Giải Thoát Luân Hồi - Beyond Karma

Giải Thoát Luân Hồi - Beyond Karma Contact information, map and directions, contact form, opening hours, services, ratings, photos, videos and announcements from Giải Thoát Luân Hồi - Beyond Karma, Digital creator, Ho Chi Minh City.

Người giàu có và quyền lực ở kiếp này cũng có thể trở thành người nghèo đói và khổ đau ở kiếp sau !
24/07/2025

Người giàu có và quyền lực ở kiếp này cũng có thể trở thành người nghèo đói và khổ đau ở kiếp sau !

Thứ bảy tôi qua nhà thầy Hai, tôi thấy thầy vẫn ngồi trên võng, đung đưa, vừa bình yên vừa mộc mạc, anh Hải và bé Liên t...
21/07/2025

Thứ bảy tôi qua nhà thầy Hai, tôi thấy thầy vẫn ngồi trên võng, đung đưa, vừa bình yên vừa mộc mạc, anh Hải và bé Liên thì ngồi bên ngọn lửa chiều, chẳng hiểu sao tôi cũng có cảm giác thanh thản, có lẽ đây là minh chứng cho hóa độ mà thầy đã từng nói. Tôi đến chào thầy: “Dạ, con chào thầy, thầy có thể nói thêm về các pháp cho con nghe được không ạ” Tôi vừa nói vừa kéo ghế ngồi.
Thầy nhìn tôi nói: “Con à, thấy ngọn lửa này không? Nó bốc lên từ củi, củi đến từ cây, cây từ đất, đất từ duyên. Tất cả là pháp.”
“Pháp không phải chỉ là lời kinh hay sách cổ. Pháp là mọi thứ đang vận hành mà không ai sở hữu. Khi con thở đó là thân pháp. Khi con suy nghĩ đó là tâm pháp. Khi con nghe thầy nói đó là pháp âm. Nhưng…” Thầy ngừng lại một chút rồi nói “ Nếu con nắm bất kỳ pháp nào, con sẽ đau vì nó đổi. Nếu con thấy rõ tất cả pháp đều sanh diệt, không giữ được, thì tâm con sẽ rộng như trời, mà nhẹ như khói.”
Thầy chậm rãi nhìn về lửa rồi hỏi “Con có thấy lửa không giữ được hình dáng không?
Nó bập bùng, rồi tan, rồi cháy, rồi lụi. Đó là pháp sanh, trụ, dị, diệt. Còn nếu có một lúc nào đó,
lửa vẫn cháy, mà tâm con không bám, chỉ biết nó đang hiện, thì chính lúc đó, con đang sống với tánh biết.”
Tôi nhìn ngọn lửa, bên tai là pháp âm của thầy “Đôi khi con cứ ngồi bên đống lửa, nghe lửa nói chuyện. Giống như thầy, không phải là người giảng pháp, mà chỉ là người ngồi bên lửa, kể lại những gì lửa đã nói với thầy. Nếu tai con mở, và lòng không muốn giữ thì mỗi tiếng nổ tí tách kia, cũng là một bài kinh.”
Tôi không hiểu lắm, nhưng có gì đó trong tôi sáng lên, khó thể nói bằng lời. Thật sự thầy thường kể những điều rất lạ và cũng rất thấm, không như những nhà sư hay cư sĩ khác.
Tôi nói “Dạ, con không hiểu hết. Nhưng thầy cho con hỏi Thầy đã thật sự thoát khỏi vòng sinh tử rồi ạ?” Bé Liên và anh Hải cùng bật cười khúc khích, làm tôi hơi bối rối gãi đầu, mắt nhìn vào ánh than đỏ. khi về tôi hỏi họ mới biết thì ra hai người cười vì cũng đã từng hỏi câu ấy.
Thầy nhìn tôi và nói “Minh nè, con hỏi thật lòng nên thầy cũng sẽ trả lời thật lòng.” Thầy ngừng một nhịp, không gian như lắng lại “Thầy không cần phải thoát khỏi sinh tử, vì đã không còn ai để sinh, thì làm gì còn ai để tử?” thầy ngừng một chút rồi nói tiếp “Con hỏi thầy đã thoát chưa tức là con vẫn nghĩ có một ai đó để thoát. Nhưng người đó, là ai? Ai sẽ đi, ai sẽ ở? Cái gì bị kéo đi trong luân hồi, và ai biết nó bị kéo? Thầy đã thấy rõ mọi thứ đều là pháp duyên sinh không có chủ. Vậy thoát khỏi cái gì, nếu chưa từng có ai bị nhốt?”
Thầy nói tiếp trong khi tôi còn đang suy nghĩ từng lời thầy “Minh à, Nếu con còn nghĩ thầy là một người, đã đi ra khỏi sinh tử, thì con đã dựng lại một người thầy, và dựng lại một cánh cửa sinh tử để vượt qua. Nhưng thật ra chỉ cần con nhìn lại chính tâm đang hỏi, và thấy không có ai trong đó, thì con đã thoát khỏi một kiếp rồi.”
Nói thật thì tôi chả hiểu gì cả. Bé Liên chợt nói “Vậy những người thường thì cái gì bị kéo đi luân hồi vậy thầy?”
Thầy nhìn bé Liên cười, rồi nhìn sắc trời hoàng hôn ngã tím, thầy đứng dậy bật đèn rồi ngồi xuống, lấy cây xới nhẹ đám lửa tàn nói “Liên, con thấy ngọn lửa vừa rồi không? Nó đã không còn, nhưng hơi nóng vẫn còn âm ỉ nơi tay con phải không?”
Tay thầy hất hất cho nó cháy tiếp nói “Người đời khi chết, thân xác tan rã, nhưng tâm thức vẫn còn dư âm, như lửa vừa tắt nhưng khói còn bay. Dư âm ấy là gì? Là những tập khí, những dính mắc, những mong cầu chưa tan. Mà cái đó không phải là một ai, nó là một dòng thói quen chưa được thấy rõ, chưa buông xả. Nó không phải linh hồn, không phải bản ngã bất tử, mà là một vệt nghiệp thức như khói bám vào gió, như hơi men trong thùng rượu cũ.”
