05/07/2025
ÁI NGỮ
Kinh Tạp A hàm số 785 định nghĩa chánh ngữ bằng cách nêu ra bốn đặc tính: không nói dối, không nói hai lưỡi, không ác khẩu và không nói thêu dệt. Đây là một định nghĩa phổ thông, thấy trong tất cả các kinh điển. Thứ nhất là không vọng ngữ, nghĩa là không nói dối. Vọng là sai. Có nói là không, không nói là có, trắng nói đen, đen nói trắng, nói không đúng sự thật, là vọng ngữ.
Thứ hai là không lưỡng thiệt. Lưỡng thiệt tức là hai lưỡi (double tongues), với người này nói thế này, với người khác thì nói khác. Đôi khi nói cho vừa ý một người, rồi lại nói khác đi để làm vừa ý một người khác, kết quả là nói lời không đúng sự thật. Cố nhiên, cách nói có thể thay đổi cho người ta dễ tiếp nhận, nhưng chánh ngữ là phải nói đúng sự thật.
Thứ ba là không ác khẩu. Ác khẩu tức là nói to tiếng, thô tục, quát mắng, chửi thề, nói lời tạo ra đau khổ, bực tức, hận thù cho người khác. Có những người tâm rất tốt, không muốn làm hại ai, nhưng khi nói ra thì như châm chích và tàn hại người ta. Đó là khẩu xà tâm Phật. Tuy gọi là tâm Phật, nhưng thực sự bên trong còn có quá nhiều nội kết cho nên cái miệng mới nói lời ác. Nếu có thói quen ái ngữ thì ta sẽ không nói như vậy. Dầu là tâm ta không có ý hại ai nhưng nếu ta bị tập khí ác ngữ, miệng ta vẫn gây ra những đổ vỡ. Những điều đã làm, đã nói thường gây đổ vỡ hằng ngày. Lời nói có thể làm cho người khác thêm mặc cảm, lời nói có thể làm cho người ta mất hết ý chí, và có khi lời nói có thể làm cho người khác tự tử. Khi cha mẹ mắng con: “Mày là đồ vô dụng, không ra cái tích sự gì cả!” Nói như vậy cũng là ác khẩu, vì câu nói đó tiêu diệt niềm tin của em bé, làm cho nó có mặc cảm tự ti, có thể em bé sẽ khổ suốt đời. Cho nên thực tập chánh ngữ rất quan trọng.
Thứ tư là không ỷ ngữ. Ỷ ngữ tức là nói những lời thêu dệt. Thêu dệt là vẽ vời ra cho sự việc thêm đẹp đẽ hơn gấp bội, hoặc xấu xa hơn gấp bội. Như nói thế nào làm cho mọi chuyện thê lương hơn, hay mỹ miều hơn, giật gân hơn hoặc hấp dẫn hơn mà không cần đúng với sự thật.
Nhiều kinh điển định nghĩa chánh ngữ là không nói dối mà phải nói lời chân thật, không nói hai lưỡi mà chỉ nói một lời, không ác khẩu mà chỉ nói những lời dịu dàng, không ỷ ngữ, chỉ nói sự thật không thêm không bớt. Trong Trung bộ (Majjhima nikāya), kinh số 117, cũng có định nghĩa giống như vậy. Khi nói về chánh ngữ, chúng ta trở về với giới thứ tư trong Năm giới: không được nói dối, không được nói để mưu cầu tài lợi và sự kính phục, không được nói lời gây chia rẽ căm thù, không loan truyền những tin mà ta không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những điều ta không biết rõ. Phải có can đảm nói ra sự thật về những điều bất công, và phải dùng lời nói của ta để thực hiện hòa giải và thương yêu. Giới thứ tư nhằm duy trì chánh ngữ.
Khi dùng điện thoại, chúng ta có thể thực tập chánh ngữ. Thiền điện thoại không những là phép thực tập chánh ngữ, mà còn thực tập chánh tư duy. Trước khi bấm số, chúng ta thở theo một bài kệ:
Tiếng đi ngoài ngàn dặm,
Xây dựng niềm tin yêu,
Mỗi lời là châu ngọc,
Mỗi lời là gấm thêu.
Lúc bắt đầu thực tập, chưa thuộc những câu kệ, chúng ta viết xuống một mảnh giấy, dán vào chỗ điện thoại. Mỗi khi dùng điện thoại, ta lại nhìn thấy bài kệ, và bắt đầu thực tập hơi thở chánh niệm: thở vào đọc câu đầu (tiếng đi ngoài ngàn dặm), thở ra đọc câu thứ hai (xây dựng niềm tin yêu). Thở vào đọc câu thứ ba (mỗi lời là châu ngọc), thở ra đọc câu thứ tư (mỗi lời là gấm thêu). Trong khi thực tập thở ra và thở vào, ta lặp lại lời nguyện ái ngữ, nguyện sẽ nói những lời xây dựng, bồi đắp thương yêu và hiểu biết. Trong lúc đó, ta cũng đang thực tập chánh tư duy, nhờ vậy lòng ta an tĩnh hơn, ta nhìn thấy mọi chuyện sáng rõ hơn. Người bên kia cầm ống điện thoại lên sẽ được tiếp xúc với một con người tươi mát, nghe những lời xây dựng, êm đẹp, không làm họ đau khổ, có thể giúp họ đạt được an tịnh trong giây lát.
