Sơn Giang 24h

Sơn Giang 24h Sơn Giang 24h

Công ước Hà Nội: Công ước đầu tiên của Liên hợp quốc về chống tội phạm mạngViệc Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua Côn...
25/10/2025

Công ước Hà Nội: Công ước đầu tiên của Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng

Việc Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua Công ước chống tội phạm mạng (tháng 12/2024) và tổ chức Lễ mở ký ngày 25 và 26/10 tại Hà Nội là minh chứng sống động cho tinh thần trách nhiệm của các quốc gia trong bảo vệ không gian mạng - tài sản chung của toàn nhân loại.

Sự kiện này không chỉ là một thủ tục pháp lý mà còn là nền tảng để thúc đẩy đối thoại, chia sẻ kinh nghiệm, tăng cường quan hệ đối tác giữa các chính phủ, tổ chức quốc tế, khu vực tư nhân, trở thành diễn đàn để thúc đẩy thực hiện Công ước của Liên hợp quốc và hợp tác toàn cầu trong chống tội phạm mạng.

TTXVN

25/10/2025

Ngày 25–26/10/2025, Hà Nội chính thức trở thành tâm điểm thế giới khi diễn ra lễ ký Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng (Công ước Hà Nội) – văn kiệ...

7 nội dung trọng tâm của Công ước Hà NộiCông ước Hà Nội về chống tội phạm mạng gồm 9 chương, 71 điều, là văn kiện quốc t...
25/10/2025

7 nội dung trọng tâm của Công ước Hà Nội

Công ước Hà Nội về chống tội phạm mạng gồm 9 chương, 71 điều, là văn kiện quốc tế toàn diện đầu tiên đặt nền tảng cho hợp tác toàn cầu trong phòng ngừa, điều tra và xử lý tội phạm mạng. Lễ ký kết diễn ra tại Hà Nội ngày 25–26.10.2025, đánh dấu bước ngoặt trong nỗ lực xây dựng không gian mạng an toàn, minh bạch và nhân văn. Theo UNODC, đây là minh chứng cho tầm nhìn chung của các quốc gia về một môi trường số an ninh và phát triển bền vững.

Công ước đề ra bảy nội dung trọng tâm mang tính tiên phong và hợp tác sâu rộng:

(1) Hình sự hóa: Thống nhất khung pháp lý toàn cầu, yêu cầu các nước đưa tội phạm mạng vào luật hình sự, xử lý nghiêm các hành vi như xâm nhập, phá hoại, lừa đảo, rửa tiền hay phát tán nội dung xâm hại, đồng thời bảo đảm quyền con người và công bằng tư pháp.

(2) Thẩm quyền tài phán: Đưa ra nguyên tắc rõ ràng và linh hoạt, giúp các quốc gia phối hợp điều tra, truy tố tội phạm xuyên biên giới hiệu quả hơn.

(3) Biện pháp tố tụng: Cho phép thu thập, bảo toàn và giám sát chứng cứ điện tử có kiểm soát, cân bằng giữa an ninh mạng và quyền riêng tư.

(4) Hợp tác quốc tế: Thành lập mạng lưới liên lạc 24/7 để trao đổi khẩn cấp thông tin, mở rộng hợp tác sang mọi tội phạm nghiêm trọng, góp phần hình thành cơ chế toàn cầu chia sẻ chứng cứ điện tử.

(5) Phòng ngừa: Kêu gọi sự chung tay của chính phủ, doanh nghiệp, học giới và cộng đồng trong bảo vệ không gian mạng.

(6) Hỗ trợ kỹ thuật: Thúc đẩy đào tạo, chuyển giao công nghệ, cảnh báo sớm và chia sẻ kinh nghiệm để thu hẹp khoảng cách năng lực số.

(7) Cơ chế thực thi: Thiết lập hệ thống báo cáo, rà soát định kỳ và điều phối quốc tế nhằm bảo đảm minh bạch, tôn trọng chủ quyền và tăng cường đoàn kết toàn cầu.

Công ước Hà Nội không chỉ là công cụ pháp lý, mà còn là biểu tượng của niềm tin và hợp tác quốc tế, hướng tới một không gian mạng an toàn, công bằng và nhân văn cho toàn nhân loại.

Công ước Hà Nội: Chống tội phạm mạng cần sự chung tay của tất cả các quốc giaNga và Việt Nam đã cùng tổ chức nhiều hoạt ...
23/10/2025

Công ước Hà Nội: Chống tội phạm mạng cần sự chung tay của tất cả các quốc gia

Nga và Việt Nam đã cùng tổ chức nhiều hoạt động như tập huấn phòng, chống tấn công mạng quy mô lớn, hội thảo tăng cường năng lực và hỗ trợ kỹ thuật cho cuộc đấu tranh chống tội phạm mạng.

Nhân dịp lễ mở ký Công ước Hà Nội về chống tội phạm mạng diễn ra tại Hà Nội ngày 25-26/10, ông Artur Liukmanov - Giám đốc Vụ An ninh thông tin quốc tế Bộ Ngoại giao Nga kiêm Đại diện đặc biệt của Tổng thống Liên bang Nga về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực an ninh thông tin, đã có cuộc trao đổi với phóng viên TTXVN tại Moskva, đánh giá về sự kiện quan trọng này cũng như mối quan hệ hợp tác giữa Nga và Việt Nam trong lĩnh vực an ninh mạng.

Ông Artur Liukmanov cho biết, từ khi khởi xướng Công ước Hà Nội, Liên bang Nga đã tích cực ủng hộ Việt Nam tại phiên họp toàn thể của Đại hội đồng Liên hợp quốc (LHQ) tháng 12/2024, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Việt Nam để chuẩn bị cho lễ ký.

Nga và Việt Nam đã cùng tổ chức nhiều hoạt động như tập huấn phòng, chống tấn công mạng quy mô lớn, hội thảo tăng cường năng lực và hỗ trợ kỹ thuật cho cuộc đấu tranh chống tội phạm mạng.

Ông khẳng định Việt Nam hoàn toàn xứng đáng với vinh dự được chọn làm địa điểm tổ chức Công ước đầu tiên của Liên hợp quốc về phòng, chống tội phạm mạng sau 20 năm, đồng thời Nga cũng tự hào góp phần vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực này.

Về nỗ lực của Việt Nam trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm mạng và hợp tác quốc tế, ông Liukmanov nhấn mạnh Nga và Việt Nam có chung quan điểm và đã ký kết nhiều thỏa thuận hợp tác giữa Bộ Ngoại giao và các cơ quan chức năng.

Đặc biệt, hai bên có thỏa thuận liên chính phủ về bảo đảm an toàn thông tin quốc tế, đang được triển khai tích cực. Công ước Hà Nội sắp được ký kết cũng là kết quả của sự hợp tác song phương giữa Nga và Việt Nam cùng các đối tác quốc tế khác.

Theo ông, định hướng chung của Nga và Việt Nam là các quốc gia thành viên Liên hợp quốc cần xây dựng những thỏa thuận có tính ràng buộc pháp lý để bảo đảm an ninh và an toàn cho người dân.

Về hợp tác cụ thể giữa Việt Nam và Nga trong phòng, chống tội phạm mạng, ông Liukmanov cho biết hai bên thường xuyên trao đổi kinh nghiệm và phối hợp qua nhiều kênh, bao gồm Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Bộ Nội vụ hai nước, các hội thảo, hội nghị và chương trình đào tạo chuyên gia an ninh thông tin. Điểm chung nổi bật của hai nước là coi trọng yếu tố con người trong nhiệm vụ bảo đảm an ninh thông tin. Ngoài ra, hợp tác còn được thực hiện trong khuôn khổ đối thoại giữa Nga và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), với phiên đối thoại về an toàn thông tin diễn ra tại Sochi trong ngày 23/10, có sự tham gia của Việt Nam.