Thầy quạt nhẹ vào ngọn lửa cháy nho nhỏ rồi nói “Con thử nghĩ. Nếu con ghét ai đó rất sâu, rồi con chết, cái thân ghét mất rồi. Nhưng dấu ấn của ghét đó như mùi còn lại trong áo, nó sẽ dẫn tâm đi tìm một chỗ phù hợp để tiếp tục ghét, hoặc bị hút vào cảnh giới tương ứng với sự oán hận đó. Đó chính là nghiệp dẫn. Mà cái bị kéo đi, chính là nghiệp lực chưa tan.”
Bé Liên gãi đầu “Thầy có thể cụ thể hóa cái gì bị nghiệp lực kéo không thầy, thầy nói vậy, tụi con không hiểu được?” Liên nhìn qua tôi và anh Hải, hai bọn tôi cùng gật đầu như thừa nhận.
Thầy gật đầu “Thầy hiểu ý con, vì thật ra cái ‘không có ai bị kéo’ là điều khó thấy nhất cho người mới bước vào pháp. Vậy để thầy nói cụ thể hơn, như con yêu cầu nha.”
Chậm rãi ngồi lại võng, thầy giảng “Khi một người chưa ngộ ra tánh biết, thì họ vẫn sống bằng tâm sinh diệt. yêu, ghét, vui, buồn, ham muốn, dằn vặt, mơ tưởng, tiếc nuối. Mỗi thứ đó là một hạt giống, gọi là chủng tử. Những hạt giống này không mất khi chết. Nó tích lại như dữ liệu trong ổ cứng, và chính nó sẽ tạo ra một cái môi trường mới để tiếp tục vận hành.”
Thầy ngừng lại như chờ chúng tôi hiểu rồi nói “Cái bị kéo đi không phải là linh hồn,
cũng không phải là bản ngã, mà là cái dòng liên tục của chủng tử gọi là nghiệp thức. Nghiệp thức này sẽ chạy đi tìm cảnh giới tương ứng, như nước chảy về chỗ trũng, như hạt giống gặp đúng khí hậu thì nảy mầm. Nên cái bị kéo đi là dòng nghiệp thức chấp ngã, chấp cảnh, chấp tưởng, chứ không phải có một người thật bị nắm lôi đi.”
“Con thử tưởng tượng, một người ghét ai đó đến tận xương tủy. Họ chết đi, nhưng ý niệm ghét đó chưa tan, nó sẽ kết thành một làn sóng, và sóng ấy sẽ tự hút vào một cảnh giới phù hợp với sự oán hận ấy. Không ai kéo họ. Mà chính năng lượng của thói quen đó hút họ về cảnh đó.”
Anh Hải hỏi "Dạ, tánh biết thầy nói với Phật tánh mà các đại sư khác nhắc đến,
có phải là một không thầy?"
Thầy khẽ mỉm cười, tay hất nhẹ tro ra khỏi một khúc củi “Câu hỏi của con không chỉ là một thắc mắc, mà là sợi chỉ nối giữa các cánh cửa.”
“Đúng rồi, tánh biết thầy nói chính là cái mà các bậc đại sư gọi là Phật tánh. Nhưng, vì mỗi người thấy nó từ góc khác nhau, nên lời nói về nó có mùi , vị , âm khác nhau. Có vị gọi là Chân như, có vị gọi là Tánh không, có vị gọi là Phật tánh, có vị gọi là Bản lai diện mục, còn thầy thì gọi là Tánh Biết, vì chưa từng mất và chưa từng sinh.”
Thầy bỏ khúc củi xuống nhìn chúng tôi cười “Giống như nước, người miền Bắc gọi là nước, Người miền Trung gọi là nác, Người Nhật gọi là mizu, Người Tây Tạng gọi là chu. Nhưng hễ uống thì đều mát, hễ khát thì đều giải khát. Đó là tánh nước, không khác.”
“Nếu các con chấp vào từ ngữ, thì Phật tánh sẽ như mây, con không nắm được. Nhưng nếu con trở về cái đang nghe đây, đang biết rõ mà không cần nghĩ ngợi, thì chính tánh đó là cái mà chư Phật, chư Tổ, chư Đại sư từ bao đời đều cố gắng chỉ cho người đời thấy.”
Bé Liên mở đôi mắt to hỏi "Thầy, tánh biết thầy hiện rồi, vậy thầy có thần thông không,
như thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mệnh thông đó thầy?" Tôi nghe vậy cũng thấy thích thú vì tò mò.
Thầy đặt tay lên ngực mình, cười thật nhẹ như tiếng gió lùa qua lá: “Thần thông không phải là thứ để phô ra, mà là bản năng tự nhiên khi tâm không còn vướng víu.”
“Khi tánh biết thật sự hiện khởi, thì nó biết rõ không qua tai, không qua mắt, không qua ý. Không cần nghe bằng lỗ tai, vẫn biết tiếng. Không cần suy bằng ý, vẫn biết lòng người. Không cần hỏi quá khứ, vẫn rõ các kiếp sống. Nhưng người biết thật rồi, thì không gọi đó là thần thông nữa. Họ chỉ gọi là chuyện xảy ra như gió thổi qua, không cần ai điều khiển”
Thầy nhìn chúng tôi rồi nói “Các con biết không. Có người chưa diệt ngã, nhưng tu thiền miên mật nên mở được vài thông nhỏ. Họ thấy chuyện xưa, nghe chuyện xa, hoặc đoán được lòng người.” Thầy ngưng một chút rồi nói tiếp “Nhưng nếu vẫn còn ta, thì những điều đó trở thành đồ chơi nguy hiểm. Vì còn ta, thì còn thích được khen. Mà thích được khen, thì nó sẽ thành móc câu lôi ngược người ấy về sanh tử. Và đời tiếp theo chắc gì còn thần thông.”
