(ĐÂY LÀ CÂU CHUYỆN PHỎNG TÁC LẠI TỪ NHỮNG TÀI LIỆU CÓ ĐƯỢC TỪ SỰ KIỆN VỊNH BẮC BỘ, KHÔNG CÓ Ý NGHĨA NHƯ SỬ LIỆU)Một buổi...
05/08/2025

(ĐÂY LÀ CÂU CHUYỆN PHỎNG TÁC LẠI TỪ NHỮNG TÀI LIỆU CÓ ĐƯỢC TỪ SỰ KIỆN VỊNH BẮC BỘ, KHÔNG CÓ Ý NGHĨA NHƯ SỬ LIỆU)

Một buổi sáng tháng Tám năm 1964. Thành phố Vinh vừa tỉnh dậy sau một giấc ngủ yên lành. Trời nắng hanh, tiếng xe đạp leng keng vọng lại từ phố Trần Phú, quán xôi bà Nhẫn bên góc chợ Ga vừa bốc khói, trẻ con cắp sách tới lớp, những người mẹ gánh gồng ra ruộng hợp tác... Một ngày bình thường, như bao ngày bình thường khác, trong một đất nước chưa bao giờ được sống một ngày bình yên thực sự.

Nhưng chỉ vài phút sau, bầu trời không còn là bầu trời nữa. Những chấm đen từ phía biển ùn ùn kéo đến. Lũ chim sắt, mang theo cái gọi là "dân chủ" và "tự do", mang theo cả cái chết.
Chúng lao xuống như loài ác thú đang lồng lộn. Tiếng gầm rú của động cơ phản lực xé nát không gian. Rồi những tiếng nổ liên tục vang lên. Khói lửa mù mịt khắp bờ sông Lam. Rồi như một điều tất yếu, máu đã đổ.

Khu dân cư phường Bến Thủy tan hoang sau ba lượt bom. Nhà trẻ Công đoàn – nơi có mười tám đứa trẻ đang ê a học hát – giờ chỉ còn là đống gạch nát. Người ta tìm thấy thi thể của mười em, những thân hình bé nhỏ cháy sém, nằm lẫn trong gạch vụn và những chiếc dép chưa kịp rời chân. Một chiếc đàn gỗ nhỏ gãy đôi, nằm chỏng chơ bên cạnh tấm khăn mùi xoa trẻ con còn vết nước mắt.
Chị Lài vừa đi chợ về, nay chết sững trước nền nhà đổ nát, nơi vừa sáng nay chị buộc lại khăn cho con gái ba tuổi, dặn: “Nghe lời cô giáo, mẹ về sớm mua bánh rán nhé.” Giờ thì bánh rán trong tay đấy, nhưng để cho ai được nữa?

Cùng lúc ấy, hàng nghìn cây số xa cách, tại Washington, các chính khách Mỹ đồng thanh kêu khóc: "Tàu chiến của chúng tôi bị hải quân Bắc Việt tấn công ở Vịnh Bắc Bộ!". Trên truyền hình, những gương mặt lạnh băng đọc thông cáo lên án sự "khiêu khích" của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cả nước Mỹ hô vang: "Chúng tôi là nạn nhân!". Kể cả khi tàu Maddox chỉ có một lỗ đạn, và nó xâm phạm chủ quyền Việt Nam rõ ràng, nhưng ai thèm quan tâm chứ? Họ còn đang bận khóc thương cho… một thủy thủ bị trầy chân.

Còn những nạn nhân thực sự thì sao? Ở Vinh, người ta vừa chôn xác mười đứa trẻ. Ở khu tập thể bệnh viện 4, người ta bới đất tìm nốt phần thân còn lại của một y tá bị bom Mỹ xé đôi. Ở dọc tuyến đường sắt Bắc Nam, dân quân tự vệ kéo nhau đi vá ray, trong khi đầu óc vẫn còn lùng bùng tiếng nổ.

Chưa đầy chín năm sau ngày nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố có hải quân, người Mỹ đã dùng cái cớ ấy để giáng bom xuống một thành phố. Cái gọi là "tự do" hóa ra chỉ là tự do chọn mục tiêu để tàn sát. Cái gọi là "bảo vệ thế giới khỏi cộng sản" hóa ra là thiêu cháy từng mái nhà của nhân dân. Và bi hài thay, chính thủ phạm gây ra những điều này lại đủ sự mặt dày để tuyên bố với thế giới: “cái tên Bắc Việt què quặt kia dám bắn trả chúng tôi!”.

