14/03/2025
TRẬN CHIẾN CHỐNG QUÂN TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC TẠI GẠC MA: CẦN HIỂU ĐÚNG VÀ ĐỦ
Ai đánh mất, ai bảo vệ Trường Sa ?
Từ 1956 - 1975, quần đảo Trường Sa thuộc sự quản lý của Chính quyền ngụy (VNCH). Năm 1963, Hải quân Việt Nam Cộng hòa đưa tàu ra dựng bia ở một số đảo, nhưng sau đó rút đi và không đồn trú lâu dài. Năm 1970, Philippines đã tổ chức chiếm giữ đảo Song Tử Đông, đảo Thị Tứ, đảo Loại Ta mà không gặp một phản kháng nào
Năm 1956, Đài Loan chiếm đóng đảo Ba Bình (đây là đảo lớn nhất quần đảo Trường Sa) . Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã không có hành động gì để phản đối. Thậm chí, Nhân dịp lễ Song Thập 10/10 của Trung Hoa Dân quốc (tức Đài Loan), Ngô Đình Diệm cho quân rút khỏi đảo Ba Bình, Đài Loan giành quyền kiểm soát hòn đảo mà không cần phải nổ súng. Ngày nay, đảo Ba Bình tiếp tục được Đài Loan mở rộng trái phép và có một đường băng cho phép máy bay vận tải cất, hạ cánh.
Sau ngày Giải phóng miền Nam, vào tháng 9/1975, Bộ Quốc phòng đã điều động lực lượng đóng giữ, thiết lập chủ quyền tại 5 đảo nổi tại Trường Sa gồm: Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa.
Năm 1978, Việt Nam đóng giữ thêm 4 đảo nổi: An Bang (10/3/1978), Sinh Tồn Đông (15/3/1978), Phan Vinh (30/3/1978), Trường Sa Đông (4/4/1978).
Chiến đấu chống quân xâm lược tại Gạc Ma
Bước vào cuối những năm 1980, Việt Nam gặp muôn vàn khó khăn, kinh tế khủng hoảng trầm trọng, bị bao vây cấm vận và đang căng mình trên hai cuộc chiến bảo vệ biên giới ở hai đầu đất nước. Trong bối cảnh đó, Trung Quốc đã có nhiều hành động khiêu khích quân sự và bộc lộ dã tâm tiến xuống Trường Sa - nơi họ chưa từng hiện diện trong lịch sử.
Năm 1986, Trung Quốc đưa các tàu quân sự giả dạng tàu cá xuống trinh sát các bãi đá ngầm, lén lút đặt một số cột bê tông để “đánh dấu chủ quyền”. Hải quân Trung Quốc liên tục cho tàu chiến giả dạng tàu dân sự để khảo sát, trinh sát thăm, âm mưu xâm chiếm các đảo chìm.
Trước những hoạt động leo thang có chủ đích của Trung Quốc, ngày 6-11-1987, Bộ Quốc phòng chính thức phê chuẩn kế hoạch tác chiến bảo vệ chủ quyền Biển đảo 1987-1990 và ban hành Mệnh lệnh số 1679/ML-QP, giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân đưa lực lượng ra giữ các bãi cạn, không chờ xin chỉ thị của cấp trên. Toàn quân chủng bước vào chiến dịch “CQ-88″ (Chủ quyền – 1988) với ý chí và quyết tâm mạnh mẽ. Chủ trương của Việt Nam là chỉ sử dụng các lực lượng vận tải và công binh để thực hiện đóng quân bảo vệ chủ quyền, không gây xung đột để Trung Quốc tạo cớ đánh chiếm toàn bộ quần đảo, bảo vệ an toàn lực lượng của Việt Nam trên quần đảo – vốn vẫn còn đang rất mỏng,
Bằng sự nỗ lực, quyết tâm và hy sinh phi thường, từ đầu năm 1987 đến đầu năm 1988, Việt Nam đóng giữ, khẳng định chủ quyền trên 8 đảo và đá: đảo chìm Thuyền Chài (5/3/1987), đá Tây (2/12/1987), Tiên Nữ (25/1/1988), đá Lát (5/2/1988), đá Đông (19/2/1988), đá Lớn (20/2/1988), Tốc Tan (27/2/1988), Núi Le (28/2/1988).
Về phía Trung Quốc, ngày 22/1/1988, nước này đưa 1 tàu hộ vệ tên lửa, 1 tàu khu trục, 1 tàu đổ bộ, 1 tàu chở dầu và một số tàu hậu cần xuống phía Nam, bắt đầu xâm lược quần đảo này. Ngày 26/1/1988, hải quân Trung Quốc chiếm đóng Đá Chữ Thập rồi nhanh chóng đưa lực lượng xuống củng cố, lấn chiếm một vài đảo chìm, rặng san hô khác. Đầu tháng 3/1988, Hải quân Trung Quốc huy động lực lượng lớn thuộc 2 hạm đội Nam Hải và Đông Hải xuống khu vực quần đảo Trường Sa với ý đồ dùng vũ lực nhằm chiếm tiếp cụm tam giác 3 bãi ngầm Gạc Ma – Cô Lin – Len Đao.