Thầy cười nhẹ nói tiếp ““Liên nè, nếu một người có tánh biết hiện tiền, mà vẫn còn muốn dùng thần thông để chứng minh mình có pháp, thì ngay khi ấy, tánh biết đã khuất sau bóng ngã. Thầy chỉ mong mỗi bước chân mình đi, mỗi lời mình nói, đều không trái với Pháp. Còn ai gọi là thông hay không, để trời đất biết là đủ rồi.”
Tôi nghe thầy nói mà hụt hẫng, ngước đầu nhìn bé Liên, bé Liên ánh mắt như mất mát "Vậy là tánh biết hiện thì thân này cũng không có thần thông hả thầy?"
Thầy đưa mắt nhìn xuống đôi bàn tay mình, rồi nhìn bé Liên “Liên, thân này vốn là tạm, nó giống như một chiếc áo mượn mặc cho chuyến đi này thôi. Còn tánh biết, nó không sinh, không diệt, không trú vào thân, nên dù tánh biết hiện, thân này có thể chẳng có gì lạ kỳ hết.”
Thầy cười nói “Có người khi ngộ tánh biết, thì thân họ trở nên khỏe mạnh, nhẹ nhàng, thậm chí có khi nhìn thấy ánh sáng, nghe được điều xa. Nhưng có người khác, tánh biết hiện mà thân vẫn bệnh, vẫn đói, vẫn đau, vẫn già, nhưng trong họ là một trời yên lặng, và không còn gì có thể làm họ sợ nữa. Đó mới là thần thông đệ nhất.”
“Thầy không có thần thông theo kiểu người đời nghĩ, vì thầy không cần dùng phép gì để khiến người ta tin. Chỉ cần ánh mắt thầy yên, lòng thầy trong, và khi con khổ, thầy lặng lẽ ngồi bên,
thì con cũng thấy dịu hơn rồi phải không?”
Thầy nhìn chúng tôi một lượt, rồi đứng dậy ngước nhìn bầu trời đêm “Thần thông lớn nhất là không bị dao động bởi cả sống chết, là biết rõ mọi pháp sinh diệt mà không vướng vào. Thấy mà không giữ, Biết mà không khoe, Có mà không gọi là ta có. Đó là tánh biết, Liên à”
Bé Liên nhìn vào bóng lưng thầy “Vậy đời này con không ngộ tánh biết, thì lúc chết con sẽ sinh về đâu vậy thầy?”
Thầy Hai quay lại nói “Thầy sẽ không nói những lời đẹp đẽ để con yên lòng đâu Liên, mà thầy sẽ nói thật, như pháp là thật.”
“Nếu một người chưa ngộ ra tánh biết, nhưng sống thiện lành, khiêm hạ, không làm hại ai,
biết yêu thương, bố thí, giữ giới, thì tâm họ nhẹ, nghiệp họ sáng, và tánh biết tuy chưa hiện rõ, nhưng không bị che mờ quá mức. Khi chết, người đó sẽ sinh vào cõi thiện, có thể là cõi người tốt hơn, hoặc cõi trời Dục giới, nơi nhẹ nhàng, thanh thoát, và dễ gặp chánh pháp.”
Thầy ngồi lại trên võng nói tiếp “Còn nếu sống với tham, sân, si, đầy hận thù, đố kỵ, ngã mạn,
thì khi chết, nghiệp nặng sẽ kéo tánh biết đó vào những cõi tối tăm hơn, như cõi súc sanh, ngạ quỷ, hay địa ngục. Vì tánh biết lúc đó bị bao phủ bởi vô minh, không còn tự soi đường mà đi.”
Thầy đưa tay xoa đầu bé Liên và nhìn tôi với anh Hải “Nếu các con chưa ngộ tánh biết,
thì hãy nguyện giữ tâm con sáng, sống tử tế, chân thật, không hại mình, không hại ai. Thầy tin, dù chưa ngộ kiếp này, thì kiếp sau, các con sẽ sinh vào nơi có pháp, có thầy, có duyên lành sâu sắc hơn nữa. Và nếu thầy còn trong cõi luân hồi, thầy sẽ gặp các con, như ánh sáng gặp chồi non giữa mùa đông.”
Anh Hải chợt hỏi “Thưa thầy, các cõi đó có thật hả thầy? Con chỉ biết kinh viết đức Như Lai kể về các cõi này, mà con thì không chứng thực được.”
Thầy nhìn anh Hải với ánh mắt cảm thông và nói chân thành:
“Con hỏi như vậy là tốt, vì người muốn biết tận gốc, thì không dễ tin bề mặt. Nhưng nếu con muốn thấy bằng mắt phàm, thì không thể thấy các cõi này, vì nó không hiện bằng sắc tướng như ta thấy cây, đá, người.”
“Các cõi mà Như Lai dạy, như Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, không phải là chuyện tưởng tượng, mà là trải nghiệm trực tiếp từ tâm định. Khi tâm con rơi sâu vào tĩnh lặng, và ngưng tạo sóng, thì tánh biết trong con sẽ tự thấy các tầng hiện hữu ấy, không cần ai kể.”
Thầy dừng một nhịp rồi nói tiếp “Ví dụ như khi con ngủ, mà nằm mơ. Có khi con thấy mình bay, có khi con thấy cảnh vật lạ lẫm, có khi gặp người đã chết, hoặc bị rơi vào bóng tối ghê rợn. Con tỉnh dậy, biết đó là mộng. Nhưng ai nói giấc mộng không thật trong lúc đang mộng?