Và đó là lúc người Việt Nam nhận ra.
Đây không còn là cuộc chiến tranh giữa hai ý thức hệ nữa. Đây là cuộc chiến để giành quyền sống còn. Là một ván bài sinh tử, nơi bên kia có những chiến đấu cơ đầu B, đầu F, những sắt thép đi trước hàng chục năm, một nền kinh tế gấp bên kia hàng thế kỉ và một bộ máy tuyên truyền lớn nhất, và đồng thời cũng vô liêm sỉ nhất thế giới, còn bên này là một cựu thuộc địa chỉ vừa kịp gượng dậy sau 80 năm chìm trong ách nô dịch.

Dải đất hình chữ S, nếu không đứng dậy, sẽ không còn là một quốc gia, mà chỉ là một "khu trại thí nghiệm" cho chính sách đối ngoại của Washington. Còn dân tộc Việt Nam khi đó, sẽ chỉ còn tồn tại trong báo cáo nhân quyền bị bóp méo.

Và vì thế, ngày 5 tháng 8 năm 1964, khi Vinh bốc cháy giữa bóng tối của truyền thông, khi những đứa trẻ không bao giờ tỉnh lại, khi tiếng khóc gào của những người mẹ bị lu mờ bởi những tiếng rên la giả tạo được phát trên CBS, cũng là ngày nhân dân Việt Nam hiểu rõ hơn bao giờ hết:
Chúng ta phải đánh.
Không phải vì chủ nghĩa này hay chủ nghĩa kia.
Mà vì quyền được sống của mình. Của mọi người. Của dân tộc Việt Nam.

Hỡi ôi, ở xứ An Nam ta từ thuở đổi mới đến nay, cái gì đã từng là thiêng liêng, thi thoảng cũng được đưa lên truyền hình...
03/08/2025

Hỡi ôi, ở xứ An Nam ta từ thuở đổi mới đến nay, cái gì đã từng là thiêng liêng, thi thoảng cũng được đưa lên truyền hình để vừa bày biện vừa... bán vé. Ấy là tôi muốn nói đến cái chương trình truyền hình nổi tiếng nọ – nơi người ta mời mấy đứa mặt búng ra sữa nhưng tóc nhuộm đủ màu, chuyên làm cái nghề "nói vào máy" để rồi thiên hạ nghe mà như nuốt lời thánh – đến để "trải nghiệm làm lính".

Theo lời nhà đài, thì đây là chương trình rất nhân văn. Nhân văn đến mức chỉ bắt mấy ông bà idol làm lính... trong vòng một tuần lễ, lại còn được ăn cơm có thịt, ngủ giường quân nhu, tắm nước nóng, cầm súng thặt ngắm như đúng rồi (dù 75% người chơi bắn như kiểu trốn + nợ môn GDQP), và mỗi khi chạm vào chướng ngại vật lại có máy quay lia đến nét mặt đẹp như ảnh bìa TikTok. Người ta bảo đây là cách để nâng cao hình ảnh quân đội, tăng cường ý thức quốc phòng trong giới trẻ, chứ không phải chiêu trò PR đâu – xin thề có trời đất!

Ấy thế mà, đời có ai ngờ, cái chương trình tưởng chỉ để khoe cơ bắp, chấm điểm đồng đội, vậy mà lắm phen nổi bão trên cõi mạng. Có mùa, ban tổ chức để một người từng là nam (nay đã là cô gái rất mỹ miều) tham gia đội nữ – một quyết định được coi là “tiến bộ trong tinh thần bao dung giới tính”, nhưng lại tạo ra một trận bão ba cấp rưỡi trong cộng đồng mạng – nơi mà ai cũng rảnh việc nhưng ai cũng muốn làm quan toà tối cao về đạo đức.

Lại có mùa, có cô chiến sĩ tham gia chương trình vừa mới được dân mạng khen ngợi vì nhảy qua bãi lầy đẹp như phim Hàn, thì chưa đầy ba tháng sau đã lên báo với cái tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, rồi ăn cơm tù cho đỡ đói. Người ta mới bẽ bàng: “Ô hay, không lẽ truyền hình quốc gia giờ là nơi rèn... phạm nhân tương lai?” Nhưng không! Ban tổ chức bảo: “Đó chỉ là vài trường hợp cá biệt.” Cũng như trong showbiz có vài ca sĩ hát nhép thì đâu phải cả ngành đều như vậy!

