Bộ môn Dược liệu - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh

Bộ môn Dược liệu - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Đây là fanpage chính thức của Bộ môn Dược liệu, khoa Dược, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh

15/11/2024

[CUỘC THI KHOẢNH KHẮC THẦY VÀ TRÒ]

Họ và tên: Nguyễn Minh Tú - Khoa Dược

—————————————————
💯 Cách thức tính điểm:
Điểm bình chọn chiếm 30% tổng điểm của bài dự thi, các lượt bình chọn đối với các sản phẩm dự thi trên trang mạng xã hội (Fanpage) của Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh được tính cụ thể như sau:
1 lượt Thích/Thả tim/Thương thương= 01 điểm
1 lượt Chia sẻ = 02 điểm
Sản phẩm dự thi có điểm bình chọn cao nhất sẽ nhận được giải thưởng phụ đến từ Cuộc thi.
‼️ Lưu ý: Chia sẻ bài viết ở chế độ công khai.

19/02/2024

Không gian triển lãm và chuyển nhượng tác phẩm nghệ thuật tại Việt Nam.

BM phát hiện 1 trang facebook Trung tâm Sách Y Dược TpHCm đang bán sách Nhận thức cây thuốc và dược liệu với hình ảnh mà...
10/01/2024

BM phát hiện 1 trang facebook Trung tâm Sách Y Dược TpHCm đang bán sách Nhận thức cây thuốc và dược liệu với hình ảnh màu, giá bán 320k. Đây là sách giả vi phạm bản quyền, Sách Nhận thức Dược liệu và cây thuốc của BM chỉ in trắng đen để giá thành phù hợp với sinh viên. Hình ảnh màu minh họa cây thuốc được cập nhật trên trang web mplant.ump.edu.vn. Xin thông báo với các bạn quan tâm đến sách của BM.

Merry christmas!🥳
15/12/2023

Merry christmas!🥳

Có thể bạn đã biếtTheo thống kê "Tiếp cận các nguồn gen và chia sẻ lợi ích" (của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới - ...
03/09/2023

Có thể bạn đã biết

Theo thống kê "Tiếp cận các nguồn gen và chia sẻ lợi ích" (của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới - IUCN), thì tại Việt Nam hiện có gần 12.000 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc hơn 2.256 chi, 305 họ (chiếm 4% tổng số loài, 15% tổng số chi, 57% tổng số họ thực vật trên thế giới); 69 loài thực vật hạt trần; 12.000 loài thực vật hạt kín; 2.200 loài nấm; 2.176 loài tảo; 481 loài rêu; 368 loài vi khuẩn lam; 691 loài dương xỉ và 100 loài khác. Trong đó có 50% số loài thực vật bậc cao là các loài có tính chất bản địa, các loài di cư từ Hymalia-Vân Nam-Quý Châu xuống chiếm 10%, các loài di cư từ Ấn Độ-Myanma sang chiếm 14%, các loài từ Indonesia-Malaysia di cư lên chiếm 15%, còn lại là các loài có nguồn gốc hàn đới và nhiệt đới khác.

- Khu hệ thực vật bản địa Bắc Việt Nam – Nam Trung Hoa bao gồm họ Thiên thảo (Rubiaceae), Thầu Dầu (Euphorbiaceae) , họ Re (Lauraceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Dâu Tằm (Moraceae), họ Cam (Rutaceae), họ Lan (Orchidaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Thị (Ebenaceae), họ Bồ hòn (Sapindaceae), họ Xoan (Meliaceae), họ Xoài (Anacardiaceae),... Nhóm này phong phú hơn cả. Tuy nhiên vì khác biệt về địa hình, khí hậu, thủy văn và thổ nhưỡng nên hệ thực vật bản địa Việt Nam từ Bắc xuống Nam rất đa dạng với nhiều thảm thực vật khác nhau.

- Từ phía Tây Bắc xuống : Là luồng thực vật á nhiệt đới và ôn đới của khu hệ thực vật Himalaya - Vân Nam - Quý Châu với các họ đặc trưng như Họ Re (Lauraceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Kim giao (Podocarpaceae), họ Gấm (Gnetaceae), họ Chè (Theraceae), họ Tích (Aceraceae), họ Đỗ quyên (Ericaceae),... Hầu hết loài cây trong các họ này là cây lá rộng thường xanh có nguồn gốc của hệ thực vật á nhiệt đới và ôn đới.