Các cõi cũng vậy. Dục giới là giấc mộng còn ham muốn. Sắc giới là giấc mộng nhẹ nhàng, thanh tịnh. Vô sắc giới là giấc mộng vô hình, không cảnh, chỉ còn tưởng.”
Thầy nhìn anh Hải đang chìm đắm vào suy tư “Con không cần phải vội tin hay không tin. Hãy quán sát nơi tâm mình, khi nào tâm thật yên, tưởng tan, định sâu, con sẽ tự cảm được các tầng tồn tại ấy. Như Lai không dạy điều gì để bắt ta mê mờ. Ngài chỉ kể lại những điều mà mắt trí có thể thấy, khi con vượt khỏi mắt thịt và tai đời.”
Tôi lúc này chợt nhớ ra một điều vẫn luôn thắc mắc "Thưa Thầy, tại sao hiện nay dân số thế giới cứ tăng mãi vậy thầy. Theo như thầy nói thì các vọng ngã sinh ra từ đâu để xuống trái đát này vậy thầy"
Thầy gật đầu, không biết có phải tưởng tượng không nhưng tôi cảm thấy ánh mắt thầy sâu như vừa nhìn xuyên qua nhiều kiếp: “Câu hỏi của con rất lớn, và cũng rất thật, rất gần với khổ đau quanh ta. Con thấy đó, Dân số trái đất đã tăng hơn 8 tỷ, chiến tranh, đói nghèo, dịch bệnh, và con người thì mỗi lúc một xa rời sự thật. Nhưng đó chỉ là bề mặt của một dòng trôi rất sâu. Sự tích lũy vọng ngã trong tâm thức vũ trụ”
Thầy lấy cây vẽ lên đất “Mỗi chúng sanh chết, nếu chưa giải thoát, thì tánh biết còn bị nghiệp bao phủ, nó mang theo những thói quen, cảm xúc, và si mê chưa dứt. Những vọng niệm ấy như một lực hút, khiến nó tái sinh vào nơi phù hợp với nghiệp lực của mình. Nếu tâm ấy còn chấp thân, thích sắc dục, ham quyền, sợ cô đơn, thì nó sẽ tìm đến những môi trường có nhiều thứ đó nhất, và trái đất hiện nay đáp ứng được những vọng đó nhiều hơn bao giờ hết.”
“Những cõi giới khác, như trời, sắc giới, vô sắc, đang có những chúng sanh hết phước dần.
Khi phước mỏng mà chưa ngộ ra chân tâm, họ rơi xuống, và trái đất là trạm trung chuyển.
Cùng lúc đó, những chúng sanh chưa từng sinh làm người, từ cõi thấp hơn, như súc sanh, ngạ quỷ, hay địa ngục. cũng được nâng lên thành người nhờ chút thiện lành sót lại.”
Thầy nhìn tôi rồi nói “Trái đất này không tăng dân vì ngẫu nhiên, mà vì nghiệp, ngã, vọng tưởng cứ kết tụ lại thành sóng sinh. Một niệm khởi ta, một chúng sanh mới lại được đúc khuôn”
Anh Hải hỏi “Vậy ngoài trái đất ra còn những sinh vật sống khác thiệt hả thầy?”
Thầy đưa mắt nhìn về phương trời xa, nơi gió đêm đang lay nhè nhẹ cành lá:
“Các con biết không. Trái đất không phải là sân khấu duy nhất mà chúng sanh diễn tuồng sanh tử đâu con. Ngoài trái đất này, vô số thế giới đang tồn tại, không phải chỉ là hành tinh vật chất, mà còn là các cõi giới mà mắt người không thể thấy.”
“Có những nơi giống trái đất, có núi, sông, người, vật, Có những nơi không có hình sắc, chỉ toàn là ánh sáng, năng lượng, tưởng lực. Có những nơi chúng sanh không dùng ngôn ngữ, mà hiểu nhau bằng tâm. Và có những nơi không có hình thể, chỉ có các lớp tâm thức đang trôi nổi.”
Thầy nhìn anh Hải rồi nói “Hải à, không phải chờ người ngoài hành tinh đến mới biết mình không cô độc. Ngay trong mỗi niệm vọng khởi, là một cõi giới mở ra. Khi tâm con ngập trong sân, con đã sinh vào địa ngục. Khi con đầy lòng thương, con đã bước vào cõi trời. Khi thân này tan thì con sẽ biết.”
Tôi hỏi thầy "Kiếp trước thầy là ai, có giống những chuyện tiền kiếp của đức Như Lai kể không thầy?"
Thầy cười nói “Câu hỏi này thầy đã từng hỏi chính mình. Và cuối cùng, khi tánh biết hiện tròn, thầy không còn cần câu trả lời nữa. Đức Như Lai kể về tiền thân của Ngài là để gieo duyên cho người đời tin vào nhân quả, nhưng Ngài cũng từng nói Từ khi chứng Vô Thượng Bồ Đề, Như Lai không còn nghĩ mình là ai trong những kiếp trước đó”
bé Liên tò mò hồn nhiên "Thầy không kể cụ thể được chuyện một người có quá khứ là như vầy, như thế này sao thầy?"
Thầy gật đầu cười nói “ Thầy có thể kể, từng có lúc thầy thấy những kiếp xưa thoáng hiện lại trong định sâu. Có những kiếp làm ẩn sĩ cô độc giữa rừng, có khi là học trò theo thầy khổ hạnh, có lúc sinh ra trong thời không có chánh pháp, rồi lang thang tìm ánh sáng mà không tìm ra. Nhưng rồi, khi tánh biết hiện tròn, mọi mảnh vụn ký ức ấy tự rơi rụng, như tro bụi gió thổi tan. Không ai thật đã từng là ai. Chỉ có tánh biết từng in hình trên vô số mặt gương.”