Thôi thì bao chuyện ấy ta không nói nữa. Hôm nay, ta nói đến một anh.

Cái anh ấy vốn nổi danh trong nghề “stream” – tức là đứng trước cái we**am rồi nói như tụng kinh suốt mấy tiếng đồng hồ, mà người nghe thì đủ thành phần trong xã hội. Anh ta từng có giai đoạn cứ mỗi phút văng tục chục lần, rồi bị truyền hình quốc gia chiếu mặt, bêu tên, chửi cho te tua. Sau vụ ấy, anh rút kinh nghiệm – văng tục chỉ 3-5 lần/phút thôi – một cải tiến đạo đức đáng được tuyên dương!

Anh ta tham gia chương trình năm xưa, thể hiện ổn, không đến nỗi dở – thậm chí còn được khen là "thể lực tốt", “bắn khá”, "hòa đồng", "truyền cảm hứng". Fan tung hô, ban tổ chức hài lòng. Ai cũng tưởng, cái anh ấy là gương mặt vàng trong làng đạo lý: nói chuyện có duyên, biết cảm thông, làm content mà không xúc phạm ai (quá mức). Và thế là mùa này, anh ta được mời quay lại – lần này là mùa dành cho "các chiến sĩ tiêu biểu".

Ai ngờ! Trời đất ơi, ai ngờ!

Cái đoạn clip giới thiệu – cái đoạn mà ai cũng mặc đồ thường phục rồi chuyển qua dã chiến, rồi kết lại bằng bộ lễ phục thiếu úy – tưởng ai cũng vậy, nhưng khi đến lượt anh ấy, cả cái cõi mạng sục sôi như kiến lửa. Người ta không nói đến chiến sĩ nữa, không bàn đến chương trình nữa – người ta chỉ nhìn thấy anh ta và cái lễ phục thiếu úy trên người anh.

Tức thì, những kẻ vốn đã ghét anh như chó ghét mèo (nào là fan rap, fan tù nhân, anti ngày hè, mấy tay có thù riêng từ thời anh còn làm HLV esports…) đồng loạt nổi dậy như cuộc khởi nghĩa khắp mạng xã hội. Người ta đào mộ, khai quật, dệt thêu, xuyên tạc, nhào nặn, thổi phồng, và cuối cùng – kết luận chắc nịch: “Thằng này trốn nghĩa vụ!”

Mặc cho luật nghĩa vụ có quy định thế nào, mặc cho anh ta hồi ấy đang học liên thông lên đại học (là một dạng học cũng khá tốn thời gian và tiền bạc), mặc cho người ta nói tỉnh ấy ít tuyển, mặc cho bố anh ta là giám đốc công an (một điều có vẻ vừa lợi vừa... lắm tai tiếng), mặc cho bao lý do hợp lý, thì người ta không quan tâm. Vì trên mạng, sự thật không quan trọng bằng việc sướng mồm và sướng tay gõ phím!

Người ta gọi anh là “kẻ đạo đức giả”, “thằng từ cha sinh ra đã ngậm thìa vàng mà làm như khổ như chó”, “thằng phân biệt vùng miền”, “thằng hai mặt”, “thằng bỏ anh em mà chạy”, “thằng nói đạo lý như thánh nhưng hành xử như tặc”, v.v… Dân mạng có tài: mỗi ngày có thể nghĩ ra 10 biệt danh mới, mỗi giờ có thể vẽ ra 3 thuyết âm mưu, mỗi phút có thể comment như đang cạo xương người ta.

Fan anh thì ra sức bênh vực, nhưng bênh thì bị chửi:

> "Đồ bot!",
> "Đồ sim thuê!",
> "Chắc được trả tiền để bênh!",
> "Mày bênh nó vì mày cũng giống nó – hai mặt!"

Đỉnh điểm là có người còn viết status:

> "Tôi không ghét nó vì nó trốn lính – tôi ghét nó vì nó sống mà không có liêm sỉ!"

Câu ấy được gần 30.000 lượt thích.

Vậy là từ một người từng được tung hô là "idol quốc dân", anh ta trở thành "tấm gương tiêu cực điển hình". Người ta quên mất là chương trình kia chỉ là show, quên mất là ai cũng mặc lễ phục thiếu úy, quên mất là đời có những thứ... phức tạp hơn cả mấy cái video TikTok.

Còn anh? Anh vẫn sống, vẫn stream, vẫn nói đạo lý, vẫn khoe chó mèo, khoe xe, khoe trà detox, vẫn sống trong một vũ trụ nơi lằn ranh giữa thiện và ác được quyết định bởi ai đăng bài trước.

