09/04/2023
Đầu tiên hãy phân biệt giữa chính sách Tài khoá, chính sách mà ở Hoa Kỳ là do Quốc hội và Tổng thống kiểm soát thông qua ngân sách liên bang. Còn chính sách tiền tệ, chính sách do Cục Dự trữ Liên bang quản lý.
Chính sách tài khóa liên quan đến chi tiêu, thâm hụt, doanh thu của chính phủ, và thuế. Chính sách tài khóa phản ánh mong muốn và mục tiêu của các quan chức được bầu đối với nền kinh tế và phản ánh phúc lợi của người dân.
Tương phản, chính sách tiền tệ kiểm soát nguồn cung tiền và lãi suất và được cho là không có những cân nhắc về chính trị, mặc dù có rất nhiều bằng chứng cho thấy chính trị có một vai trò nhất định trong việc hoạch định chính sách của Cục Dự trữ Liên bang.
Tuy nhiên Quốc hội đã giao cho Fed hai nhiệm vụ chính.
1. Nhiệm vụ đầu tiên là bảo đảm ổn định giá cả, để giá cả không tăng cũng không giảm quá nhiều. Từ năm 1996, Fed đã định nghĩa “ổn định giá cả” là tỷ lệ lạm phát 2% một năm. Lạm phát 2% là một loại “hệ số sai số” — một dây giật bẫy (tripwire) để ngăn chặn giảm phát, hay nói cách khác là tình trạng giá cả suy giảm. Mốc tự đặt ra đó là nhằm tránh nền kinh tế rơi vào vòng xoáy giảm phát, điều mà các nhà kinh tế học gọi là “bẫy thanh khoản.”
Trong một tình huống bẫy thanh khoản, mọi người dự đoán giá sẽ giảm, vì vậy họ trì hoãn chi tiêu, khiến nhu cầu giảm và giá giảm hơn nữa. Fed có thể hạ lãi suất và bơm tiền vào nền kinh tế trong những trường hợp như vậy, nhưng sẽ không gì kích thích được chi tiêu, kể cả ở mức mà các nhà kinh tế học gọi là “giới hạn 0 (zero bound)”, khi lãi suất bằng không. Nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái sâu sắc mà, vốn về mặt lý thuyết là không thể vượt qua. (Chống lại bẫy thanh khoản ở giới hạn 0 là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng trên thế giới đang thử nghiệm các loại tiền điện toán của ngân hàng trung ương, hay còn gọi là CBDC. CBDC cho phép các ngân hàng trung ương kích thích chi tiêu bằng hoặc thấp hơn giới hạn 0 trong một kịch bản “dùng nó hoặc mất nó”).
2. Nhiệm vụ thứ hai mà Quốc hội trao cho Fed là theo đuổi toàn dụng lao động, mục tiêu này đã được khuyến khích từ lâu, nhưng được đề ra thành một nhiệm vụ rõ ràng trong Đạo luật Tăng trưởng Cân bằng và Toàn dụng Lao động năm 1978.
“Toàn dụng lao động” thường được xem là một tỷ lệ thất nghiệp từ 4% trở xuống, tức là tỷ lệ những người bỏ việc, gia nhập lực lượng lao động, v.v. là 4%. Nhưng yêu cầu toàn dụng lao động lại ngầm hỗ trợ cho một mức lãi suất thấp, nên khó cân đối một môi trường lạm phát có lãi suất đang tăng lên. Thật vậy, việc chống lại lạm phát hiếm khi đạt được mà không làm chậm lại nền kinh tế và gia tăng tỷ lệ thất nghiệp. Khi khả năng hiếm hoi này xảy ra, nó được gọi một cách thông tục là “hạ cánh mềm”. (Đường cong Phillips cho rằng tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát tỷ lệ nghịch với nhau, nhưng quan niệm về quy luật này hầu hết đã bị bác bỏ bởi “lạm phát đình đốn”, danh từ ghép của tình trạng trì trệ kinh tế và lạm phát vốn đã gây khó khăn cho chính phủ các Tổng thống Ford và Carter trong những năm 1970. Nhưng vẫn có một nhận thức trực giác trên thị trường rằng lạm phát ảnh hưởng xấu đến việc làm và làm chậm quá trình tuyển dụng và khuyến khích sa thải).