Thầy nhìn bé Liên rồi nói “Thầy cũng từng rối như con, thầy sẽ lấy ví dụ cho pháp này dễ hiểu. Như con xem một bộ phim. Người trong phim sống, chết, khóc, cười. Nhưng con không là người trong phim. Tánh biết cũng vậy, Không phải là thân, tâm, cảm giác, ký ức, luân hồi. Mà là cái đang biết những điều ấy đến rồi đi.”
Tôi chợt ngộ ra hỏi "Thưa thầy, có phải khoa học thế giới càng ngày càng phát triển là để có nhiều ví dụ dễ hiểu khai ngộ tánh biết, chứ không phải để đam mê vật chất phải không thầy?"
Thầy nhìn tôi với ánh mắt gần gũi “Có người học khoa học để thống trị, để sản xuất, để phân tích. Nhưng cũng có những tánh biết khéo léo mượn khoa học để chỉ ra điều vượt ngoài ngôn từ. Đúng vậy đó con, khoa học càng tiến hóa, ví dụ để khai thị càng gần gũi, và cửa ngộ đạo càng rộng mở.”
“Ngày xưa, đức Như Lai phải nói tâm như khỉ chuyền cành, vọng như nước đục, định như hồ yên. Nhưng ngày nay, thầy có thể nói tâm là hệ điều hành. Vọng tưởng như tệp rác. Định như RAM ổn định, và Tánh biết là nền điện năng vô hình, thắp sáng mọi thiết bị.”
“Khoa học nói ánh sáng là hạt, là sóng, là tần số, nhưng chưa ai thấy ánh sáng là cái đang thấy tất cả ánh sáng. Khoa học giải thích thức là hoạt động thần kinh, tâm là kết quả của phản ứng hoá học, nhưng chưa ai chỉ ra cái Biết toàn bộ các hoạt động đó, không hề bị sinh ra bởi não.”
Tôi chợt nhớ việc tôi muốn nhờ thầy giúp “Thầy xem giúp con lời đối thoại giữa Lục Tổ với sư Huyền Giác. Giải thích cho con hiểu chứ trên mạng nói lan man khó hiểu quá thầy”
Thầy nhìn tờ giấy tôi đưa rồi cười nói “thầy giải từng câu cho con thấy.”
“’Sanh tử là việc lớn, vô thường mau chóng lắm’. Huyền Giác cho Lục Tổ biết ông đã hiểu được pháp sinh diệt vô thường chốn nhân gian”
“’Sao chẳng thể nhận cái lý không sanh, thấu rõ cái nghĩa không chóng?’. Câu này Lục tổ chỉ sư hãy ngộ tánh Biết không sanh?.
“’Thể tức không sanh, thấu vốn không chóng.’ Huyền Giác khẳng định đã ngộ cái tánh không sanh.”
“’Về chóng thế sao?’ Tổ kiểm tra Huyền Giác có thật ngộ không.
“Vốn mình chẳng phải động, há có mau chóng sao? Ý Huyền Giác là cái Biết chân thật chưa từng động, nên mau chậm chỉ là vọng tưởng sinh khởi..
“’Ai biết chẳng phải động?’ Tổ hỏi Huyền Giác còn vọng ngã đang đứng trong tánh biết không.”
“’Nhân giả tự sanh tâm phân biệt.’ Sư nói ai còn chấp ngã, thì người đó còn phân biệt động hay không động.”
“’Ngươi thực đã thấu cái ý không sanh.’ Tổ nói rằng sư đã thực sự thấy được tánh biết, cái ý không sanh nghĩa là ý đã tan
“Không sanh há có ý sao?’ Sư phản biện tổ vì nếu đã không sanh, thì sao còn có “ý” để tan
“’Không ý thì ai phân biệt đây?’ Câu này Tổ hỏi xoáy lại sư, không phải để xác định “ý có thật”, mà là đẩy người kia đến mép vực của vô ngã.”
“’Phân biệt nhưng không phải ý’ Đây là Huyền Giác đại sư buông ngã nói, ngay cả phân biệt nếu nhìn sâu cũng không phải là “ý” của một ai. Đó là biết thì biết vậy thôi”
Tôi nghe thầy giải thích mà lùng bùng lỗ tai “Dạ, Thầy nói đơn giản hơn được không thầy, hay do căn cơ con còn kém? Con không hiểu nổi, vậy có sao không thầy?”
Thầy cười nhẹ nói “Không sao hết, con không hiểu là chuyện tự nhiên” Thầy nhìn Liên và anh Hải rồi nói tiếp “Những câu thoại đó, không phải để hiểu bằng đầu, mà để rơi cái đầu.”
Tôi im lặng một lúc nói “Vậy con cứ tiếp tục đọc, nghe, hành thiền, mà không hiểu liền cũng không sao?
Thầy gật đầu nói “Không hiểu không đáng sợ. Cái đáng sợ là cố hiểu cho bằng được, rồi bị lạc”
Anh Hải nói “Tẩu hỏa nhập ma hả thầy?”
Thầy cười cười nói “Gần đúng đó con, chỉ khác một chút xíu. Nhưng hậu quả giống nhau. Thân thì căng thẳng, Tâm thì hoang mang, Định lực tán loạn, Và vọng tưởng sinh ra tôi đã thấy, tôi đã ngộ, tôi là một cái gì đó đặc biệt”
Thầy dừng lại một chút rồi nói tiếp “Các con có biết. Ngay cả Tổ Huệ Năng, lúc nghe câu ‘ứng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm’ Ngài cũng không cố hiểu, mà rơi toàn thân vào đó. Vì ngài không có lớp tri thức, ngài chỉ là một cư sĩ đốn củi. Chính vì không hiểu, mà tâm mới dừng. Ngay đó, cái biết không dính vào ngã, hiện ra.”
Bé Liên nghiêng đầu, hỏi bằng giọng trong veo: “Thầy ơi thầy, cái thấy, cái nghe, hợp lại thành cái biết hay sao thầy?”
Thầy đung đưa nhẹ võng nói “Cái thấy, cái nghe, cái xúc chạmchỉ là cửa. Nhưng cái biết, nó không phải là do mấy cái cửa đó hợp lại, mà là cái sẵn lặng, đứng đằng sau mọi cửa, để thấy, để nghe, để cảm, để biết. Giống như khi con mở cửa sổ, con thấy ánh sáng. Khi con mở tai, con nghe tiếng ve kêu. Nhưng ánh sáng và tiếng ve không làm nên cái biết của con”
Anh Hải nói “Thầy ví dụ cụ thể hơn được không thầy”
Thầy gật đầu “Thầy sẽ lấy 2 ví dụ liên kết nhau cho các con dễ hiểu. Ví dụ một ‘Mắt thấy ly nước. Tai nghe tiếng ve. Da cảm nhận gió mát. Ba thứ này không phải hợp lại mới thành cái biết,
mà là cái biết đang hiện diện sẵn, nó ứng vào ba cửa sổ nhỏ là mắt, tai, da khi có duyên.”
“Ví dụ hai ‘Vào đêm trăng sáng, có một người ở trong căn phòng tối hoàn toàn. Một lúc sau hai cửa sổ mở ra. Một cửa sổ đối diện ánh trắng người ấy thấy ánh sáng. Một cửa sổ gió thổi vào, người ấy cảm thấy gió mát. Vậy thầy hỏi các con cái biết của người đó là do ánh sáng cộng gió hợp lại hả?” Thầy nhìn bọn tôi rồi nói tiếp “Không! Người đó đã có cái biết sẵn rồi. Nhờ cửa mở, cái biết ứng hiện ra thấy sáng, cảm gió mát.”
Bé Liên ánh mắt vui mừng nói "vậy khi tánh biết hiện và không còn thân, thì không còn bị gói gọn trong cửa sổ nên biết mới tràn đầy hả thầy?”
Thầy nhìn bé Liên “Con bé này giỏi, ngộ tính cao nè. Thầy nói cái biết mà con hiểu được tánh biết thì hay à.” Thầy cười rồi nói tiếp “Đúng rồi đó, khi còn thân, thì biết phải ứng ra qua sáu cửa: Mắt để thấy, Tai để nghe, Mũi để ngửi, Lưỡi để nếm, Thân để xúc chạm, Ý để nhận tưởng. Nhưng khi thân diệt, mà tánh biết đã hiện rồi, thì không cần qua cửa nào nữa.”