- Từ phía Nam lên: Là luồng thực vật có quan hệ gần gũi với khu hệ thực vật Malaysia - Indonesia với đặc trưng cây họ Dầu (Dipterocarpaceae). Những loài cây trong họ Dầu bao gồm cả những loài cây thường xanh và một số loài cây rụng lá để thích nghi với những vùng khô hạn, hình thành nên rừng thưa cây họ Dầu, điển hình là rừng khộp ở Đắc Lắc, Gia Lai, …

- Từ phía Tây và Tây Nam sang: Là luồng thực vật thân thuộc với khu hệ thực vật An Độ - Myanmar với các họ đặc trưng: Họ Tử vi (Lythraceae), họ Bàng (Combretaceae), họ Tung (Datiscaceae), họ Gòn (Bombacaceae), họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae),... Những họ này có hầu hết các loài cây rụng lá trong mùa khô, hình thành các kiểu rừng kín nửa rụng lá và rựng lá ở việt Nam.

- Một số loài được di thực bởi con người như: cao su thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), cà phê thuộc họ Thiên thảo (Rubiaceae) hoặc một số loài được trồng để cho hoa, làm cảnh. Một số trường hợp đến từ rất xa như Dưa hấu họ Bầu bí có nguồn gốc từ Tây Phi.

Trong số đó, các loài dùng làm thuốc theo y văn không ngừng tăng lên theo thời gian. Thiền Sư Tuệ Tĩnh với bộ “Nam Dược Thần Hiệu" viết về 499 vị thuốc Nam, trong đó có 241 vị thuốc có nguồn gốc từ thực vật. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác với bộ “Lĩnh Nam Bản Thảo” gồm 2 quyển, quyển thượng chép 496 kế thừa của Tuệ Tĩnh, quyển hạ ghi 305 vị bổ sung về công dụng hoặc mới phát hiện thêm.

Thời kỳ Pháp thuộc, các nhà thực vật học Phương Tây đã thống kê trên toàn Đông Dương có 1350 cây thuốc thuộc 160 họ thực vật khác nhau. Mãi đến khi miền Bắc được giải phóng (1954), Việt Nam mới có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc sưu tầm, nghiên cứu nguồn tài nguyên cây thuốc.

Năm 1996, Thầy Võ Văn Chi đã công bố hệ thực vật làm thuốc ở Việt Nam có 3.200 loài (kể cả nấm). Đến năm 2005, Viện Dược Liệu ghi nhận được ở Việt Nam có hơn 3.984 loài làm thuốc thuộc 307 họ của 9 ngành và nhóm thực vật bậc cao, thực vật bậc thấp và Nấm; trong đó gần 90% là cây thuốc mọc tự nhiên, tập trung chủ yếu trong các quần xã rừng, chỉ 10% là được trồng. Mới nhất, theo sách “Từ điển cây thuốc Việt Nam” của Thầy Võ Văn Chi (2012) thì số lượng loài thực vật được dùng làm thuốc là 4.700. Tuy nhiên, cần lưu ý là đối với một số vị thuốc có nguồn gốc ôn đới và hàn đới thì nguồn cung cấp chính vẫn là nhập khẩu.

Nguồn tài liệu tham khảo:
1. Trung tâm dữ liệu Thực vật Việt Nam
2. Báo Sức khỏe và Đời sống

Vào tháng 5 năm 2023, bài báo của nhóm tác giả Wang và các cộng sự được đăng trên Nature Communication chỉ ra hợp chất l...
28/05/2023

Vào tháng 5 năm 2023, bài báo của nhóm tác giả Wang và các cộng sự được đăng trên Nature Communication chỉ ra hợp chất lục indocyanin ức chế STT3B có thể được sử dụng để giải độc tố α-amanitin trong các nấm độc. Các báo cáo cho thấy đa số các ca tử vong do ngộ độc nấm trên thế giới gây ra bởi độc tố từ các loài trong chi Amanita, đặc biệt là loài Amanita phalloides.

Lục indocyanin vốn là một chỉ thị màu có khả năng phát huỳnh quang, được sử dụng trong các xét nghiệm y khoa về tim, chức năng gan, dịch tiêu hóa, nhãn khoa và chụp tuần hoàn não. Hợp chất này ban đầu được ứng dụng như chất nhuộm màu trong nhiếp ảnh và đến năm 1957 được sử dụng tại Khoa Lâm Sàng Mayo, trước khi được FDA cấp phép sử dụng trong chẩn đoán chức năng gan và sau đó là tim.

