
18/08/2025
Đêm 18 tháng 8 năm 1945, đồn lính Nhật ở Hà Nội chẳng còn cái dáng vẻ kiêu hùng mà người ta vẫn tưởng tượng về “quân đội Thiên Hoàng”. Trời oi bức, ve sầu kêu ran, mà trong sân chỉ còn vài ngọn đèn dầu leo lét, hắt ánh sáng vàng đục lên những tấm tôn lụp xụp.
Đã ba ngày kể từ khi đài phát thanh từ Tokyo phát đi cái giọng run run của Nhật hoàng khi tuyên bố đầu hàng. Những kẻ còn ở lại Hà Nội nghe tin ấy, mặt kẻ nào cũng biến sắc. Cũng chưa đầy hai tuần kể từ ngày Hiroshima thành đống tro tàn, mới vài ngày kể từ khi Nagasaki biến mất sau ánh chớp trắng. Và mới chỉ vài tháng trước, đám sĩ quan từng hồ hởi đọc lệnh tổng động viên để giữ Okinawa, bắt lính quèn ở Bắc Kỳ hô hào khắp các làng rằng Đế quốc vẫn trường tồn. Giờ thì, chẳng còn gì ngoài khói thuốc lào quẩn quanh, tiếng ho sặc sụa và nỗi tuyệt vọng rỉ máu từ trong bụng mỗi người.
Trong doanh trại, gạo chất đống, toàn là thứ đã cưỡng chế của dân. Đám lính thừa biết, dân Hà Nội vẫn đang vật vờ ngoài kia, nhưng chính chúng nó nhận ra, nghĩ mẩm mình cũng chẳng khá hơn là mấy, nên cũng chẳng còn tâm trí mà nghĩ sâu xa làm gì. Vài sĩ quan say rượu gào lên hô hào anh em “hãy mổ bụng giữ lấy khí tiết võ sĩ”. Nhưng rồi sáng hôm sau, người ta chỉ thấy ông ta lăn quay trên chiếu, ruột phèo bày ra, còn đám lính thì lạnh lùng bỏ đi — chẳng ai muốn nối gót. Đế quốc chết rồi, giữ khí tiết để làm gì?
Tin tức từ bên ngoài len lỏi vào: Việt Minh huy động quần chúng ở Nhà hát Lớn, Thái Nguyên đã bị chiếm, cờ đỏ búa liềm phấp phới. Từ phương Bắc, quân Tưởng lục tục kéo xuống, vừa hăm hở vừa hằn học, cứ như cái đất Bắc Kỳ này mới chính là chiến lợi phẩm của họ. Lính Nhật thì thì thầm với nhau: chạy xuống Nam đi, lọt vào tay bọn Ăng-lê thì may ra còn đường về quê, chứ rơi vào tay Tưởng thì chỉ có chết.
Cái gọi là “Đế quốc Việt Nam” thì từ lâu đã chỉ còn là tấm bình phong rách nát. Trần Trọng Kim biến mất chẳng ai biết ở đâu, Bảo Đại thì nghe đâu đã kịp ngả theo Việt Minh để giữ chỗ chạy sang Pháp. Những tay “thần tử Đại Đông Á” còn sót lại chỉ vênh váo được trong mấy cuộc rượu. Đám quan chức quèn ở Bắc Bộ phủ thì vỗ vai đám lính Nhật và bảo nhẹ: “chúng mày toi rồi”.
Trong đồn, vài cậu lính trẻ mê sảng, suốt ngày lẩm bẩm tên người nhà ở Tokyo, Hiroshima, Nagasaki. Vài cậu khác lặng lẽ ôm mặt mà khóc, nhớ lại mẹ già, vợ trẻ chắc chẳng còn xác mà chôn. Một cậu tò mò cầm katana của thủ trưởng, sáng hôm sau đã thấy xác cậu treo lủng lẳng trong lán. Những người còn lại, thôi thì cắm cúi uống rượu, cắm cúi chờ ngày mai. Nếu tháng trước họ còn mơ tưởng sau chiến tranh sẽ về nước mở tiệm gốm, nuôi gà, dạy học… thì giờ, tất cả những gì họ cầu nguyện chỉ là: sống sót qua ngày.
Và rồi, sáng 19 tháng 8. Cả đồn tỉnh dậy trong thứ ánh sáng khác lạ. Ngoài kia, Bắc Bộ phủ rực rỡ cờ đỏ, người người chen vai nhau, hô vang tên “Hồ Chí Minh”. Họ bàng hoàng nhận ra mình vẫn còn bình an vô sự.
Kẻ vui vẻ thở phào, cho rằng thế là qua kiếp nạn. Kẻ thì tức tối bỏ chạy vào Nam, mong hội quân, mong “trả thù cho Nhật Hoàng” mà thực chất chỉ là tìm đường sống bằng cách liếm gót người Anh. Lại có những kẻ khác, dở khóc dở cười, bập bẹ thứ tiếng Việt bồi học được bấy lâu, tới gõ cửa các ủy ban cách mạng: “Xin… xin cho… tôi làm… cho cụ Hồ…”
Một đế quốc sụp đổ, những thân phận lạc loài, và một thành phố đổi màu chỉ trong một đêm.