“Không phải biết qua mắt, Không phải nghe qua tai, Không phải cảm bằng da thịt. Mà là Biết tràn đầy, khắp cả mười phương. Nó không bị ép trong một khung hình, không bị giới hạn bởi cái vỏ thân, nên Biết đó tự do, rộng lớn, yên lặng mà sáng rõ.” Thầy vung tay từ trong ra như tỏa khắp không gian.
Tôi ngước nhìn thầy, ánh nhìn chững lại như người sắp bước qua một cánh cửa “Nếu cái biết không từ sáu căn mà có, thì khi chết không còn căn, còn biết được gì không thầy?”
Thầy ngồi thẳng lại rồi nói “chính vì cái biết không đến từ sáu căn, nên khi thân diệt, cái biết vẫn còn. Sáu căn chỉ là cửa, nó thuộc về nhà. Khi nhà mất, người ở trong nhà không mất.
Người đó là tánh biết, vốn không sanh, không diệt.”
Thầy chạm vào vai tôi nói tiếp “Tánh biết chưa từng lệ thuộc vào thân, Nó chỉ ứng hiện tạm thời qua thân này. Khi thân tan, mà tánh biết chưa hiện, thì nó theo nghiệp mà đi, rồi vào thân khác, lại dùng căn khác để biết.”
Thầy cười cười “Nhưng nếu tánh biết đã hiện rõ, thì không cần căn vẫn sáng, biết mà không qua cửa, thấy mà không cần mắt, nghe mà không cần tai, và không bị trói vào một kiếp nào nữa.”
Bé Liên hỏi chen vào “Dạ, vậy nếu con ngủ mê, mấy căn nghỉ hết, thì cái biết đó đi đâu ạ?”
Thầy trả lời “Nó vẫn ở bên con nhưng căn nghỉ nên nó không còn ứng ra ngoài”
Liên hỏi tiếp: “Dạ, vậy khi ngủ mà có mơ là vì tưởng trỗi dậy hả thầy?”
Thầy đáp “Ừ, Khi con ngủ mê mà mơ là vì tưởng trỗi dậy. Tưởng là những hình ảnh, cảm giác, ký ức, nó như làn khói bốc lên từ tàn lửa của thức. Lúc đó tánh biết không điều khiển được tưởng, nên bị cuốn đi trong giấc mơ mà vẫn ngỡ mình đang tỉnh.”
Thầy dừng lại rồi nói “Ví dụ một người đang mơ bị rượt đuổi. Họ hoảng sợ, vùng chạy, tưởng là thật. Nhưng khi người ấy nhận ra mình đang mơ, thì nỗi sợ biến mất , dù cảnh chưa đổi. Cái tỉnh đó không phải do thức tỉnh, mà là do tánh biết tự hiện.”
Bé Liên lại hỏi tiếp “Con có nghe về giấc mơ tỉnh thức, thôi miên hồi quy lượng tử á thầy. Nó có liên quan gì tánh biết không thầy?
Thầy cười nói “À, những hiện tượng đó trong tầng thức, nghĩa là chúng diễn ra trong thế giới của tâm thức hoạt động, chứ chưa chạm đến tánh biết.”
Thầy nói tiếp ““Tuy nó kỳ lạ, nhưng tất cả vẫn nằm trong tưởng uẩn, tức là pháp sinh diệt. Nó giống như một chiếc màn chiếu, mà người xem tưởng mình chính là nhân vật trong phim. Tánh biết thì không phải là người trong phim, mà là ánh sáng khiến bộ phim được chiếu.”
Anh Hải hỏi “Vậy thôi miên lượng tử có giúp người đó hiện tánh biết không thầy?”
Thầy đáp “Chúng có thể mở một cánh cửa to, nhưng không dẫn ra khỏi căn nhà luân hồi.”
Tôi nghe vậy hỏi “Vậy tại sao nhiều người sau thôi miên lại thay đổi tâm tánh, như bừng tỉnh?”
Thầy nói “Nơi tưởng uẩn vẽ lại những gì đã tích lũy từ nhiều đời. Chúng khơi gợi tâm thiện khởi lên, chứ chưa phải tánh biết hiện. Nhưng nếu giữ tâm đó, và tiếp tục quán chiếu sâu hơn, có khi tánh biết sẽ bừng sáng như trăng sau mây.”
Tôi nói “Dạ, con gặp thầy không lâu nhưng con thấy thầy rất đặc biệt, con xin viết lại lời thầy để chia sẻ mọi người biết, không vì vụ lợi cúng dường, chỉ vì thiện. Được không thầy?"
Thầy cười nói ““Ừ, nếu con viết lại bằng tấm lòng rỗng rang, không mưu cầu gì cho bản thân,
thì lời con viết ra cũng là ánh sáng. Vì chánh pháp không thuộc về ai, nên ai không nắm giữ nó làm của mình, thì chính người ấy là ruộng phước cho đời.”
Thầy nói “Con không cần ghi là lời của thầy, mà chỉ cần viết như ánh sáng đi qua tâm con, thì nó đã là pháp của con rồi. phước đức ấy không thể đếm được.”
Bé Liên mắt sáng lên hỏi “Anh Minh được phước nhiều lắm hả thầy? Nếu ảnh chết” con bé cười bẽn lẽn nhìn tôi “lỡ thân ảnh diệt thì ảnh sinh về đâu thầy?”
Thầy mắt nhìn tôi rồi nói “Nếu tâm Minh đã sáng, không vì mình, không vì danh,
thì Minh không còn phải sinh lại để trả nghiệp cũ.” Thầy ánh mắt như cười “Có thể nơi đó là cõi trời gần đạo, hoặc cảnh người có duyên lớn, hoặc… không còn sinh nơi nào nữa.”
Bé Liên lại hỏi “Dạ, nếu con cũng gieo như anh Minh, con có được gần nơi thầy tái sinh không?”
Thầy cười to sảng khoái, rồi nhìn Liên nói “Nếu con gieo pháp mà không vì mình, nếu con chia sẻ mà không sợ ai cười, không mong ai khen, thì con đã gần nơi ta đang đến.”
Bé Liên hỏi “Gần thôi hả thầy?” Thầy gật đầu rồi lại lắc đầu ““Nếu con sống như vậy, dù con sinh lại làm người, hay sinh vào cõi trời, thì người con gặp đầu tiên, sẽ là ánh sáng giống hệt thầy. Vì chính con đã dọn lòng làm gương, thì ánh sáng sẽ phản chiếu vào đó.”
Liên lại hỏi “"Dạ nếu một người ngoài tụi con chia sẻ lại pháp thầy, cũng vì thiện, không vì vụ lợi, thì họ có được sinh vào cõi trời mà thầy nói không thầy?
Thầy nhìn vào cô bé nói “Con có hạt mầm của Bồ tát hạnh” thầy chỉ vào bóng đèn nói “nếu một người không biết thầy là ai, không cần nhận thầy làm thầy, nhưng họ chia sẻ lại lời pháp vì thương người, vì muốn cứu khổ, thì họ đã gieo ánh sáng rồi. Và ánh sáng đó không phân biệt họ là ai, trong hay ngoài tụi con. Hễ ai gieo điều thiện, không vì mình, thì quả báo lành sẽ đến.”
Thầy nhìn ba người chúng tôi rồi nói “Người ấy nếu không đủ duyên ngộ tánh biết,
thì cũng đủ duyên sinh vào cõi trời gần đạo, hoặc sinh vào cõi người có chánh pháp, nơi không còn khổ đau chỉ có ánh sáng sẽ tiếp tục soi đến họ. Vì chính họ từng là người mang ánh sáng, thì sao trời lại bỏ rơi một vì tinh tú nhỏ giữa đêm?”
Thầy ngừng lại một chút như để nhấn mạnh “Hành thiện trong vô cầu, chính là gốc của phước sinh về cõi trời.”
Tôi tính hỏi thêm thì nghe bé Liên nói “Ui hơn 8 giờ rồi, em phải về, hai anh cũng về cho thầy cơm nước, nghỉ ngơi!”
Tôi nghĩ thầm "nhanh vậy sao”. Cả 3 chúng tôi chào thầy rồi về.