Ông cũng nhấn mạnh, dù việc xây dựng Công ước Hà Nội là bước tiến dài, nhưng vẫn tiếp tục có các nhiệm vụ mới trong lĩnh vực này. Do tội phạm mạng ngày càng tinh vi và nhanh nhạy, nên việc duy trì các cơ chế hợp tác hiệu quả, thường xuyên gặp gỡ và thảo luận là vô cùng cần thiết. Ông khẳng định đây là cuộc chiến chung của tất cả các quốc gia trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ hiện nay.

Ông Liukmanov cho biết tội phạm mạng là loại tội phạm xuyên biên giới và ẩn danh, tạo lỗ hổng để các đối tượng phạm tội trốn tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng. Do vậy, sự tham gia của tất cả các quốc gia là rất quan trọng trong việc ngăn chặn loại tội phạm này.

Công ước Hà Nội nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc vì hướng tới thiết lập cơ chế hợp tác hiệu quả, đồng thời thu hút sự tham gia của các nhà sáng tạo công nghệ thông tin trong nỗ lực bảo đảm an ninh thông tin và phòng, chống tội phạm mạng.

Vấn đề chủ quyền công nghệ cũng được ông nhấn mạnh, rằng dù công nghệ thuộc về quốc gia nào thì vẫn phải đảm bảo an ninh thông tin cho người dân./.

11 tác phẩm đạt giải A Cuộc thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của ĐảngĐiểm nổi bật là số lượng tác phẩm năm nay tăng mạnh, vớ...
23/10/2025

11 tác phẩm đạt giải A Cuộc thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Điểm nổi bật là số lượng tác phẩm năm nay tăng mạnh, với số lượng tác phẩm tham gia kỷ lục gần 542.000 tác phẩm, tăng hơn 73.000 tác phẩm so với năm 2024.

Tối 22/10, tại Hà Nội, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Lương Cường cùng Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Chỉ đạo 35 Trung ương Trần Cẩm Tú đã tới dự và trao các giải A cho những tác giả đoạt giải tại Lễ trao giải Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ năm-năm 2025.

Các Ủy viên Bộ Chính trị: Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa, Phó trưởng Ban Chỉ đạo 35 Trung ương, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo Cuộc thi; Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương Nguyễn Xuân Thắng, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo 35 Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo Cuộc thi, dự Lễ trao giải.

Cùng dự có các Bí thư Trung ương Đảng: Đại tướng Trịnh Văn Quyết, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao Lê Minh Trí.

Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ năm-năm 2025 do Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, Hội Nhà báo Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, Báo Nhân dân và Đài Truyền hình Việt Nam phối hợp tổ chức.

Diễn ra trong bối cảnh đất nước đang trong giai đoạn chuyển mình mang tính lịch sử, với nhiều sự kiện trọng đại, Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ năm đã thực sự trở thành một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, tạo sự hứng khởi, niềm tin, khát vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân về tương lai tươi sáng của đất nước.

Phát biểu tổng kết Cuộc thi, ông Nguyễn Xuân Thắng, Trưởng Ban Chỉ đạo Cuộc thi nhấn mạnh, Cuộc thi năm nay có ý nghĩa rất đặc biệt. Đây là lần thứ năm Cuộc thi được tổ chức, cho thấy sức hút, tính liên tục, sự bền bỉ, đồng thời đánh dấu bước phát triển mới, hiệu quả về công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Trong bối cảnh chuẩn bị, tổ chức Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và triển khai các quyết sách chiến lược của Đảng, Cuộc thi năm nay thực sự là hoạt động thiết thực, góp phần khơi dậy, củng cố lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, khát vọng phát triển trong mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Điểm nổi bật là số lượng tác phẩm năm nay tăng mạnh, với số lượng tác phẩm tham gia kỷ lục gần 542.000 tác phẩm, tăng hơn 73.000 tác phẩm so với năm 2024.

Nhiều địa phương, đơn vị đã chủ động xây dựng các tác phẩm có chất lượng tốt, vừa tham gia dự thi, vừa phục vụ tuyên truyền, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên báo chí, truyền thông và trên không gian mạng. Nhiều tác phẩm đề xuất giải pháp đổi mới nội dung, phương thức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong kỷ nguyên số có tính ứng dụng cao trên nền tảng số. Đặc biệt, Cuộc thi năm nay có sự tham gia của một số học giả, chính khách nước ngoài như của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Thụy Sĩ, một số chuyên gia nghiên cứu hàng đầu về chủ nghĩa Marx của các viện nghiên cứu lớn ở Trung Quốc, cán bộ, giảng viên Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Lào..., cho thấy sức lan tỏa, uy tín của Cuộc thi ngày càng sâu rộng.

Ghi nhận những kết quả đạt được từ Cuộc thi lần thứ năm, phát biểu chỉ đạo và phát động Cuộc thi chính luận lần thứ Sáu năm 2026, đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo 35 Trung ương, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo Cuộc thi nhấn mạnh sau 7 năm ban hành, Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” đã thực sự đi vào cuộc sống và đạt được nhiều kết quả tích cực.

Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết, các đơn vị, địa phương đã có nhiều cách làm hay, sáng tạo, trong đó có việc tổ chức Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng với nhiều dấu ấn và sức lan tỏa rộng rãi. 5 năm qua cho thấy, Cuộc thi thực sự là một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân; là cách thức hiệu quả, sáng tạo để tập hợp lực lượng, xây dựng “thế trận lòng dân” trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Ông Nguyễn Trọng Nghĩa đề nghị các cơ quan báo chí Trung ương và địa phương tiếp tục tuyên truyền, lan tỏa các tác phẩm đạt giải để tạo động lực thôi thúc, truyền cảm hứng cho các tác giả/nhóm tác giả tham gia Cuộc thi trong những năm tiếp theo.

Thay mặt Ban Chỉ đạo Cuộc thi, ông Nguyễn Trọng Nghĩa phát động Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ sáu, năm 2026.

Tại Lễ trao giải, 11 giải A được trao cho các tác giả gồm Trung tướng Nguyễn Quốc Tuấn - Chính ủy Trường Sĩ quan Chính trị, Bộ Quốc phòng với tác phẩm “Tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị - cuộc cách mạng trước ngưỡng cửa của kỷ nguyên phát triển mới;" Nguyễn Chí Khoa - Bộ Tham mưu, Bộ Tư lệnh 86, Bộ Quốc phòng với tác phẩm “Phải chăng trong thời đại chiến tranh thông tin vũ khí công nghệ cao đóng vai trò quyết định;" Nguyễn Vân Hạnh - Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh với tác phẩm “Sự im lặng của bầy cừu kỹ thuật số và sự suy tàn của nền dân chủ phương Tây."

Văn Thiện, Tiến Dũng, Duy Đức - Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thái Nguyên, Quân khu 1, Bộ Quốc phòng với tác phẩm “Tinh gọn bộ máy: Nhìn từ vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc;" Văn Quốc, Xuân Tú, Xuân Đức, Công Vũ, Đức Tho - Trường Sĩ quan Chính trị, Bộ Quốc phòng với tác phẩm “Loạt 3 bài: Phản bác ảo vọng ngông cuồng của những kẻ “lật sử;" Nguyễn Bá Thanh - Cổng Thông tin điện tử, Cục Chính trị Cảnh sát biển Việt Nam, Bộ Quốc phòng với tác phẩm “Chống bão thiên nhiên - Chống "bão" tư tưởng;" Nguyễn Anh Pháp - Trung tâm Phát thanh-Truyền hình Quân đội, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam với tác phẩm “Giữ vững thành trì tư tưởng trong sắp xếp tổ chức lực lượng Quân đội."