Về phía ta, lực lượng Hải quân tại Trường Sa chỉ có trong tay một số tàu vận tải, trang bị của bộ đội chủ yếu là vũ khí hạng nhẹ, lực lượng phần lớn là công binh. Đứng trước lực lượng tàu chiến đông đảo của địch, ta tiếp tục kiên cường sử dụng các lực lượng hiện có nhanh chóng đóng giữ các đảo chìm, bãi cạn, cắm cờ, ngăn chặn quân xâm lược lấn chiếm. Đến ngày 14/3/1988, quân Trung Quốc tiếp tục sử dụng vũ lực cưỡng chiếm các đảo chìm, bãi ngầm. Diễn biến tóm tắt như sau:
TẠI GẠC MA
Ngày 14/3/1988, Trung Quốc thả 3 xuồng nhôm chở 40 binh lính đổ bộ lên Gạc Ma để giật cờ Việt Nam. Thấy bộ đội ta cương quyết bảo vệ cờ, lính Trung Quốc nổ súng bắn thiếu úy Trần Văn Phương, đâm trọng thương binh nhất Nguyễn Văn Lanh, dùng súng AK tấn công bộ đội Lữ đoàn 146, Công binh 83 đang giữ cờ Tổ quốc.
Không ép được lực lượng ta rút khỏi Gạc Ma, lính Trung Quốc rút về tàu. Sau đó, tàu hộ vệ 502, 531 của Trung Quốc dùng hỏa lực mạnh bắn thẳng vào tàu HQ-604, gây nhiều thương vong cho ta, tàu bốc cháy và chìm dần, nhiều chiến sĩ chìm cùng tàu.
Cùng lúc đó, nhiều loại pháo hạm từ tàu chiến Trung Quốc hạ nòng, điên cuồng trút đạn lên Gạc Ma vào đội hình công binh chỉ có cuốc xẻng, xà beng và 3 khẩu AK, khiến bộ đội ta thương vong nặng. Trung Quốc sau đó đổ quân, chiếm giữ Gạc Ma.
TẠI CÔ LIN
Khi thấy tàu HQ-604 bị tàu địch bắn cháy chìm dần, thiếu tá Vũ Huy Lễ, thuyền trưởng tàu HQ-505 ra lệnh cho tàu nhổ neo, tiến thẳng về Cô Lin ủi bãi. Thấy tàu ta áp sát Cô Lin, tàu 531 của Trung Quốc quay sang bắn phá dữ dội. Tàu HQ-505 bị hư hỏng nặng, các bộ, chiến sĩ trên tàu bị thương nhiều, nhưng quyết bám trụ, vừa sửa tàu, vừa tiến. Tàu trườn lên bãi Cô Lin được 2/3 thân thì bốc cháy nhưng cả con tàu HQ-505 đã trụ vững, trở thành lá chắn sống bảo vệ chủ quyền. Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ cùng 9 chiến sĩ tiếp tục bám trụ, chiến đấu kiên quyết bảo vệ đá Cô Lin và thả xuống cao su về phía HQ-604 và đá Gạc Ma để cứu chữa thương binh, tử sĩ.
TẠI LEN ĐAO
8h20 ngày 14/3, tàu của Trung Quốc bắn chìm tàu HQ-605 của ta. Cán bộ, chiến sỹ của tàu HQ-605 phải dìu nhau bơi về đảo Sinh Tồn Tại Len Đao, sau trận chiến Gạc Ma, ta tiếp tục đấu tranh kiên quyết, quay lại cắm cờ ở Len Đao, Trung Quốc cho 7 tàu chiến và các xuồng nhỏ bao vây. Nhưng lúc này, máy bay chiến đấu Su-22M của Việt Nam đã hiện diện trên quần đảo. Thấy máy bay chiến đấu của Việt Nam, ngay lập tức phía tàu Trung Quốc tản ra. Bộ đội Việt Nam tiếp tục xây dựng công sự và bảo vệ vững chắc Len Đao cho đến ngày hôm nay.
Như vậy, sau ngày 14/3/1988, Việt Nam đóng giữ thêm đá Len Đao và đá Cô Lin.
Ngày 15/3/1988, chỉ một ngày sau trận đánh, Việt Nam cho quân đóng giữ Đá Núi Thị, một vị trí rất quan trọng ở cụm đảo Nam Yết. Ngày 16/3, Việt Nam tiếp tục cho quân đóng giữ đảo Đá Nam. Tổng cộng trong năm 1988, Việt Nam đóng giữ thêm 11 đảo chìm. Tháng 11/1988, Hải quân Việt Nam bắt đầu xây dựng, bảo vệ cụm nhà dàn DK1.
Như vậy, đến cuối thập niên 1980, Việt Nam đã kiểm soát 21 đảo, cồn và rạn san hô. Từ 1990 đến 2008, Việt Nam kiểm soát thêm 10 điểm, từ 2008 đến 2014 thì kiểm soát thêm 18 điểm tại quần đảo.
Trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn, lạc hậu, bị cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế, quân sự, nhưng Việt Nam đã chủ động đóng giữ, anh dũng bảo vệ các đảo nổi và đảo chìm, trong đó nhiều đảo lớn, có tiềm năng phục vụ mục đích quân sự và phát triển kinh tế. Tuy không thể ngăn chặn Trung Quốc chiếm Gạc Ma và một số đá, đảo chìm khác, nhưng có thể khẳng định rằng chiến dịch CQ88 đã thắng lợi, làm thất bại âm mưu chiếm đóng toàn bộ Trường Sa của Trung Quốc.