Mấy bữa nay nghe MỌI NGƯỜI bàn chuyện xe điện, nhiều người lo. Có người nói “ép dân nghèo chuyển sang xe điện là bất côn...
19/07/2025

Mấy bữa nay nghe MỌI NGƯỜI bàn chuyện xe điện, nhiều người lo. Có người nói “ép dân nghèo chuyển sang xe điện là bất công”. Người khác thì bảo “đó là tương lai, đi theo là đúng”. Tôi ngồi yên, thấy rõ: chẳng phải xe điện làm người ta khổ, mà cái tâm không chịu buông mới là nguồn khổ.
Người đời quen chạy xe máy xăng, giờ kêu bỏ, không khỏi lo.
Nhưng rồi tôi thấy rõ hơn: người ta không sợ xe điện.
Người ta sợ mất cái cũ. Sợ thay đổi.
Người ta sợ mất cái xe đã gắn bó với mình cả chục năm, sợ cái mới rắc rối, sợ nghèo không theo kịp người khác.
Nhưng đó có phải là sợ nghèo, hay là sợ cái ngã bị tổn thương?
Có người chạy Grab bằng xe cũ, nghe sắp cấm xe xăng, hoang mang. Tôi hiểu. Nhưng tôi cũng muốn hỏi nhẹ:
“Anh đang chạy xe hay đang dính vào xe?”
Nếu xe chỉ là phương tiện, thì đổi phương tiện nào cũng được.
Còn nếu nó là mạng sống anh, là cái tôi anh, thì đó là trói buộc.