Thu Hà, Thanh Trường, Hồ Điệp, Hằng Nga, Bích Ngọc - Ban Thời sự, Đài Tiếng nói Việt Nam với tác phẩm “Sáp nhập để phát triển, để quê hương đất nước vươn mình;" Tuyết Anh, Sơn Hiền, Huỳnh Anh, Ngọc Như - Báo và Phát thanh, Truyền hình Cần Thơ, Thành ủy Cần Thơ với tác phẩm “Không chiến;" Phương Mai, Quang Anh, Hoàng Tuấn, Phương Huyền, Ngọc Hà, Quang Hiệu, Thành Luân, Quốc Anh, Nam Việt, Mạnh Hà, Tất Khoa, Hoàng Cộng, Trần Hương, Hoàng Hiệp, Quý Huy - Ban Thời sự, Đài Truyền hình Việt Nam với tác phẩm “Phản bác luận điệu xuyên tạc kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước;" Tấn Tuân, Việt Hà, Hoàng Tuấn, Quang Cường, Trần Cẩm - Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố Đà Nẵng, Quân khu 5, Bộ Quốc phòng với tác phẩm “Đảng ơi!”.

Bên cạnh đó còn có nhóm tác giả Massimiliano Ay - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Thụy Sĩ; Giáo sư-Tiến sỹ Lý Khải Hoàn, Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Marx - Viện Khoa học xã hội Trung Quốc với tác phẩm “Tăng cường xây dựng pháp trị xã hội chủ nghĩa, củng cố nền tảng tư tưởng của đảng Mác-xít cầm quyền - Kinh nghiệm của Trung Quốc” cũng đoạt giải A trong Cuộc thi lần này.

Cùng với 12 giải A, tại Lễ trao giải, Ban Tổ chức trao giải tập thể xuất sắc cho 20 tập thể; 23 giải B, 36 giải C, 66 giải khuyến khích cho các tác giả, đại diện nhóm tác giả ở 5 thể loại báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình, video clip gửi dự thi cấp Trung ương; vinh danh Tác giả cao tuổi tiêu biểu và Tác giả trẻ tuổi tiêu biểu; 20 giải triển vọng cho tác giả/nhóm tác giả là đoàn viên, thanh niên có tác phẩm dự thi chất lượng tốt./.

Lễ đón Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân thăm chính thức Cộng hòa Phần LanTổng Bí thư Tô Lâm bày tỏ vui mừng và phấn khởi đ...
21/10/2025

Lễ đón Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân thăm chính thức Cộng hòa Phần Lan

Tổng Bí thư Tô Lâm bày tỏ vui mừng và phấn khởi đến thăm đất nước Phần Lan tươi đẹp, sáng tạo, văn hóa và nhân ái; cảm ơn ngài Tổng thống, Phu nhân và nhân dân Phần Lan đón tiếp trọng thị, thân tình.

Sáng 21/10 (theo giờ địa phương), lễ đón Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân Ngô Phương Ly cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam thăm chính thức Cộng hòa Phần Lan theo lời mời của Tổng thống Phần Lan Alexander Stubb được tổ chức trọng thể tại Phủ Tổng thống.

Tổng thống Cộng hòa Phần Lan Alexander Stubb và Phu nhân chủ trì Lễ đón chính thức.

Đúng 10h00 (theo giờ địa phương), xe chở Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân tiến vào Phủ Tổng thống.

Tổng thống Cộng hòa Phần Lan Alexander Stubb và Phu nhân chào đón Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân tại nơi đỗ xe, sau đó mời Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân đứng vào vị trí danh dự. Quân nhạc cử Quốc thiều Việt Nam và Quốc thiều Phần Lan.

Hai bên đã giới thiệu đại biểu tham dự tại Lễ đón. Tiếp đó, Tổng thống Phần Lan Alexander Stubb và Phu nhân mời Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân di chuyển lên phòng viết sổ lưu niệm.

Tổng Bí thư Tô Lâm bày tỏ vui mừng và phấn khởi đến thăm đất nước Phần Lan tươi đẹp, sáng tạo, văn hóa và nhân ái; cảm ơn ngài Tổng thống, Phu nhân và nhân dân Phần Lan đón tiếp trọng thị, thân tình và thiện cảm.

Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh Việt Nam đánh giá cao vai trò và mối quan hệ tốt đẹp với Phần Lan; tin tưởng, chuyến thăm Phần Lan này sẽ đóng góp tích cực, mở ra trang mới trong quan hệ giữa hai nước, đóng góp cho hòa bình, ổn định, phát triển ở khu vực và thế giới.

Kết thúc Lễ đón, Tổng thống Phần Lan Alexander Stubb và Tổng Bí thư Tô Lâm dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao hai nước tiến hành hội đàm.

Đây là chuyến thăm cấp cao nhất của lãnh đạo Việt Nam tới Phần Lan, thể hiện sự coi trọng sâu sắc của Việt Nam đối với mối quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác nhiều mặt với Phần Lan.
Kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam-Phần Lan tăng trưởng liên tục trong những năm trở lại đây. Hợp tác trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo được mở rộng, hiện có gần 20 cơ sở giáo dục đại học Việt Nam đang hợp tác hiệu quả với các đối tác Phần Lan và hơn 2.500 du học sinh Việt Nam đang học tập tại Phần Lan trong các ngành kinh tế, công nghệ thông tin, du lịch...

Khoa học-công nghệ, là lĩnh vực hợp tác tiềm năng giữa hai nước với nhiều biên bản ghi nhớ được ký kết từ năm 1995 đến nay. Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao, Phần Lan liên tục dành viện trợ không hoàn lại, không áp đặt điều kiện chính trị cho Việt Nam, tập trung vào lĩnh vực quản lý nguồn nước, xóa đói giảm nghèo, thích ứng với biến đổi khí hậu, lâm nghiệp…

Hai nước cũng tích cực thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực khác. Năng lượng là lĩnh vực hợp tác lâu dài, nhiều tiềm năng trong quan hệ hai nước, với các trọng tâm triển khai năng lượng tái tạo tại các khu vực khó khăn; phát triển năng lượng tái tạo và các dự án, khung pháp lý liên quan.

Về văn hóa, thể thao và du lịch, hai bên tổ chức được một số hoạt động giao lưu văn hóa tại mỗi nước trong lĩnh vực mỹ thuật, ca múa nhạc, văn học...

Bên cạnh đó, giao lưu nhân dân cũng được quan tâm thúc đẩy với nhiều kết quả tích cực; các hội hữu nghị hai nước làm cầu nối giúp nhân dân hai nước có cơ hội biết đến nhiều hơn những nét đẹp văn hóa, truyền thống đất nước, con người của nhau.

Chuyến thăm chính thức Cộng hòa Phần Lan lần này của Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam là cơ hội quan trọng để hai nước nhìn lại những thành tựu hợp tác tốt đẹp trong quá khứ cũng như đề ra những định hướng lớn, làm mới quan hệ, tạo xung lực, đưa quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác nhiều mặt lên tầm cao mới.

TTXVN

21/10/2025

ANTV | An ninh 24h cập nhật tin tức an ninh trật tự 24h mới nhất, những vụ án hình sự nóng nhất trong ngày, thông tin pháp luật và đời sống xã hội. Bản tin đ...

Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh vừa quyết định truy tố đối với Trần Tiến Đạt (SN 1993, trú tại phường Thành Sen, trư...
17/10/2025

Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh vừa quyết định truy tố đối với Trần Tiến Đạt (SN 1993, trú tại phường Thành Sen, trước là phường Trần Phú, TP Hà Tĩnh) về tội “Cưỡng đoạt tài sản” quy định tại Điều 170 Bộ luật Hình sự và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại Điều 341 Bộ luật Hình sự; truy tố Nguyễn Doãn Long (SN 1988, trú tại phường Thành Sen, trước là phường Trần Phú, TP Hà Tĩnh) về tội “Cưỡng đoạt tài sản” quy định tại Điều 170 Bộ luật Hình sự.

Trước thời điểm bị cơ quan chức năng phát hiện, bắt giữ, Trần Tiến Đạt là Phó Văn phòng đại diện Tạp chí Luật sư Việt Nam khu vực Bắc Trung Bộ; Nguyễn Doãn Long làm nghề lái xe.