Và thế là, một mùa chương trình sóng gió lại trôi qua, như bao mùa trước.
Và người ta lại chờ... mùa sau.

Ngày ấy, người ta còn gọi nhau là "đồng chí". Bây giờ, người ta gọi nhau là "ngài" – vì "đồng chí" nghe 'cộng phỉ' quá, ...
31/07/2025

Ngày ấy, người ta còn gọi nhau là "đồng chí". Bây giờ, người ta gọi nhau là "ngài" – vì "đồng chí" nghe 'cộng phỉ' quá, còn "ngài" nghe có mùi bơ sữa. Xứ An Lạc vừa tuyên bố độc lập hôm trước, hôm sau đã có đại sứ các nước đế quốc lịch thiệp tới tặng hoa và... hóa đơn. Hóa đơn cho súng, cho cố vấn quân sự, cho bút ký vào hiệp định thương mại mà sau này, đến đời con cháu của đồng chí Bộ trưởng Tài chính cũng chưa hiểu nổi mình đã bán cái gì đi.

Trong quán bia đầu phố, ông giáo Trí – một học giả từng được mời đi Paris “trao đổi học thuật” – chép miệng:
– Mấy chú trẻ bây giờ cứ hô độc lập, tự chủ. Độc lập mà ngân hàng trung ương phải xin phép Quỹ Tiền tệ Thế giới để in thêm tiền, còn tự chủ mà Bộ Quốc phòng thì dùng toàn hàng surplus từ cuộc chiến tranh cách đây 40 năm!

Một tay trẻ vênh mặt:
– Nhưng ít ra bọn cháu được mở cửa ra thế giới!
– Ờ, mở cửa. Nhưng chỉ để tụi nó vào vẽ lại nhà, cắm cờ lên tường, và treo lên cái khẩu hiệu “tự do – nhân quyền – thị trường” bằng mực in màu do chúng sản xuất.

Từ khi đế quốc rút đi, để lại một bản đồ loằng ngoằng hơn ruột mèo và rối rắm như đơn xin cứu trợ, thì dân tộc An Lạc lập tức rơi vào cảnh... chia ba: phía Bắc thân Thịnh Đốn, phía Nam thân Tư Khoa, còn miền Trung thì thân ai cho nổi – vì đang đói.

Trên truyền hình quốc gia (đã tư nhân hóa 49%), ông Thống đốc phát biểu trịnh trọng:

“Chúng ta kiên định con đường hợp tác toàn cầu – dù có nghĩa là phải bán cảng biển chiến lược cho một tập đoàn có địa chỉ tại... Quần đảo Cayman.”

Sau đó, trên kênh đối lập (do một NGO tài trợ), có phóng sự:

“Nhân quyền ở quốc gia An Lạc đang xuống cấp nghiêm trọng. Một số blogger bị bắt vì xúc phạm quốc kỳ của chính phủ độc tài.”

Trong khi đó, bên trong Văn phòng Tổng thống, Ngài Tổng thống đang tiếp Phái đoàn Tư vấn Tăng trưởng Bền vững. Họ trao đổi rất thân mật:

– Thưa ngài, chúng tôi thấy ngài nên hủy bỏ trợ giá nông nghiệp.
– Nhưng dân tôi sẽ đói!
– Đúng, nhưng Đói là bước đầu tiên của Cải cách. Chúng tôi gọi đó là “Detox kinh tế”.

Ở ngoài đường, dân thì chen nhau xếp hàng xin visa làm lao động khổ sai tại nước Đế quốc. Ở bên kia đại dương, dân Đế quốc thì biểu tình vì "bọn nhập cư lười biếng đến từ xứ độc tài". Ủa? Họ không biết rằng chính nước họ đã đào hố và bắt người khác phải chui xuống à?

Chính phủ nước An Lạc, muốn vực dậy nền kinh tế, bèn tuyên bố đầu tư vào công nghệ cao. Thế là Đế quốc nhanh nhẹn tài trợ cho một khóa học AI... dài 3 tuần, tổ chức trong phòng học cấp 2 có máy chiếu Nhật Bản đã qua sử dụng. Kết thúc khóa, mỗi học viên được cấp một "chứng chỉ công dân số", in bằng giấy kraft “bảo vệ môi trường”.