Về mặt lý hóa, đây là một hợp chất thú vị vì nó hấp thụ trong vùng 600 nm - 900 nm và phát xạ trong vùng ánh sáng có bước sóng 750 nm - 960 nm, gần vùng hồng ngoại. Do khoảng trùng lấp rộng giữa hấp thụ và phát xạ nên lục indocyanin có thể hấp thụ lấy chính ánh sáng mà mình phát xạ. Cực đại hấp thu tùy thuộc vào dung môi hòa tan.

Nghiên cứu mới này có thể mở đường cho việc phát triển các thuốc giải độc đặc hiệu cho nhóm nấm trên.

Nguồn: https://www.nature.com/articles/s41467-023-37714-3

Ngày nay, nhu cầu sử dụng các gia vị tạo ngọt không hoặc ít calo trở nên phổ biến trên thế giới. Việc tiêu thụ thực phẩm...
23/04/2023

Ngày nay, nhu cầu sử dụng các gia vị tạo ngọt không hoặc ít calo trở nên phổ biến trên thế giới. Việc tiêu thụ thực phẩm giàu năng lượng với tần suất lớn trong các bữa ăn có thể góp phần gây nên một số bệnh chuyển hóa mãn tính như đái tháo đường, rối loạn lipid máu, béo phì,… Có hai nhóm chất tạo ngọt chính được sử dụng:

- Chất tạo ngọt tổng hợp, thường là những hợp chất có độ ngọt rất cao, thường không làm tăng calo tiêu thụ. Do độ ngọt rất cao nên lượng sử dụng thường rất ít do đó nếu có chứa năng lượng thì việc sử dụng cũng ít làm tăng calo.

- Chất tạo ngọt có nguồn gốc tự nhiên: bên cạnh các loại đường phổ biến như đường trong trái cây, mật ong hay đường mía – chứa năng lượng thì vẫn có một số hợp chất khác, thường là các glycosid, tạo cảm giác ngọt nhưng lại không làm tăng năng lượng. Bên cạnh đó, còn có một số chất làm gia tăng cảm giác ngọt - ví dụ polyphenol của actisô, làm tăng vị ngọt của nước; hay làm điều chỉnh độ ngọt, ví dụ, miraculin trong quả thần kỳ có thể làm cho các hợp chất có tính chua ăn vào sau đó đều ngọt.

Điều gì làm nên vị ngọt của một hợp chất?

Các nghiên cứu về tính chất lý hóa liên quan đến độ ngọt là một quá trình phức tạp. Độ ngọt của một hợp chất không chỉ phụ thuộc vào cấu trúc hóa học mà còn liên quan đến tính tan (trong nước), pH môi trường (ảnh hưởng đến dạng tồn tại của các nhóm chức hóa học), nhiệt độ, độ bền của các chất,…Có thể xem xét sucrose – hợp chất rất phổ biến, khi hòa tan vào nước, độ ngọt giảm dần theo thời gian vì phân tử đường đôi này phân hủy thành glucose và fructose. Vị ngọt của fructose có thể đậm hơn nhưng cảm giác này biến mất nhanh sau đó. Độ ngọt thường được đánh giá lấy sucrose làm chuẩn, tức là 1. Tuy nhiên, các giá trị này có thể khác biệt tùy vào tài liệu hoặc cách tính toán. Một cách tính toán phổ biến là so sánh nồng độ dung dịch (theo khối lượng, hoặc mol). Ví dụ, giả sử dung dịch sucrose ở nồng độ thấp nhất cho cảm giác ngọt là 1%; một hợp chất X có ngưỡng ngọt ở 0,1% sẽ được xem như ngọt gấp 10 lần sucrose. Bên cạnh đó, bản chất hóa học khác nhau giữa các hợp chất đã tạo ra những vị ngọt khác nhau. Các đồng phân cũng cho những tính chất khác nhau, ví dụ D-asparagin có vị ngọt trong khi đồng phân L lại không.

Hiện nay, cơ chế ở cấp độ phân tử đã được nghiên cứu, theo đó, các nhà khoa học có thể đưa ra mô hình dự đoán độ ngọt của một hợp chất – tiền đề để tổng hợp dùng trong ngành công nghiệp thực phẩm. Ở nhóm có nguồn gốc tự nhiên, chất tạo ngọt có thể được cung cấp dưới dạng chiết xuất toàn phần hoặc đã tinh chế. Chi phí là một vấn đề đáng quan tâm, do đó các dược liệu chứa hàm lượng chất tạo ngọt đủ cao mới khả dĩ để sử dụng ở quy mô rộng. Ngoài ra các hợp chất này cũng có thể được sản xuất từ nguồn khác, ví dụ lên men, hoặc làm nguyên liệu để bán tổng hợp.