Theo cáo trạng của VKSND tỉnh Hà Tĩnh, từ năm 2022 đến năm 2025, Trần Tiến Đạt lợi dụng danh nghĩa là nhà báo để đe dọa, uy hiếp tinh thần, ép buộc một số giám đốc doanh nghiệp vận tải trên địa bàn Hà Tĩnh phải đưa tiền.

Trường hợp không đưa tiền, Trần Tiến Đạt sẽ theo dõi, chụp ảnh, quay phim các lỗi xe ô tô tải của doanh nghiệp khi tham gia giao thông để báo cho lực lượng chức năng xử lý, làm ảnh hưởng đến uy tín, hoạt động kinh doanh của các đơn vị.

Với phương thức, thủ đoạn nêu trên, Trần Tiến Đạt đã cưỡng đoạt tài sản, chiếm đoạt của 4 bị hại trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An với tổng số tiền là 180 triệu đồng.

Nguyễn Doãn Long là đồng phạm, cùng thực hiện, giúp sức cho Nguyễn Tiến Đạt thực hiện hành vi cưỡng đoạt tài sản. Theo kết luận điều tra, Nguyễn Doãn Long đã giúp Trần Tiến Đạt cưỡng đoạt của 1 bị hại với số tiền 30 triệu đồng.

Ngoài ra, quá trình điều tra còn xác định Trần Tiến Đạt không học đại học nhưng năm 2016 đã liên hệ, cung cấp thông tin cá nhân cho một người đàn ông trên mạng xã hội đặt mua 1 bằng tốt nghiệp của một trường đại học ở tỉnh Nghệ An.

Từ năm 2021 đến năm 2023, Trần Tiến Đạt đã sử dụng bằng tốt nghiệp đại học giả để làm hồ sơ, thủ tục xin cấp, đổi thẻ nhà báo.

Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đản...
15/10/2025

Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, chung sức, đồng lòng thực hiện
thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030; tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc vì hoà bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng diễn ra trong bối cảnh quốc tế, khu vực thay đổi nhanh, có nhiều bất ổn, bất định, diễn biến rất phức tạp, khó dự báo. Đất nước sau 40 năm đổi mới, cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế đã được nâng lên một tầm cao mới. Với phương châm Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đột phá - Phát triển, Đại hội xác định tư duy, tầm nhìn, những quyết sách chiến lược để chúng ta vững bước tiến mạnh trong kỷ nguyên mới, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 khi Đảng ta tròn 100 năm thành lập (1930 - 2030); hiện thực hoá tầm nhìn phát triển đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1945 - 2045).
I- ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG VÀ CƠ ĐỒ CỦA ĐẤT NƯỚC SAU 40 NĂM ĐỔI MỚI
Quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII diễn ra trong bối cảnh thế giới diễn biến nhanh, phức tạp, bất ổn, khó lường, khó khăn, thách thức nhiều hơn thuận lợi, xuất hiện những thay đổi mang tính thời đại, nhiều vấn đề rất mới, chưa có tiền lệ, đặc biệt là đại dịch Covid-19, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra nhanh, sâu sắc và toàn diện, nhất là trí tuệ nhân tạo; các vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng phức tạp. Kinh tế thế giới suy giảm và bất ổn dưới tác động của xung đột thương mại, sự điều chỉnh chính sách thương mại của nước lớn và những vấn đề an ninh toàn cầu. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, trong đó có Đông Nam Á tiếp tục giữ vị trí chiến lược quan trọng, động lực tăng trưởng của kinh tế thế giới, song phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Đất nước ta bị tác động sâu sắc bởi những yếu tố bất lợi từ bên ngoài, chịu ảnh hưởng nặng nề, kéo dài của đại dịch Covid-19, thảm hoạ thiên tai, xung đột thương mại... vừa phải xử lý các hạn chế, bất cập nội tại kéo dài, vừa phải tập trung giải quyết những vấn đề phức tạp, đột xuất mới phát sinh.
Trong bối cảnh rất nhiều khó khăn, thách thức, với ý chí, khát vọng phát triển, kiến tạo tương lai, tư duy đổi mới, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII. Đảng ta vững vàng lãnh đạo đất nước tiếp tục đạt được những kết quả rất quan trọng, toàn diện, đột phá, nhiều điểm sáng nổi bật.
1. Kết quả đạt được
(1) Phát triển kinh tế, thực hiện 3 đột phá chiến lược đạt nhiều kết quả quan trọng, nổi bật; quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu có bước chuyển biến tích cực
Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm. Lạm phát, bội chi ngân sách nhà nước và các chỉ tiêu về nợ công được kiểm soát; thặng dư thương mại liên tục ở mức cao; thị trường trong nước phát triển mạnh. Các nguồn lực đầu tư phát triển được huy động và sử dụng hiệu quả hơn. Nhiều dự án tồn đọng, doanh nghiệp thua lỗ kéo dài, các tổ chức tín dụng yếu kém đã được xử lý quyết liệt, đạt nhiều kết quả. Thực hiện quyết liệt nhiều giải pháp khống chế, đẩy lùi đại dịch Covid-19, trong đó có những giải pháp đặc biệt, chưa từng có, nhất là ngoại giao vaccine, tiêm chủng miễn phí toàn quốc và thực hiện mục tiêu "kép" vừa tập trung phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh, vừa phục hồi, phát triển kinh tế nhanh sau đại dịch.
Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021 - 2025 đạt bình quân khoảng 6,3%/năm, thuộc nhóm nước tăng trưởng cao của khu vực và thế giới. Quy mô GDP năm 2025 ước đạt trên 510 tỉ USD, gấp 1,47 lần so với năm 2020, xếp thứ 32 trên thế giới, GDP bình quân đầu người đạt khoảng 5.000 USD, gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình cao, được nhiều tổ chức quốc tế uy tín đánh giá cao. Chất lượng tăng trưởng có bước chuyển biến tích cực, đóng góp của các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 47%.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, tỉ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm; tỉ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và khu vực dịch vụ tăng. Công nghiệp chế biến, chế tạo phát triển khá; tỉ lệ nội địa hoá được cải thiện. Nông nghiệp từng bước phát triển theo hướng sinh thái, xanh, tuần hoàn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng, hiệu quả, tiếp tục phát huy vai trò "trụ đỡ" trong nền kinh tế, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả nổi bật, thay đổi cơ bản diện mạo nông thôn và nâng cao đời sống người dân. Khu vực dịch vụ, du lịch phục hồi và phát triển nhanh; kinh tế biển tiếp tục phát triển. Nhiều mô hình sản xuất kinh doanh mới được hình thành, tạo tiền đề thuận lợi cho phát triển lực lượng sản xuất mới.
Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tập trung vốn đầu tư công cho các công trình trọng điểm quốc gia, có sự lan toả cao, kết nối vùng, liên vùng, khắc phục cơ bản tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán. Tăng trưởng tín dụng đã hướng mạnh vào hoạt động sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực ưu tiên. Hoạt động sản xuất kinh doanh của một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đã có hiệu quả, giữ vững vị trí then chốt trong nền kinh tế.
Đổi mới cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, đặc biệt từ năm 2025 khẳng định phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Bước đầu hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, hoạt động đa ngành, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu du lịch gắn với chuỗi đô thị ven biển hình thành và phát triển mạnh; đã thành lập các khu thương mại tự do ở một số địa phương. Bước đầu hình thành cực tăng trưởng kinh tế và trung tâm đổi mới, sáng tạo, khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo tại các đô thị lớn; tỉ lệ đô thị hóa năm 2025 đạt 45%.
Quản lý và sử dụng tài nguyên; bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai được tăng cường; thể chế, chính sách từng bước được hoàn thiện; năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu được nâng lên; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các địa phương chặt chẽ, hiệu quả hơn.
Ba đột phá chiến lược được thực hiện đồng bộ, trọng tâm, trọng điểm, đạt kết quả nổi bật, tạo nền tảng và động lực mới thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới mạnh mẽ tư duy, cách làm trong xây dựng và tổ chức thực thi pháp luật; tập trung điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện pháp luật theo hướng phân cấp, phân quyền triệt để, đơn giản hoá tối đa thủ tục hành chính để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn trong thực thi, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp. Chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được nâng cao. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có bước phát triển bứt phá, nhiều công trình hạ tầng quan trọng quy mô lớn được đầu tư, nâng cấp, đường bộ cao tốc, sân bay, cảng biển, hạ tầng số…, góp phần làm thay đổi diện mạo đất nước và mở ra không gian phát triển mới. Chú trọng đầu tư phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, nhất là công nghệ cao, xây dựng trung tâm dữ liệu quốc gia; ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử... tạo động lực đổi mới mô hình tăng trưởng và nâng cao giá trị gia tăng của nền kinh tế.
(2) Phát triển văn hóa, con người và xã hội đạt kết quả rất quan trọng, nhiều mặt tiến bộ; an sinh xã hội và đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao
Nhận thức đầy đủ hơn về vai trò và tầm quan trọng của văn hóa trong phát triển bền vững. Thể chế, chính sách và nguồn lực đầu tư cho phát triển văn hóa được tăng cường. Hệ thống thiết chế văn hóa được quan tâm xây dựng và phát huy. Các hoạt động văn hóa, sản phẩm văn hóa, nghệ thuật ngày càng đa dạng, phong phú. Công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa và thị trường văn hóa từng bước được phát triển. Hội nhập quốc tế về văn hóa ngày càng được mở rộng. Đã xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035.
Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển toàn diện con người ngày càng đầy đủ, trọng tâm và thực chất. Việc phát hiện, thu hút, đào tạo, trọng dụng nhân tài bước đầu có chuyển biến tích cực. Chỉ số phát triển con người (HDI) được cải thiện rõ rệt, tăng 14 bậc, đạt 0,766 điểm, thuộc nhóm nước phát triển con người cao. Chỉ số xếp hạng hạnh phúc tăng 33 bậc so với đầu nhiệm kỳ, xếp thứ 46/143 quốc gia.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đạt được một số kết quả quan trọng. Nội dung, phương thức giáo dục và đào tạo có sự đổi mới; chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các cấp học được nâng lên. Hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng. Đặc biệt, đã thực hiện miễn, hỗ trợ học phí đối với trẻ em mầm non, học sinh phổ thông, người học chương trình giáo dục phổ thông trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đã sớm triển khai chủ trương đầu tư xây dựng các trường học nội trú liên cấp ở các xã biên giới đất liền.
Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số tiếp tục được xác định là động lực phát triển. Thể chế khoa học, công nghệ được chú trọng đổi mới, hoàn thiện và phát triển đồng bộ hơn; tiềm lực khoa học, công nghệ được tăng cường. Hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ được đẩy mạnh; đổi mới sáng tạo và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp được khuyến khích.
Tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ hơn với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội; đã ưu tiên bố trí nguồn lực cho an sinh xã hội, phát triển con người. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng lên rõ rệt. Chính sách xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo, chính sách đối với người có công, chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài... tiếp tục được hoàn thiện và thực hiện có nhiều tiến bộ. An sinh xã hội ngày càng được bảo đảm; phúc lợi xã hội ngày càng được cải thiện. Các chính sách, giải pháp giảm nghèo bền vững được triển khai đồng bộ, hiệu quả trên tinh thần "không để ai bị bỏ lại phía sau". Tỉ lệ hộ nghèo đa chiều giảm từ 4,4% năm 2021 xuống còn 1,3% năm 2025. Đẩy mạnh thực hiện Đề án đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội; thành lập Quỹ nhà ở quốc gia. Đến tháng 9/2025, hoàn thành xoá nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước. Số người được hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên được mở rộng, đạt trên 3,5 triệu người năm 2025, trong đó 55% là người cao tuổi.