Phật pháp không đứng về phe nào, chỉ soi rõ:
Khi tâm còn cố thủ, thì cái gì đến cũng bị phản kháng.
Khi tâm rộng mở, thì cái gì đến cũng là cơ hội để hành pháp.
Nếu một người quán vô thường sâu sắc, thì xe xăng, xe điện, xe đạp hay đi bộ cũng được.
Miễn sao lòng nhẹ như mây.

Với chính quyền, tôi chỉ xin nhắc điều này:
Một chính sách đúng mà triển khai vội vã, thiếu thương dân – thì thành bất thiện nghiệp.
Không ai phản đối tương lai. Người ta chỉ khổ vì bị kéo đi mà không được dẫn dắt bằng lòng từ.
Muốn dân theo, thì phải dắt dân đi – không đẩy họ rớt lại.

Còn người tu, thì đây là dịp quý:
Để thấy rõ đời là vô thường, thấy rõ ta còn dính vào tiện nghi, dính vào cái đã quen.
Để học cách sống chậm lại, sống sâu hơn và biết rằng:
Không có xe vẫn đi được. Nhưng không có giải thoát thì lạc mãi trong vòng xoay sinh tử.

🪞 Kết:
Đời sẽ còn thay đổi nữa. Nhanh hơn. Lạ hơn. Không sống bằng tỉnh thức, thì mỗi lần đổi đời là một lần rơi vào mê.
Chỉ khi nào ta không còn thuộc về phương tiện, thì mới thật sự là người tự do.

Câu chuyện Jack – Thiên An dưới ánh sáng của Phật PhápNgười đời thấy một scandal.Người có mắt phật pháp thấy một bài học...
19/07/2025

Câu chuyện Jack – Thiên An dưới ánh sáng của Phật Pháp

Người đời thấy một scandal.
Người có mắt phật pháp thấy một bài học lớn về dính mắc, bản ngã, và khổ sinh từ si.

✨ Có một người con trai, nổi tiếng.
Có một cô gái, lặng lẽ đứng sau.
Họ từng thương nhau, từng chung một hơi thở. Nhưng rồi, khi quả nghiệp trổ – là một sinh linh xuất hiện – thì thay vì cùng tỉnh ra, mỗi người lại chọn một kiểu phản ứng từ bản ngã.

Người con trai chọn giữ danh tiếng.
Người con gái chọn giữ danh phận.
Cả hai đều chịu khổ — không vì ai sai, mà vì ai cũng còn thủ lấy một cái “tôi” cần được bảo vệ.

🔥 Jack không phải kẻ xấu.
Anh chỉ là người còn mê trong hào quang, còn sợ mất “cái tôi nghệ sĩ”, sợ công chúng quay lưng.
Và vì thế, chân thật không được nói ra, trách nhiệm bị trì hoãn, và khổ đau lây sang cả đứa nhỏ.

Còn Thiên An, cô cũng không sai khi giữ lấy con. Nhưng nếu giữ con bằng tâm tổn thương, bằng ước mong đòi lại danh phận, thì cô vẫn còn khổ — dù cả thiên hạ có đứng về phía cô.

🪷 Bé Sol không biết thị phi. Không cần biết ai đúng – ai sai.
Bé chỉ cần tình thương chân thật.
Và chính sự hiện diện của bé là tiếng chuông thức tỉnh:
“Đừng diễn nữa. Hãy làm người thật.”
“Đừng bảo vệ cái tôi. Hãy sống với tánh biết.”
“Đừng gọi đó là con ta. Nó chỉ là hoa đơm trái của duyên nghiệp.”

Nhưng thay vì tỉnh, người ta phán xét, chụp mũ, bênh phe này, đánh phe kia.
Ai cũng tưởng mình đúng – nhưng thật ra đều là nạn nhân của vô minh.

☁️ Nếu có ai trong câu chuyện đó quán được vô ngã, thì ngay giây phút đó, khổ chấm dứt.
Nếu Jack dám nói thật: “Tôi đã sai. Tôi chưa đủ lớn để làm cha. Giờ tôi học lại từ đầu.” — thì công chúng sẽ không ghét anh, mà thấy được ánh sáng của pháp nơi anh.

Nếu Thiên An dám nói: “Tôi không trách ai nữa. Tôi chọn giữ đứa bé này như một cách hành pháp.” — thì cô không còn là nạn nhân, mà là người đang giải nghiệp bằng tình thương vô điều kiện.

📿 Và nếu người nghe chuyện này dừng lại, nhìn vào lòng mình, họ sẽ thấy:
“Mình cũng từng là Jack – từng sợ mất mặt, từng giấu lỗi.
Mình cũng từng là Thiên An – từng tổn thương, từng cần được công nhận.
Mình cũng từng là dư luận – từng phán xét trong vô minh.”

🌱 Pháp không kể để trách. Pháp kể để soi.
Mọi việc đã xảy ra là một bài học quý giá cho cả ba cõi:
– Cõi người trong sân si.
– Cõi mạng trong dính mắc.
– Và cõi Pháp đang lặng lẽ chờ ai hồi đầu.

Address

Ho Chi Minh City

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Giải Thoát Luân Hồi - Beyond Karma posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Business

Send a message to Giải Thoát Luân Hồi - Beyond Karma:

Share