06/08/2025
Một buổi sáng như bao buổi sáng khác từ mấy tháng cuối năm Giáp Thân (1944), trời Vĩnh Lại xám như cái nồi gang bị cọ đến mòn cả lòng, sương không đủ để gọi là lạnh, nhưng đủ để gợi lại vị sắt của máu đông vương trên môi mấy đứa trẻ vừa qua đời đêm qua.
Anh nông dân tên Cả Năng – không phải vì có chức có tước gì, mà là vì cả làng cả xóm đều đói, nên anh là người “cả gan” nhất dám lục xác người Nhật xem có gì ăn được – như lệ thường, lại dậy sớm. Mà “dậy” là nói theo thói quen, chứ từ đêm qua đến giờ, anh chỉ lim dim nằm chờ trời sáng để bắt đầu một ngày “kiếm ăn”.
Khác với cái kiếm ăn của dân buôn hồi còn trồng trọt được, cái nghề “kiếm ăn” của Cả Năng không cần vốn, cũng không cần chữ nghĩa gì cho mất công. Anh chỉ cần một bụng đói, một mắt tinh, và một cái gan không quá sợ ruồi nhặng. Mỗi sáng, anh xách một cái rổ – từng là rổ đựng lúa, nay chuyên để đựng xác chuột, rắn, cóc, chim, thậm chí cả một cẳng người nếu thịt còn chưa rữa. Cái gì nhặt được, đem về nướng sơ sơ, cho thêm ít muối – nếu còn muối – là thành món ăn “ngon, rẻ, còn bổ hay không thì tính sau”.
Cái chuyện lả đi giữa đường làng, nằm gọn vào một cái hố chôn tập thể mà bọn Nhật nhẫn tâm quẳng xác dân làng vào, rồi tỉnh dậy thấy mình nằm lẫn với hai ba cái xác khô queo, là chuyện… như cơm bữa. Chỉ tiếc, dạo này không còn cơm.
Buổi chiều cũng thế. Có khác chăng là nắng gắt hơn, ruồi nhiều hơn, và bụng thì đói hơn. Thành quả buổi trưa và tối – nếu có – là một món “đặc sản dân dã”: đầu mèo nướng, ruột chim bóp dấm, chân trẻ con nhặt về nấu cháo. Có món ăn nào hợp vệ sinh không? Không. Có món ăn nào ngon không? Có. Rất ngon. Vì đến lúc ấy, ăn cọng rơm cũng thấy như gân bò tiềm thuốc bắc.
Cả Năng cũng từng khóc vì đói. Từng ngồi bó gối nhìn xác con gái nằm co ro ngoài sân, lũ ruồi bu lấy hai con mắt lồi ra vì thiếu nước. Nhưng khóc mãi rồi cũng cạn nước mắt. Mắt anh giờ mòn như đá mài. Nhìn xác người nhiều đến nỗi, đôi lúc đang bới bới mà quên khuấy là mình đang moi một cái bụng từng biết gọi anh là “cha”.
“Người với người ăn thịt nhau” – Cả Năng từng nghe câu ấy trong một buổi mít-tinh. Nhưng anh nghĩ: đến cái đám đồng chủng đồng văn kia – bọn lính Nhật núp trong đồn – nếu đói quá mà nhai được mấy nhúm đay, thì chúng nó cũng chẳng khác mình là mấy. Cái đói làm con người ta thôi là người, mà thành thú, thành quỷ. Đến nỗi, anh từng thầm mong có cái máy bay nào từ tận Hoa Thịnh Đốn gửi cho vài chục tấn bom để chôn vùi luôn cả cái xứ Đông Dương thối nát này đi cho rồi.
Ấy thế mà, mỗi ngày, anh đều nghe mấy anh đội cờ đỏ về làng. Có hôm một người. Hôm sau năm người. Rồi mười người, trăm người. Đội nào cũng hô khẩu hiệu nghe như kinh Phật: “Giải phóng dân tộc! Đánh đổ đế quốc! Làm cách mạng ruộng đất!” Người làng – nếu còn được coi là người trong bất cứ loại định nghĩa nào – thì nghe như kẻ sắp chết đuối gặp cọc rơm. Không hiểu “cách mạng” là cái gì, chỉ nghe có thể được ăn, là theo liền.
Một hôm, đang lần mò kiếm xác, Cả Năng nghe tiếng loa đằng chùa vọng ra: “Toàn dân đứng dậy! Đánh Nhật, giành thóc về tay nhân dân!” Anh lết ra xem, thì bị đẩy ngay vào giữa đám người cờ đỏ đang chuẩn bị hô to: “Xông vào kho thóc nhà cụ Lý!”
Anh chưa kịp hiểu, thì phía bên kia – gia nhân cụ Lý và mấy anh đồn trưởng Nhật – cũng lao vào. Có gậy gộc, có dao phay, có cả… hàng nóng.
Trong hỗn loạn, Cả Năng bị xô. Bên nào xô thì cũng không ai biết. Xô lần này là lần thứ chín. Trước đó tám lần lả đi, khốn nạn thay Cả Năng đều toàn mạng. Lần này, anh nghĩ: “Thôi, ngỏm đi cho nhẹ người.”
Nhưng như một trò hề dở khóc dở cười của số phận, anh lại tỉnh dậy. Bên cạnh là một anh thanh niên đeo băng đỏ, cười như được mùa, dúi cho anh một cái thúng, rồi bảo:
— Bác vào kho lấy gạo đi. Kho của dân ta, gạo của dân ta đấy ạ.
Cả Năng, một “cựu thanh niên”, cụ thể là 25 tuổi theo như giấy tờ của cách mạng sau này, nghe thấy chữ “thóc”, chữ “gạo” mà tưởng như mình đã sang vũ trụ người hiền. Nhưng rồi Năng tự hỏi, âm ti gì mà khung cảnh y hệt làng mình thế này? Diêm Vương đâu? Sao lại toàn gương mặt quen thế này, chẳng nhẽ… cả làng ngỏm rồi à?
Mấy mươi năm sau, người ta không còn gọi anh là Cả Năng nữa, mà là ông Năng, Đảng viên lão thành. Anh từng thấy cụ Hồ kêu gọi bình dân học vụ, kêu gọi tăng gia sản xuất, từng thấy Pháp quay lại, rồi thấy Pháp cút. Từng được chia ruộng, từng đứng giữa trận địa súng máy phòng không bắn máy bay Mỹ, từng tiễn thanh niên làng vào Nam, lên biên giới kháng chiến, rồi… cũng tự đi từng nhà an ủi gần như cả làng khi đám thanh niên ấy mãi không trở về. Từng treo ảnh Hồ Chủ tịch trong gian thờ chính, từng đếm tem phiếu từng tháng để nuôi con. Từng ngỡ là đời sang trang, rồi lại thấy bao cấp, rồi đổi mới, rồi thị trường.
Nay, anh có vợ, có con, có cháu. Nhưng mỗi lần ngồi quây quần với gia đình, với một bữa cơm no đủ, anh lại thầm nghĩ: “Mình đang mơ à?”
Không. Không phải là mơ. Là thật. Là một giấc mơ có thật, mà trong giấc mơ ấy, anh từng nhai đầu chuột để sống, từng nằm giữa xác người mà không phân biệt nổi đâu là ruột mình, đâu là ruột người ta.
Một giấc mơ đẫm mồ hôi, máu và nước mắt của gần chục thế hệ. Nhưng cũng đầy hy vọng, như một mầm lúa mọc lên từ tro tàn.
Một giấc mơ mang tên: Việt Nam.