Đại hội đại biểu Đảng bộ Quốc hội lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030
Hệ thống y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân có bước phát triển tích cực, chất lượng được nâng lên, kiểm soát tốt các loại dịch bệnh, làm chủ nhiều công nghệ, kỹ thuật y học tiên tiến. Đã chú trọng thực hiện chế độ thông tuyến khám, chữa bệnh theo bảo hiểm y tế. Y tế tư nhân tiếp tục phát triển. Tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng từ 90,9% năm 2020 lên 95,2% năm 2025. Tuổi thọ và chỉ số sức khoẻ người dân bình quân của cả nước được cải thiện, năm 2025 tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh là 74,8 năm, số năm sống khoẻ khoảng 67 năm.
(3) Quốc phòng, an ninh không ngừng được củng cố, tăng cường; quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế được nâng tầm, đạt nhiều kết quả nổi bật
Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Quốc phòng, an ninh tiếp tục được tăng cường vững mạnh cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận. Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân ngày càng được củng cố; gắn kết chặt chẽ với thế trận lòng dân vững chắc, nhất là ở các địa bàn chiến lược trọng điểm, tuyến biên giới, hải đảo.
Tập trung đầu tư, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; cơ bản hoàn thành điều chỉnh, sắp xếp tổ chức Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh. Công nghiệp quốc phòng, an ninh được đầu tư phát triển, có đột phá, bảo đảm tính lưỡng dụng, hiện đại. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu; dân quân tự vệ, an ninh cơ sở vững mạnh, rộng khắp. Xử lý dứt điểm nhiều vấn đề, đối tượng trọng điểm phức tạp về an ninh kéo dài nhiều năm. Chủ động triển khai công tác nghiên cứu, dự báo đúng tình hình, kịp thời đề ra các chủ trương, đối sách xử lý tốt các tình huống, không để bị động, bất ngờ; ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; ứng phó ngày càng có hiệu quả hơn các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh. Giữ vững chủ quyền số quốc gia trên không gian mạng. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng, an ninh; tham gia tích cực và hiệu quả vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc.
Đối ngoại đã phát huy tích cực, hiệu quả vai trò tiên phong, góp phần duy trì, củng cố môi trường hoà bình, ổn định, mở ra cục diện mới chưa từng có cho phát triển đất nước. Đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân được triển khai toàn diện, đồng bộ, đạt nhiều kết quả nổi bật; quan hệ với các nước và đối tác đi vào chiều sâu, ổn định, phát triển bền vững, nhất là nâng cấp và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với các nước lớn, đối tác quan trọng. Phát huy tốt lợi thế của các phương thức ngoại giao. Hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng được triển khai chủ động, tích cực trên mọi lĩnh vực. Triển khai có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do, chủ động tham gia một số sáng kiến liên kết kinh tế, khuôn khổ hợp tác kinh tế mới. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài được triển khai tích cực và thực chất hơn.
(4) Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị đạt được nhiều kết quả rất quan trọng, có mặt nổi bật, đột phá chưa từng có
Công tác xây dựng Đảng về chính trị tiếp tục được chú trọng, tăng cường; kiên trì, giữ vững và phát huy bốn kiên định, nâng cao bản lĩnh chính trị, tính tiên phong, trình độ, năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng. Công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ đạt được nhiều kết quả tích cực.
Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng tiếp tục được đổi mới mạnh mẽ, đi vào chiều sâu, góp phần nâng cao nhận thức, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng và hệ thống chính trị. Đã có nhiều đổi mới trong tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được coi trọng, gắn kết chặt chẽ với định hướng chính sách. Hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục được hoàn thiện. Công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng về tư tưởng, lý luận chính trị có nhiều đổi mới. Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được triển khai quyết liệt, đồng bộ, có hiệu quả.
Công tác xây dựng Đảng về đạo đức được đặc biệt coi trọng. Đề cao chuẩn mực đạo đức cách mạng và phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhất là người đứng đầu. Công tác giáo dục, bồi dưỡng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện các quy định của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên được triển khai sâu rộng và có hiệu quả.
Công tác dân vận được tăng cường, góp phần thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân. Chú trọng đối thoại, lắng nghe ý kiến, kịp thời giải quyết những bức xúc, kiến nghị chính đáng của Nhân dân, phát huy vai trò của Nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng.
Công tác xây dựng Đảng về tổ chức được triển khai quyết liệt, mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ. Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể, thực chất, có hiệu quả. Công tác xây dựng Đảng và phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp tư nhân và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo, biên giới, hải đảo, trong học sinh, sinh viên được tăng cường, cơ bản xoá được tình trạng "trắng" đảng viên ở thôn, bản. Công tác quản lý, rà soát, sàng lọc đảng viên được thực hiện ngày càng nghiêm túc, chặt chẽ, đúng quy định. Tiến hành đổi thẻ đảng viên trong toàn Đảng, nâng cao hiệu quả công tác quản lý đảng viên.
Công tác xây dựng Đảng về cán bộ được đặc biệt chú trọng, có nhiều đổi mới góp phần xây dựng toàn diện đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược. Đặc biệt lần đầu tiên hoàn thành việc bố trí 100% bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc Trung ương, chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra cấp xã không phải là người địa phương; 50% chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra cấp tỉnh không phải là người địa phương và bảo đảm thực hiện hoàn thành việc bố trí chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra cấp tỉnh không phải là người địa phương từ đầu nhiệm kỳ 2025 - 2030; xây dựng phương án bố trí nhân sự chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, chánh thanh tra tỉnh, thành phố không phải người địa phương trước và ngay sau Đại hội XIV của Đảng. Các chủ trương, giải pháp về công tác cán bộ được kịp thời thể chế, cụ thể hoá; việc sửa đổi, ban hành hệ thống các quy định về công tác cán bộ được triển khai toàn diện, đồng bộ với nhiều nội dung mới, đột phá, lần đầu được áp dụng, bảo đảm tính đồng bộ, minh bạch, chặt chẽ. Công tác xử lý cán bộ vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật Nhà nước, nhất là đối với một số cán bộ lãnh đạo cấp cao, kể cả lãnh đạo chủ chốt đã được chỉ đạo chặt chẽ, nghiêm minh, kịp thời, đồng thời nhanh chóng kiện toàn nhân sự thay thế đã khẳng định bản lĩnh chính trị, sức mạnh đoàn kết, thống nhất cao trong toàn Đảng, cùng ý chí quyết tâm xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện ngày càng nền nếp, thường xuyên.
Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được tăng cường, thường xuyên, nghiêm minh, đạt nhiều kết quả nổi bật. Gắn kết chặt chẽ công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng với tự phê bình, phê bình và với tuân thủ pháp luật. Việc xử lý nghiêm minh một số tổ chức, cá nhân, đảng viên suy thoái, vi phạm kỷ luật, kể cả cán bộ cấp cao, đã có tác dụng giáo dục, cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe và ngăn chặn tiêu cực.
Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, toàn diện, đi vào chiều sâu, với quyết tâm chính trị rất cao, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, có bước tiến mạnh, đột phá lớn, đạt nhiều kết quả rất quan trọng. Từng bước hoàn thiện cơ chế phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để "không thể", "không dám", "không muốn" và "không cần" tham nhũng, tiêu cực.
Phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có nhiều đổi mới, hiệu lực, hiệu quả hơn. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ những nút thắt, điểm nghẽn, ứng phó nhanh, rất kịp thời, hiệu quả với các tình huống khó khăn, phức tạp, chưa từng có tiền lệ, được cán bộ, đảng viên, Nhân dân đồng tình, đánh giá cao.
Việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo ngày càng quyết liệt, toàn diện, đồng bộ hơn. Bộ máy nhà nước đã được sắp xếp theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Nền hành chính quốc gia được cải cách theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại. Tư duy xây dựng pháp luật có nhiều đổi mới; hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn thiện đồng bộ hơn. Công tác tổ chức thực hiện pháp luật có nhiều tiến bộ.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội được tổ chức, sắp xếp lại, bảo đảm hoạt động thống nhất, hiệu quả, phát huy sức mạnh của Nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các phong trào thi đua yêu nước được triển khai tích cực, có tác dụng lan toả sâu rộng. Đã phát huy đầy đủ hơn quyền làm chủ của Nhân dân; chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. Dân chủ cơ sở, dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện được đẩy mạnh, chất lượng giám sát, phản biện xã hội được nâng cao.
Đặc biệt, cuộc cách mạng về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả đã đạt được những kết quả mang tính đột phá.