Theo tiếng Latin, dulcis có nghĩa là ngọt, do đó, một số hợp chất hoặc loài thực vật có sử dụng gốc từ dulci- này.

Dưới đây là một số chất tạo ngọt có nguồn gốc từ thực vật.

Trong hạt của cây Cải mù tạt trắng, Sinapis alba, tức dược liệu Bạch giới tử (Semen Sinapis albae) có chứa  sinalbin thu...
22/04/2023

Trong hạt của cây Cải mù tạt trắng, Sinapis alba, tức dược liệu Bạch giới tử (Semen Sinapis albae) có chứa sinalbin thuộc nhóm các hợp chất glucosinolat thường có trong các gia vị cay như mù tạt. Sinalbin bị thủy phân bởi enzym myrosinase để tạo thành dầu mù tạt là 4-hydroxybenzyl isothiocyanat – một chất có màu vàng, vị cay nóng, gây đỏ hay phồng da.

Ở một loài thực vật khác cùng họ Cải, Brassica nigra (tên trước đây Sinapis nigra), một glucosinolat có trong hạt là sinigrin được enzyn myrosinase chuyển thành allyl-isothiocyanat khi bị tổn thương hoặc nghiền. Hợp chất không màu allyl-isothiocyanat là thành phần chính có trong dầu mù tạt đen. Sinigrin cũng có mặt trong một số loài khác họ Cải như Bông cải xanh, Bắp cải...

Vị cay của mù tạt trắng ít nồng hơn mù tạt đen bởi 4-hydroxybenzyl isothiocyanat kém bền và nhanh chóng bị phân hủy thành các hợp chất không cay là 4-hydroxybenzyl alcol và ion thiocyanat.

Sự phân biệt mù tạt trắng và mù tạt đen có thể đến từ màu sắc hạt của hai loài cây trên.

Xem thêm về dược liệu Bạch giới tử: https://mplant.ump.edu.vn/index.php/bach-gioi-tu-sinapis-alba-brassicaceae/

Vừa rồi có bạn nhắn tin cho Trang hỏi về cách định tính saponin trong Thiên môn đông và Mạch môn đông, hai dược liệu thư...
07/02/2023

Vừa rồi có bạn nhắn tin cho Trang hỏi về cách định tính saponin trong Thiên môn đông và Mạch môn đông, hai dược liệu thường được sử dụng để trị ho trong y học cổ truyền. Xin trả lời bạn như sau:

Đầu tiên, để làm rõ thêm vấn đề, cũng như bất cứ việc nghiên cứu, phân tích một nhóm hợp chất bất kỳ trong dược liệu, chúng ta cần tự đặt cho mình các câu hỏi như sau:

- Mục đích của việc phân tích: để kiểm nghiệm hay nghiên cứu, tìm hiểu. Nếu là kiểm nghiệm thì dược liệu của chúng ta ở dạng gì: đối với nguyên liệu thì là dạng tươi, thu hái tại hiện trường hay dạng khô mua trên thị trường (xác định nhầm lẫn, giả mạo), đối với thành phẩm thì đó là thuốc bột, viên nang, cao lỏng,...ví dụ trong trường hợp của bạn ấy có thể là Thiên môn bổ phổi chẳng hạn. Nếu là để nghiên cứu thì đây là loài đã được nghiên cứu chưa để tìm trong tài liệu, nghiên cứu động thái tích lũy theo thời gian thu hái, địa điểm thu hái, giống nuôi trồng hay tìm một hợp chất mới,...

- Điều kiện của phòng thí nghiệm: thí nghiệm tại hiện trường (ngay tại điểm thu hái) thì cần phương pháp nhanh, đơn giản; phòng thí nghiệm có sẵn các trang thiết bị, thuốc thử nào: kính hiển vi, thuốc thử phản ứng hóa học, bản mỏng, hệ thống sắc ký lỏng,...để lựa chọn phương pháp phù hợp.