Trong khi đó, ở vùng biên giới, hai bộ tộc từng cùng thờ một vị thần, nói cùng ngôn ngữ, nay giơ súng bắn nhau vì một con suối – đường biên giới năm xưa do một công chức Đế quốc cũ vẽ trong lúc say rượu. Tờ báo nước ngoài giật tít:
“Bạo lực bùng nổ tại vùng đất man rợ: Liệu Đế quốc có nên can thiệp nhân đạo?”

Một ngày, một vị lãnh đạo trẻ của nước An Lạc tuyên bố muốn thoát khỏi ảnh hưởng của Đế quốc, tự xây dựng nền kinh tế độc lập, khơi dậy tinh thần dân tộc. Chưa đầy một tháng sau, các tổ chức quốc tế tuyên bố ông là “nhà độc tài mới nổi” và “mối đe dọa an ninh khu vực”. Tài khoản ngân hàng ông bị phong tỏa, tiền của ông bị gọi là tiền tham nhũng, và không biết vì lý do gì, các lực lượng nổi dậy “vì dân chủ” xuất hiện với drone, tên lửa vác vai và cả hashtag .

Chỉ còn ông giáo Trí vẫn ngồi nơi quán bia:
– Cháu ạ, khi một đất nước vẫn phải cầu viện nước ngoài để mua khẩu hiệu cho cuộc sống, thì đó không phải là quốc gia – đó là một dự án đang thi công dang dở.

Và như thế, lịch sử lại tiếp tục quay vòng – một cách rất hiện đại, rất dân chủ, rất xanh, rất sạch, và cực kỳ... có mùi tiền.

(LƯU Ý! Nội dung dưới đây là một truyện ngắn hư cấu dựa trên câu chuyện của nhiều thân nhân liệt sĩ. Mọi sự trùng khớp đ...
27/07/2025

(LƯU Ý! Nội dung dưới đây là một truyện ngắn hư cấu dựa trên câu chuyện của nhiều thân nhân liệt sĩ. Mọi sự trùng khớp đều chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên.
Chúng tôi xin kính cần nghiêng mình trước những người anh hùng không tiếc máu xương vì độc lập dân tộc, và cả… những hậu phương mòn mỏi trong Ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7)

Tháng Ba năm 1971, trời Hà Nội mưa phùn bay lất phất. Cậu thanh niên tên Hưng, tân sinh viên Đại học Bách khoa Hà Nội, vai đeo ba lô con cóc, mắt nhìn thẳng, bước qua cổng ga Hàng Cỏ trong tiếng loa gọi tàu đi Vinh. Bà Thìn—mẹ cậu, chỉ lặng lẽ đi sau, một tay xách túi cơm nắm, một tay bấu chặt vào tà áo nâu sồng nhàu nát. Mắt bà ráo hoảnh, không khóc. Bà đã thề sẽ không khóc khi tiễn con ra trận. Chỉ khi tàu hú còi, bóng Hưng khuất dần sau cửa sổ toa tàu, bà mới khụy xuống giữa sân ga.

Cậu con trai duy nhất, đứa học trò giỏi nhất xã, từng đoạt giải toán toàn miền Bắc, từng ước làm kỹ sư cầu đường "nối liền một dải gấm hoa Việt Nam", đã xếp bút nghiên lên đường. “Bao giờ toàn thắng, con sẽ về. Mẹ nhớ để dành đất trồng mít nhé!”, Hưng cười.
Nhưng đất chưa kịp trồng mít, thì giấy báo tử đã về tay bà. Giữa tháng Bảy năm ấy, sau trận đánh giành lại Thành cổ Quảng Trị, người ta bảo Hưng đã anh dũng hy sinh khi vượt sông Thạch Hãn ban đêm. Hàng trăm quả bom Mỹ giằng xé lòng sông Thạch Hãn, xé tan tành xác thịt người lính Giải phóng quân. Hưng, cũng như bao anh em khác trong đại đội, chỉ kịp thét lên: “Mẹ ơi…”. Rồi thì cả khúc sông đỏ ngầu, không còn thứ gì gọi là xương hay thịt nữa.

Hưng đau đớn vài giây, nhưng bà thì đau đến suốt cuộc đời.

Từ ngày nhận được tờ giấy báo tử màu vàng nhạt, bà Thìn không còn là người phụ nữ nhanh nhẹn chợ Đồng Xuân như xưa nữa. Nhà chỉ còn mình bà. Chồng mất trong một đợt oanh tạc của không quân Mỹ. Bây giờ con cũng mất. Căn nhà cấp bốn xiêu vẹo trở thành mồ chôn ký ức. Mỗi sáng, bà ra bàn thờ thắp hương khói, lẩm nhẩm gọi tên con.