Có ba công cụ “đơn giản” mà Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC) hoạch định chính sách sử dụng để kiểm soát cung tiền.
1. Đầu tiên là lãi suất chiết khấu, lãi suất mà Fed tính cho các ngân hàng thành viên vay tiền từ cửa vay chiết khấu của Fed. Mặc dù các ngân hàng có thể vay từ Fed, nhưng hầu hết các ngân hàng đều thực hiện các thỏa thuận vay khác, do đó, tỷ lệ chiết khấu — như đã thiết lập — có xu hướng gây ảnh hưởng nhiều hơn là có tác dụng. Nếu Fed tăng hoặc giảm lãi suất chiết khấu, thì các tổ chức cho vay khác sẽ làm theo ngay lập tức.
2. Công cụ thứ hai là yêu cầu về ngưỡng dự trữ của Fed, theo đó Fed quy định số lượng tiền gửi mà các ngân hàng thành viên phải giữ lại để đáp ứng các nhu cầu rút tiền. Yêu cầu dự trữ cao có xu hướng làm giảm cung tiền, trong khi yêu cầu thấp hoặc không có sẽ kích thích nền kinh tế khi có nhiều tiền được cho vay ra hơn.
3. Công cụ nổi tiếng nhất và phổ biến nhất mà Fed sử dụng để kiểm soát nguồn cung tiền là hoạt động thị trường mở do FOMC bầu chọn. FOMC bán chứng khoán để giảm cung tiền nhằm làm chậm lạm phát và mua chứng khoán để tăng cung tiền nhằm kích thích tăng trưởng.
Các công cụ bí truyền hơn của Fed
Fed yêu cầu các ngân hàng thành viên duy trì số dư tối thiểu nhất định đối với khoản dự trữ tại Cục Dự trữ Liên bang và trả lãi cho các khoản tiền gửi đó. Tuy nhiên, từ năm 2008, Fed đã trả lãi cho số tiền gửi vượt quá số dư tối thiểu đó, được gọi là “dự trữ vượt mức.” Ban đầu, một sự thay đổi luật đã dự kiến Fed sẽ trả lãi cho các khoản tiền gửi vượt mức vào năm 2011; tuy nhiên, sự thay đổi đó đã được đẩy lên sớm hơn bởi các luật mới được thông qua để giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính 2008–2009. Tính thanh khoản tồn tại trên thị trường trong những ngày đó đã gây áp lực giảm lãi suất qua đêm của Fed, vì vậy lãi suất được trả cho các khoản tiền gửi vượt mức để hấp thụ lượng tiền mặt dư thừa. Cục Dự trữ Tiên bang tiếp tục trả lãi cho các khoản tiền gửi vượt mức bởi vì đó là một phương tiện hữu ích để thiết lập lãi suất căn bản cho thị trường, bởi vì không ngân hàng nào sẽ cho vay tiền với lãi suất thấp hơn lãi suất mà Fed trả cho các khoản tiền gửi vượt mức của mình.
Fed cũng tham gia vào các thỏa thuận mua lại (repo). Những thỏa thuận này cũng nhằm mục đích ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn (chủ yếu là qua đêm). Trong một giao dịch “repo”, Fed mua chứng khoán do các ngân hàng nắm giữ và đưa ra cam kết tương ứng sẽ bán lại những chứng khoán này vào một ngày sau đó. Các giao dịch repo đưa tiền mặt vào nền kinh tế để tăng cung tiền.
Tóm lược
Các ngân hàng trung ương đóng một vai trò quan trọng trong sự vận hành của thị trường. Bất kể là quý vị có đồng ý với các chính sách của ngân hàng trung ương hay không (và tôi là người thường xuyên tranh cãi về các chính sách này), thì họ vẫn thực hiện một chức năng quan trọng trong nền kinh tế của quốc gia và quốc tế. Nếu các ngân hàng trung ương không tồn tại, thì rất có thể vai trò của họ sẽ được các nhà tài chính tư nhân đảm nhận, chẳng hạn như ông J.P. Morgan (cá nhân, chứ không phải ngân hàng), người đã can thiệp để cho vay tiền nhằm cung cấp thanh khoản trong Cuộc khủng hoảng năm 1907.
Creat: J.G. Collins/TheEpochTimes