- Đối tượng phân tích: đây là dược liệu mới hay dược liệu đã được nghiên cứu nhiều về thành phần cần xác định (ví dụ trong trường hợp đó đã là một dược liệu được nghiên cứu nhiều về alkaloid chẳng hạn nhưng nếu chúng ta muốn chuyển hướng sang nghiên cứu về saponin thì cũng gọi là mới). Nếu là dược liệu đã được nghiên cứu nhiều, trong trường hợp này là Thiên môn đông (Asparagus cochinchinensis) và Mạch môn đông (Ophiopogon japonicus) thì đầu tiên ta nên tra trong dược điển các nước, sau đó đến các tài liệu sách vở, bài báo nghiên cứu, giáo trình của Thầy, Cô. Nhóm hợp chất mong muốn định tính là gì: flavonoid, alkaloid, saponin,... Các hợp chất trong dược liệu đó có mang đặc điểm chung với nhóm hợp chất của mình hay đặc biệt (ví dụ, một số alkaloid lại mang tính acid) để lựa chọn phương pháp định tính phù hợp.

Từ những vấn đề đã được làm rõ trên, chúng ta chọn phương pháp chiết phù hợp, ví dụ đối với saponin thì sử dụng cồn 70%, hoặc chiết cao cồn toàn phần, sau đó thêm nước, lắc phân bố với các dung môi có độ phân cực khác nhau, chọn phân đoạn n-butanol để định tính, hoặc thủy phân cao cồn toàn phần, thêm nước lắc phân bố với cloroform để thu được phần aglycon. Sau đó, tùy vào các yêu cầu đã đặt ra và điều kiện phòng thí nghiệm mà chọn phương pháp định tính phù hợp. Đối với dược liệu, ngay cả việc quan sát cảm quan cũng giúp ích rất nhiều trong việc nhận diện, đánh giá. Chúng ta có thể loại trừ ngay các dược liệu bị nhầm lẫn giả mạo. Tuy nhiên, để biết được một dược liệu có bị chiết hết hoạt chất hay chưa thì có thể làm thêm các phép thử: chất chiết được trong dược liệu hay định tính với sắc ký lớp mỏng.

Đối với yêu cầu định tính saponin, Mạch môn đông có trong chuyên luận Dược Điển Việt Nam V với phần định tính bằng phương pháp sắc ký lớp mỏng, chúng ta có thể tham khảo. Tuy nhiên, việc định tính này yêu cầu phải có dược liệu chuẩn hoặc chuẩn chất đánh dấu. Mặc dù trong chuyên luận dược điển không đề cập trực tiếp nhóm hợp chất được định tính nhưng chúng ta có thể suy luận thông qua chuẩn chất đánh dấu (trong trường hợp này là ophiopogonin D), hệ dung môi khai triển, phương pháp phát hiện hoặc cách chiết dược liệu. Dược Điển Trung Quốc 2015 và Dược Điển Châu Âu 10.0 cũng định tính Mạch môn đông bằng sắc ký lớp mỏng nhưng đối tượng là nhóm hợp chất khác (β-sitosterol, methylophiopogonanon A,...).

- Để trả lời câu hỏi tương tự cho Thiên môn đông, chúng ta có thể tham khảo chuyên luận Thiên môn đông trong Dược Điển Nhật 18, phần định tính bằng sắc ký lớp mỏng có mô tả về Rf, màu sắc các vết hiện sau khi làm phản ứng với thuốc thử.

Xin trân trọng cám ơn các đóng góp, góp ý, câu hỏi được gửi đến Trang!
P/S: Xin đính chính Trang mang nghĩa Page, không phải tên riêng.

Chào xuân Quý Mão.Chào Trường DượcĐón Tết con MèoĐón Thành công.Hội xuân Khoa Dược  #2023.Mâm ngũ quả của BM Dược liệu.
06/01/2023

Chào xuân Quý Mão.
Chào Trường Dược
Đón Tết con Mèo
Đón Thành công.

Hội xuân Khoa Dược #2023.
Mâm ngũ quả của BM Dược liệu.

Tết Nguyên đán sắp đến, hãy cùng tìm hiểu về tên khoa học của một số loại hạt thường được sử dụng.
02/01/2023

Tết Nguyên đán sắp đến, hãy cùng tìm hiểu về tên khoa học của một số loại hạt thường được sử dụng.

LidocainVào thập niên 1930, nhà khoa học Hans von Euler, người đạt giải Nobel Hóa học năm 1929 cho công trình về lên men...
17/12/2022

Lidocain

Vào thập niên 1930, nhà khoa học Hans von Euler, người đạt giải Nobel Hóa học năm 1929 cho công trình về lên men, mong muốn nghiên cứu mối liên hệ của enzym, gen và cơ chế thật sự của di truyền ở cấp độ phân tử. Nhóm nghiên cứu của ông trong lúc tìm hiểu sự khác biệt giữa lúa mạch thông thường và giống bị đột biến về khả năng kháng sâu bệnh đã phân lập được một hợp chất alkaloid khung indol và đặt tên cho nó là gramin, dựa theo tên họ Gramineae (ngày nay là họ Poaceae).