Việc đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị được Trung ương và các cấp uỷ, tổ chức đảng tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo với quyết tâm chính trị rất cao. Đặc biệt từ tháng 10/2024, trên cơ sở kế thừa kết quả của 7 năm thực hiện Nghị quyết 18, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã nghiên cứu kỹ lưỡng, với tầm nhìn chiến lược, định hướng lâu dài, xác lập được mô hình tổng thể của hệ thống chính trị; việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy đã được triển khai một cách sâu rộng, bao gồm cả cơ cấu bên trong của các cơ quan, tổ chức ở cả Trung ương và địa phương; điều chỉnh địa giới hành chính cấp tỉnh, tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, không tổ chức cấp huyện, sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã, với quy mô lớn nhất trong lịch sử hiện đại, hoàn thành trước 5 năm theo nghị quyết đề ra, phản ánh quyết tâm cải cách tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị một cách căn bản, mạnh mẽ, có ý nghĩa lịch sử.
Trong một thời gian rất ngắn, đã tiến hành đồng bộ việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hệ thống các quy định của Đảng, Hiến pháp, pháp luật… tạo lập cơ sở chính trị, pháp lý vững chắc để bộ máy hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt, góp phần mở đường cho kiến tạo phát triển. Công tác triển khai và tổ chức thực hiện mô hình tổ chức bộ máy mới được đổi mới mạnh mẽ. Các nội dung công việc được lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện rất khẩn trương, quyết liệt, đồng bộ, dân chủ, khoa học, hiệu quả cao, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, giám sát của Nhân dân, giữ vững nguyên tắc, đúng quy định, kiên định, kiên trì các mục tiêu đề ra; đến nay toàn hệ thống chính trị đã hoàn thành toàn bộ mục tiêu với khối lượng công việc rất lớn và vượt tiến độ đề ra.
Những kết quả đạt được trong thời gian qua đã khẳng định sự đột phá, đổi mới toàn diện cả trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện:
- Hệ thống tổ chức, các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội từ Trung ương đến địa phương được tổ chức lại đồng bộ, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
- Kết thúc hoạt động của các đảng đoàn, ban cán sự đảng, lập các đảng bộ mới ở Trung ương và cấp tỉnh; giảm nhiều cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương, cấp tỉnh và đầu mối bên trong.
- Tổ chức đơn vị hành chính theo mô hình mới đồng thời với việc sáp nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã; sáp nhập, giảm 29 đơn vị hành chính cấp tỉnh, giảm 7.277 đơn vị hành chính cấp xã, không tổ chức đơn vị hành chính cấp huyện; tổ chức lại hệ thống quân đội và công an ở địa phương, thanh tra, toà án, viện kiểm sát, các cơ quan, đơn vị quản lý theo ngành dọc, sắp xếp các tổ chức đảng ở địa phương đồng bộ với các cơ quan, đơn vị, tổ chức của hệ thống chính trị theo mô hình tổ chức đơn vị hành chính 2 cấp; sắp xếp các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ trực thuộc Mặt trận Tổ quốc các cấp.
- Ban hành đồng bộ các chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, bảo đảm đầy đủ cơ sở chính trị, pháp lý khi thực hiện sắp xếp; chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các cơ quan, tổ chức được nghiên cứu, ban hành, bổ sung, sửa đổi kịp thời, phù hợp, bảo đảm các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức hoạt động liên tục, thông suốt, góp phần nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, không để gián đoạn công việc, bỏ trống nhiệm vụ, địa bàn, lĩnh vực và ảnh hưởng đến các hoạt động bình thường của cơ quan, đơn vị, tổ chức và xã hội, người dân trước, trong và sau sắp xếp. Đồng thời, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng các cấp uỷ trực thuộc Trung ương, các ban, bộ, ngành, cơ quan, đơn vị tại Trung ương xây dựng kế hoạch, lộ trình sắp xếp, tinh gọn các đơn vị sự nghiệp công lập, trường học, cơ sở y tế, doanh nghiệp nhà nước và sắp xếp tổ chức bên trong các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo hướng hiện đại, gần dân, sát cơ sở, tăng cường kiểm tra, giám sát. Việc thực hiện tinh giản biên chế gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ có sự chuyển biến rõ nét, đạt mục tiêu đề ra, góp phần tiết kiệm chi ngân sách nhà nước. Chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động bị tác động trong thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, cán bộ không đủ tuổi tái cử được ban hành và thực hiện kịp thời, tạo thuận lợi trong quá trình sắp xếp, từng bước cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của hệ thống chính trị.
Đạt được những kết quả trên trước hết bắt nguồn từ quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta qua nhiều nhiệm kỳ; là kết quả của những chủ trương, đường lối, quyết sách chiến lược đúng đắn, sáng tạo của Đảng ở nhiệm kỳ này, thể hiện nổi bật trí tuệ, bản lĩnh, tâm huyết, vai trò hạt nhân lãnh đạo, khởi xướng, tạo động lực, định hướng phát triển và chỉ đạo tổ chức thực hiện của Đảng phù hợp với thực tiễn của đất nước và xu thế của thời đại; là kết quả của sự đoàn kết, thống nhất và sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là Tổng Bí thư và các cấp uỷ, tổ chức đảng; là kết quả của sự quản lý, điều hành nhạy bén, quyết liệt, có hiệu quả của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chính quyền các cấp; sự nỗ lực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp; sự tham gia tích cực, hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; sự đồng thuận, phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng của cả hệ thống chính trị và sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, đó là thành quả của việc Đảng ta đã khơi dậy và phát huy được truyền thống yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần lao động sáng tạo, trách nhiệm, quyết tâm và khát vọng phát triển của toàn thể Nhân dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
2. Hạn chế, yếu kém
Việc hoàn thiện thể chế phát triển còn chậm. Một số luật, cơ chế, chính sách, quy định, thủ tục hành chính còn mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu đồng bộ, gây cản trở đối với sự phát triển. Tăng trưởng kinh tế vẫn dưới mức tiềm năng, chưa đạt mục tiêu đề ra. Năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; tốc độ tăng năng suất lao động bình quân 5 năm ước đạt 5,3%, thấp hơn mục tiêu đề ra, hệ số ICOR vẫn còn cao (6,9). Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế còn chậm. Năng lực, trình độ công nghệ còn yếu, thiếu những ngành công nghiệp nền tảng, công nghệ chiến lược làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa trở thành động lực chính cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển đất nước. Kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, còn yếu, thiếu và chưa theo kịp yêu cầu. Việc khơi thông, huy động và phân bổ nguồn lực phát triển còn hạn chế.
Ô nhiễm môi trường chưa được kiểm soát hiệu quả, có mặt còn trầm trọng hơn, nhất là môi trường ở các đô thị lớn, khu công nghiệp và các làng nghề. Khả năng ứng phó, giảm thiểu tác hại của thiên tai và biến đổi khí hậu chưa đáp ứng yêu cầu. Việc quản lý, sử dụng tài nguyên, khoáng sản, nhất là đất đai và nguồn nước hiệu quả chưa cao.
Văn hóa chưa thực sự trở thành nguồn lực, sức mạnh nội sinh và động lực mạnh mẽ của sự phát triển. Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam chậm được làm rõ. Chưa tạo lập được đồng bộ cơ chế, chính sách, môi trường xã hội cần thiết cho sự phát triển toàn diện con người, nguồn nhân lực chất lượng cao và trọng dụng nhân tài. Đầu tư cho văn hoá còn thấp và dàn trải. Công nghiệp văn hoá, dịch vụ văn hoá, du lịch phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Thị trường văn hoá chậm phát triển. Môi trường văn hoá chưa thật sự lành mạnh; đạo đức xã hội còn biểu hiện xuống cấp. Việc quản lý một số hoạt động văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng còn bất cập, có dấu hiệu bị buông lỏng. Cơ hội tiếp cận và mức độ thụ hưởng thành quả phát triển văn hoá còn chênh lệch giữa các vùng, miền, tầng lớp nhân dân.
Thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo chưa đồng bộ, thiếu tính hệ thống, còn lúng túng. Việc thực hiện xã hội hoá trong giáo dục và đào tạo có biểu hiện sai lệch. Chất lượng giáo dục và đào tạo, nhất là giáo dục phẩm chất, nhân cách, nghề nghiệp, giáo dục đại học chậm được cải thiện. Giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn; chế độ, chính sách đối với nhà giáo còn bất cập.
Cơ chế, chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo còn nhiều hạn chế, vướng mắc. Cơ chế, chính sách, nguồn lực đầu tư, quản lý tài chính trong khoa học, công nghệ và chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ trí thức chưa phù hợp. Thị trường khoa học, công nghệ chậm phát triển. Một số ngành khoa học, công nghệ chiến lược, mũi nhọn phát triển còn chậm. Doanh nghiệp chưa thực sự đóng vai trò là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia.
An sinh xã hội, an ninh con người, phúc lợi xã hội chưa được bảo đảm vững chắc. Chính sách dân số và phát triển chưa theo kịp yêu cầu thực tế. Sự phân hoá giàu - nghèo, bất bình đẳng xã hội có xu hướng gia tăng. Hạ tầng giao thông, điện, nước ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn khó khăn. Dịch vụ y tế còn nhiều hạn chế, nhất là y tế cơ sở, y tế dự phòng.