Người mẹ Việt Nam anh hùng—danh hiệu ấy không làm bà thấy nhẹ hơn. Ngược lại, nó như đóng đinh vào ngực: mẹ của một nấm mộ vô danh.

Bà đi dọc miền Trung suốt mấy năm sau hòa bình, lặn lội qua bao chiến trường cũ, hỏi từng cựu binh, từng bà bán nước chè đầu làng: “Cô ơi, có thấy ai tên Hưng, sinh năm 1953, người Hà Nội, cao mét sáu tám, da trắng, răng khểnh, đi bộ đội năm 71 không?”. Những ánh mắt ái ngại, những cái lắc đầu - bà cũng chẳng dám kì vọng nhiều hơn.

Có kẻ nghe nói bà là mẹ liệt sĩ, liền bảo: "Tôi gọi hồn được đấy, cô đến đi." Bà bán đôi bông tai, theo lên tận rừng Trường Sơn, qua ba lần lên đồng. Cuối cùng, người ta đưa cho bà một túi xương nhỏ, bảo: “Hưng đây!”. Bà run run ôm về, dựng tạm bàn thờ. Một tuần sau, công an điều tra ra đó là... xương chó.
Bà đổ gục. Nhưng sáng hôm sau, bà lại dậy sớm, lại thắp nhang, lại đi tiếp. “Chừng nào chưa tìm thấy, là nó chưa chết,” bà nói.

Năm 1999, Nhà nước cho phép xây dựng Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn. Bà là một trong những người mẹ đầu tiên xin vào làm tình nguyện viên chăm sóc mộ. Không phải để lau lá khô, mà để dò từng nấm mộ vô danh. “Có thể Hưng ở đây. Biết đâu. Mình không làm, thì ai làm?”
Tóc bạc trắng, tay run rẩy, bà vẫn đi đều mỗi sáng, đọc tên từng bia mộ không người thân.

Một lần, có người bạn đồng đội cũ của Hưng đến tìm bà. Ông ấy cụt một chân, mang theo tấm hình cũ chụp năm 1971: Hưng cười, tay giơ cao khẩu AK, sau lưng là bờ sông. “Tôi nhớ hôm ấy, nó nói nhớ mẹ quá. Tối đó đại đội nó qua sông vào trận địa. Rồi cả đại đội hi sinh.”
Bà cầm bức ảnh suốt mấy năm. Rồi cất vào ngực áo, như mang trái tim con đi cùng.

Năm 2020, người ta dựng tượng đá trắng bên bờ sông Thạch Hãn. Dưới chân tượng là dòng chữ:
“Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm…”

Bà Thìn ngồi lặng bên bờ, mắt đã mờ, tai đã lãng, chỉ còn trái tim đau đớn vẫn mãnh liệt đập, chờ ngày con trai trở về. Bà lẩm nhẩm: “Mẹ đây con ơi. Nếu ở đâu đó con còn nghe được, thì về với mẹ…”
Nhưng Hưng không về. Cậu mãi mãi hòa mình vào sông núi.

Mỗi năm, đến tháng Bảy, người ta lại nhắc đến những người mẹ anh hùng như bà Thìn. Nhưng không ai biết, người mẹ ấy vẫn một mình đi tàu vào Quảng Trị, vẫn ngồi bên dòng sông đỏ ngầu ngày nào, vẫn mong chờ một phép màu giữa đời.

Người chiến sĩ chỉ ngã xuống một lần trong đời, nhưng người mẹ thì giành cả phần đời còn lại chỉ để gượng dậy. Âu cũng là nói lên cái giá cắt cổ của độc lập tự do vậy. Không chỉ là những con số đếm số lượng thương vong, đếm lượng khí tài sử dụng trên chiến trường, những khoản nợ… mà còn là những cậu thanh niên mười tám, đôi mươi tan xác giữa lòng sông, những người mẹ không dám tin con mình bị bom đạn giằng xé đến mức một mảng kí ức nho nhỏ cũng không còn, và trên hết, là những nỗi đau âm ỉ hàng chục năm mà người ta chỉ có thể xoa dịu, chứ không thể chữa lành được.

Address


Alerts

Be the first to know and let us send you an email when The Democratic Republic of Fecilitatem posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Shortcuts

  • Address
  • Alerts
  • Claim ownership or report listing
  • Want your business to be the top-listed Media Company?

Share