Dùng ái ngữ, chúng ta có thể tạo hạnh phúc cho người khác. Lời nói của mình có thể khơi dậy những hạt giống của niềm tin và an vui nơi người khác. Đó là một hành động phát xuất từ tình thương yêu.
Khi thấy hai người không hòa hợp với nhau, ta có thể dùng lời nói hòa giải để đưa họ tới gần nhau. Quán chiếu vào tâm trạng, hoàn cảnh và nỗi đau khổ của mỗi người, ta có thể luôn luôn tìm ra những điểm tích cực. Nói những sự thật tích cực về người này cho người khác nghe sẽ giúp họ hiểu lẫn nhau. Chỉ cần nói sự thật thôi, chưa cần khuyên nhủ gì. Một khi hai bên hiểu nhau hơn, họ sẽ sẵn sàng tha thứ cho nhau, sẽ dễ dàng hòa giải với nhau hơn. Như ở Nam Phi, có một cộng đồng da trắng và một cộng đồng da đen thường thù ghét, kỳ thị và chống đối nhau từ lâu. Ta biết rất rõ là cả hai cộng đồng, dù đen hay trắng đều đau khổ, vì cả hai đều có sợ hãi, lo lắng trong cuộc sống hằng ngày của họ. Người thực tập chánh ngữ trình bày những khổ đau, sợ hãi, mặc cảm, những ước vọng của cộng đồng này cho người trong cộng đồng kia nghe. Mỗi bên bắt đầu thấy an ninh và hạnh phúc của mình liên hệ tới hạnh phúc của bên kia. Nhờ vậy lòng họ có thể chuyển hóa. Ta chỉ cần nói sự thật và nối lại được cây cầu để hai bên có thể tới với nhau. Nếu ta đứng về một phe thì sẽ chỉ làm cho tình trạng càng căng thẳng, càng khó khăn hơn.
Muốn thành công trong việc hòa giải, ta cần phải có chút tâm lý, biết nói năng khéo léo. Nhưng bản chất nội tâm của con người hòa giải cũng rất quan trọng. Con người đó cần chứa đựng sự hiểu biết, thương yêu, cần được cả hai bên tin cậy nhờ sự tu học qua cách sống hằng ngày của mình, thì lời nói mới có ảnh hưởng lớn lao hơn. Vì lời nói phát xuất từ chánh tư duy, chánh ngữ, chứ không phải là do mưu mẹo và những khéo léo bên ngoài mà thôi.
Chánh ngữ là nói sự thật, nhưng sự thật nhiều khi có thể cũng gây ra đau khổ. Cho nên sự thật phải được diễn tả bằng ngôn ngữ khôn ngoan để giúp cho người nghe dễ chấp nhận. Chứ ta không thể nói bừa rằng: “Tôi chỉ nói sự thật thôi.” Nói một sự thật mà gây tan vỡ và hư hỏng hết tình trạng thì không phải là chánh ngữ. Chánh ngữ phải vừa có cả hình thức lẫn nội dung. Khi nói phải biết tâm lý, dùng thứ ngôn ngữ thích hợp với người nghe, chọn thời gian và hoàn cảnh thuận tiện, và diễn tả cách nào để họ hiểu được, chấp nhận được, thì mới nên nói. Nếu ta chỉ chú tâm nói ra cho được sự thật thì chưa đủ, vì ta có thể vụng về, thiếu sót dẫn đến những đổ vỡ.
Kinh Pháp hoa có nói về một vị Bồ tát hiệu là Diệu Âm. Bồ tát Diệu Âm thành tựu một tam muội gọi là Hiện nhất thiết ngữ ngôn tam muội, nghĩa là thành tựu được tất cả các loại ngữ ngôn. Ngài có thể đối thoại với bất cứ loài chúng sinh nào, vì ngài hiểu được tâm ý của chúng sinh cho nên sử dụng được ngôn ngữ thích hợp để khơi thông, tạo ra sự thông cảm với chúng sinh đó. Nếu chúng sinh đó cần nói ngôn ngữ của toán học thì Bồ tát nói bằng ngôn ngữ toán học. Nếu chúng sinh đó cần nói bằng ngôn ngữ của âm nhạc thì Bồ tát sẽ dùng ngôn ngữ âm nhạc để nói. Nếu chúng sinh đó cần ngôn ngữ của xì ke, ma túy thì Bồ tát dùng ngôn ngữ của xì ke, ma túy để nói. Nói như thế nào miễn là khai thông được, chuyển hóa được người kia thì mới nên nói. Vì vậy, chánh ngữ mang trong nó chất liệu của chánh tư duy, chất liệu của nghệ thuật nói năng cho khéo léo. Ở tiểu học, chúng ta cũng phải học viết, học nói. Lên trung học, đại học chúng ta cũng phải học viết, học nói. Chúng ta có tư tưởng, có cảm thọ. Và chúng ta cần học phương thức để biểu lộ tư tưởng và cảm thọ của chúng ta. Chánh ngữ có nguồn gốc từ chánh tư duy, và khi diễn đạt chúng ta cần phải học nghệ thuật của nó. Nhưng nghệ thuật cũng chỉ là hình thức, hình thức phải chứa đựng chánh tư duy. Nếu hình thức đó khôn khéo mà không chứa đựng chánh tư duy thì đó là tà ngữ. Nịnh nọt, tán dương, tâng bốc sai sự thật, hoặc bêu xấu, đè bẹp, nói chặn họng người ta… tất cả đều là tà ngữ, gây đau khổ cho người khác.
( Trích từ " Trái tim của Bụt - Bài 08 " của Sư ông Làng Mai)