Công tác tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có nhiều đổi mới, cách làm hay, song vẫn chưa bắt kịp với yêu cầu phát triển đột phá của đất nước. Vai trò lãnh đạo của một số cấp uỷ đảng còn hạn chế. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng có lúc, có nơi chưa sát thực tiễn, thiếu chiều sâu. Công tác cán bộ còn một số bất cập, nhất là trong đánh giá cán bộ; kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, nhất là quản lý cán bộ cấp chiến lược có mặt còn hạn chế. Một số cơ quan, tổ chức, nhất là cơ quan hành chính ở cấp xã và các đoàn thể được sắp xếp, hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền mới bước đầu còn một số khó khăn. Công tác xây dựng tổ chức đảng, quản lý và phát triển đảng viên còn một số khó khăn, bất cập, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo và khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao thiếu tu dưỡng, rèn luyện, không gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện đùn đẩy, né tránh, không dám làm, không dám đổi mới sáng tạo. Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của một số cơ quan, tổ chức, nhất là cơ quan chuyên môn, đoàn thể ở cấp xã bước đầu còn lúng túng. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn. Công tác kiểm tra, giám sát, tuyên giáo, dân vận, cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số... trong Đảng còn một số hạn chế. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận có mặt chưa theo kịp thực tiễn; chưa giải đáp thoả đáng một số vấn đề mới do thực tiễn đặt ra.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vẫn còn có mặt hạn chế. Sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp có mặt chưa rõ ràng, thiếu chặt chẽ; hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước chưa cao. Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, còn chồng chéo, mâu thuẫn, không phù hợp với thực tiễn; tổ chức thi hành pháp luật còn chưa tốt, cải cách thủ tục hành chính vẫn còn nhiều vướng mắc. Việc tiếp nhận và giải quyết kiến nghị của người dân và doanh nghiệp tại một số bộ, ngành, chính quyền địa phương còn chậm, chưa thoả đáng, gây nên những bức xúc kéo dài.
Hoạt động giám sát, phản biện xã hội, bảo vệ quyền lợi nhân dân của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội còn nhiều lúng túng, chất lượng chưa cao. Quyền làm chủ của Nhân dân chưa được thể chế hoá đầy đủ, có lúc, có nơi còn bị vi phạm.
Cơ chế, chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh có mặt chưa hoàn thiện. Bảo đảm quốc phòng, an ninh gắn với phát triển kinh tế - xã hội trên một số lĩnh vực, địa bàn chưa được chú trọng đúng mức. Đầu tư xây dựng khu vực phòng thủ ở một số địa phương chưa tương xứng với phát triển kinh tế - xã hội. Công tác bảo đảm an ninh cơ sở còn sơ hở, còn để xảy ra vụ việc gây mất an ninh, trật tự; vẫn còn mất cảnh giác trước âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; công tác đấu tranh, bảo đảm an toàn, an ninh mạng còn gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Việc triển khai, tổ chức thực hiện các cam kết, thoả thuận quốc tế đã ký kết chậm. Sự kết hợp giữa đối ngoại, hội nhập với phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh có mặt còn hạn chế.
Những hạn chế, yếu kém trên có nguyên nhân khách quan là do: Bối cảnh quốc tế thay đổi rất nhanh, nhiều khó khăn, thách thức, diễn biến phức tạp, ngoài dự báo; ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, thiên tai và biến đổi khí hậu; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động... Tuy nhiên, nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu. Đó là do nhận thức, năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành của một số cấp uỷ, chính quyền và lãnh đạo một số cơ quan, tổ chức, người đứng đầu còn hạn chế; nhiều yếu kém, bất cập tồn đọng, tích tụ từ trước chưa được xử lý triệt để, gây hệ luỵ kéo dài. Hệ thống thể chế phát triển chưa đồng bộ, trở thành "điểm nghẽn của điểm nghẽn". Một bộ phận cán bộ chưa thực sự ngang tầm với nhiệm vụ. Năng lực dự báo tình hình, tư duy và tầm nhìn chiến lược còn hạn chế; "tư duy nhiệm kỳ", "lợi ích nhóm" chưa được khắc phục triệt để; chưa phát huy hiệu quả vai trò "giám sát" của Nhân dân. Đây là những vấn đề cần tập trung khắc phục, sớm giải quyết dứt điểm để tạo nền tảng, điều kiện cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Đánh giá tổng quát, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, tuy còn một số hạn chế, bất cập nhưng đất nước ta đã đạt được những kết quả rất quan trọng, toàn diện, đột phá, nhiều điểm sáng nổi bật, cơ bản hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu đề ra. Tiềm lực, sức chống chịu và khả năng thích ứng của nền kinh tế được nâng lên, tạo đà tăng trưởng nhanh cho giai đoạn tiếp theo. Đặc biệt, cuối nhiệm kỳ đã ban hành và tổ chức thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả cao nhiều quyết sách chiến lược mang tính cách mạng. Kết quả cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị cho thấy đây là một chủ trương rất đúng, rất trúng, gần dân, phục vụ Nhân dân tốt hơn, xuất phát từ tầm nhìn chiến lược để phát triển đất nước lâu dài, có ý nghĩa lịch sử, được cán bộ, đảng viên, Nhân dân đồng tình ủng hộ, dư luận quốc tế đánh giá cao; các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là tổ chức bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, gần dân, phục vụ Nhân dân, sát cơ sở, cơ bản thông suốt, ổn định. Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, bảo đảm ổn định vĩ mô, duy trì được đà tăng trưởng khá. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước được giữ vững; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Môi trường hoà bình được giữ vững; đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, nâng tầm và đi vào chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được triển khai quyết liệt, toàn diện, đạt nhiều kết quả rất quan trọng, được cán bộ, đảng viên, Nhân dân đồng tình, hưởng ứng và tin tưởng. Phát triển con người, văn hoá, xã hội có nhiều tiến bộ; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân tiếp tục được cải thiện và không ngừng nâng lên; sức mạnh của Nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy, đồng thuận xã hội được tăng cường, củng cố. Việt Nam là điểm sáng được thế giới đánh giá cao về an toàn và ổn định xã hội; đột phá về tư duy, tầm nhìn, có cách làm mới trong lãnh đạo và quản trị phát triển, thể hiện bản lĩnh vững vàng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, chủ động nắm bắt thời cơ, kiến tạo phát triển, tạo tiền đề vững chắc cho giai đoạn mới của đất nước. Vai trò lãnh đạo, uy tín của Đảng tiếp tục được nâng cao, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
3. Bài học kinh nghiệm sau 40 năm đổi mới
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 40 năm đổi mới, trong đó có những đóng góp nổi bật của nhiệm kỳ Đại hội XIII là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục, là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Nhân dân ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế thời đại; qua đó chúng ta đã đúc kết được những bài học kinh nghiệm quý báu mang tầm lý luận, có giá trị định hướng thực tiễn cho sự nghiệp cách mạng của đất nước trong kỷ nguyên mới:
Thứ nhất, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, lấy phát triển để ổn định và ổn định để thúc đẩy phát triển bền vững, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; chủ động, tích cực hội nhập sâu rộng hơn vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế quốc tế và nền văn minh nhân loại, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện. Phát huy vai trò hạt nhân chính trị của Đảng trong kiến tạo tư duy phát triển, dẫn dắt thể chế, định hình chiến lược, thúc đẩy đồng thuận xã hội, khơi dậy khát vọng vươn mình của dân tộc. Xây dựng tổ chức bộ máy tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ và chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở gần dân, vì dân, sát cơ sở, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ. Nêu cao trách nhiệm, vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu.
Thứ ba, quán triệt sâu sắc và thực hành triệt để quan điểm "Dân là gốc". Phát huy vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp và hạnh phúc của Nhân dân; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; kiên trì thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng"; thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Lấy sự hài lòng, tín nhiệm của người dân, doanh nghiệp và hiệu quả công việc làm tiêu chí đánh giá cán bộ. Tăng cường củng cố và phát huy hiệu quả sức mạnh của Nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ tư, bám sát thực tiễn, nắm chắc và dự báo đúng tình hình; phản ứng chính sách chủ động, linh hoạt, kịp thời, phù hợp; lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm; phân công, phân cấp, phân quyền bảo đảm rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, rõ thời gian, rõ kết quả; kiểm tra, giám sát chặt chẽ bảo đảm thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng. Nâng cao chất lượng thể chế phát triển, đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách để kịp thời tháo gỡ điểm nghẽn, khơi thông, phát huy và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ năm, không ngừng đổi mới tư duy, nhất là tư duy chiến lược; tôn trọng quy luật khách quan; nhất quán, kiên định về chiến lược, linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; chủ động ngăn ngừa, phòng, chống bệnh chủ quan duy ý chí, giáo điều, cơ hội, bảo thủ. Giải quyết tốt quan hệ giữa kế thừa, bổ sung và phát triển; giữa kiên định và đổi mới; kết hợp nhuần nhuyễn và kịp thời giữa tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận; giữa tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Sau 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta đã từng bước xây dựng và hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới. Lý luận về đường lối đổi mới là tổng thể các quan điểm, mục tiêu, tầm nhìn, định hướng phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Nhân dân là trung tâm, là chủ thể; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xác lập mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam với 3 trụ cột nền tảng: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; xây dựng thành công một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đây là sự vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới; là sự bổ sung, phát triển sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phù hợp với các quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn đất nước và xu thế thời đại; kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa, giá trị văn hoá và các thành tựu phát triển của nhân loại; là ngọn đuốc soi đường tiếp tục dẫn dắt chúng ta thực hiện thành công khát vọng, tầm nhìn và các định hướng chiến lược, lập nên những kỳ tích phát triển mới trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

(còn tiếp dưới phần comment)

Address

Xã Sơn Giang
Huong Son

Telephone

+84975295103

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Sơn Giang 24h posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Business

Send a message to Sơn Giang 24h:

Share