Tại phòng thí nghiệm của Euler và Chelpin, Tiến sĩ Holger Erdtman đã thực hiện việc tổng hợp một số hợp chất, trong đó có một chất là đồng phân của gramin, và đặt tên cho nó là isogramin. Ông thậm chí đã nếm hợp chất này và cảm thấy khả năng gây tê của nó, đặc tính không có ở gramin. Erdtman cùng với học trò của mình là nhà hóa học trẻ tuổi Nils Löfgren đã tiếp tục việc tổng hợp các hợp chất tương tự nhưng không tìm thấy hợp chất nào có dược tính có thể so sánh với procain, một hợp chất gây tê điển hình ở thời điểm đó. Tuy nhiên, tác dụng gây tê của procain cũng khá ngắn. Tất cả công việc tổng hợp được thực hiện tại phòng thí nghiệm Euler - Chelpin, nơi sau đó được tiếp quản bởi người con của Euler là Ulf von Euler, người đạt giải Nobel 1970 cho khám phá noradrenalin và prostaglandin. Chuỗi các nghiên cứu tổng hợp nằm trong một kế hoạch mang tính hệ thống tìm ra thuốc gây tê của các nhà khoa học tại Thụy Điển. Erdtman đã rời khỏi nhóm nghiên cứu vào năm 1939 để đi dạy và về sau dù trở về nhưng không còn tham gia vào hướng nghiên cứu này nữa.

Một nhóm nghiên cứu khác (Orechoff và Norkina) tại Nga vào năm 1935 đã phân lập được một alkaloid từ loài Sậy núi Arundo donax và đặt tên là donaxin. Việc phân lập bắt nguồn từ lý do họ quan sát thấy lạc đà không ăn loài Sậy núi này. Tuy nhiên, nhóm không tiếp tục nghiên cứu theo hướng dược lý gây tê. Thú vị thay, donaxin chính là gramin.

Trở lại với Löfgren, vài năm sau ông tiếp tục công việc nghiên cứu tổng hợp chất gây tê và đặt tên cho một hợp chất là LL30, với ý nghĩa LL là tên của ông và người trợ lý Lundqvist - đã trực tiếp thử nghiệm tác dụng của LL30 trên chính mình và đánh giá khả năng gây tê kéo dài hơn procain. Đó là vào khoảng đầu năm 1943. Thực ra trong số 16 hợp chất được tổng hợp trước đó khi còn Erdtman có một hợp chất khá giống với lidocain, thiếu mất một nhóm thế methyl trên vòng thơm. Một số nghiên cứu dược lý được thực hiện mang lại tín hiệu khả quan. Công việc phát triển sau đó được bộ đôi chuyển giao sang Astra, và LL30 được đặt tên là Xylocain, với tiền tố Xylo đặt theo nguyên liệu ban đầu m-xylidin. Thuốc sau đó được đăng ký bằng sáng chế, thử nghiệm lâm sàng, và cấp phép sử dụng tại Hoa Kỳ vào năm 1948. Ngày nay, xylocain, hay lidocain, lignocain vẫn được sử dụng nhờ vào khả năng gây tê nhanh, tác dụng mạnh, kéo dài và có thể kết hợp với adrenalin trong một số trường hợp cần thiết. Tuy nhiên, lidocain chỉ được sử dụng khi chỉ định.

Tài liệu tham khảo:
Holmdahl MH. Xylocain (lidocaine, lignocaine), its discovery and Gordh’s contribution to its clinical use. Acta Anaesthesiologica Scandinavica Supplementum. 1998;113:8-12. doi:10.1111/j.1399-6576.1998.tb04979.x
Gordh T, Gordh TE, Lindqvist K. Lidocaine: The Origin of a Modern Local Anesthetic. Anesthesiology: The Journal of the American Society of Anesthesiologists. 2010;113(6):1433-1437. doi:10.1097/ALN.0b013e3181fcef48
Wildsmith JAW, Jansson JR. From co***ne to lidocaine. European Journal of Anaesthesiology. 2015;32(3):143-146. doi:10.1097/eja.0000000000000168

Address

41-43 Đinh Tiên Hoàng, Phường Bến Nghé, Quận 1
Ho Chi Minh City

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Bộ môn Dược liệu - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Business

Send a message to Bộ môn Dược liệu - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh:

Share