Vàm Cỏ Hôm Nay

Vàm Cỏ Hôm Nay Chia sẻ tin tức nhanh chóng kịp thời các sự kiện xảy ra trong và ngoài nước.

18/11/2024
11/11/2024
11/11/2024

NGUYỄN ÁI QUỐC - NHỮNG NĂM THÁNG Ở QUẢNG CHÂU

Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng sống và hoạt động cách mạng ở nhiều nơi, nhiều nước, trong đó có Quảng Châu, Trung Quốc (1924 - 1927). Đây là nơi Người đã sống và hoạt động trong thời kỳ Quốc - Cộng hợp tác lần thứ nhất và đó cũng là địa bàn gần Tổ quốc mà Người đã lựa chọn trở về hoạt động để chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản - đội tiền phong của giai cấp và dân tộc Việt Nam.

LỰA CHỌN QUẢNG CHÂU LÀ MỘT BƯỚC ĐI QUAN TRỌNG

Trên hành trình tìm đường cứu nước để giải phóng dân tộc khỏi áp bức, bất công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường cứu nước trong thời đại mới - con đường mà Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã giành thắng lợi và Người đã trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Một chặng đường mới trên hành trình hoạt động cách mạng của Người - khi rời Pháp đến nước Nga Xô Viết để học tập, trau dồi lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin; khi tiến hành các hoạt động thực tiễn phong phú đã giúp Người hiểu rõ cần phải đi về đâu và làm thế nào để tiến hành sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.

Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc đã viết trong Thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về Tổ quốc, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”(1). Đến nước Nga, khi trả lời phỏng vấn Giôvanni Giécmanto - Phóng viên báo L’Unità, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Italia, ngày 15/3/1924: “Khi học xong, anh dự định làm gì?”, Nguyễn Ái Quốc đã trả lời: “Dĩ nhiên là tôi sẽ trở về Tổ quốc để đấu tranh cho sự nghiệp của chúng tôi. Ở bên chúng tôi còn nhiều việc phải làm lắm”(2). Tuy nhiên, từ những hoạt động lý luận và thực tiễn ở Liên Xô, nhận thức của Người về cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa, mối quan hệ giữa cách mạng ở thuộc địa với cách mạng ở chính quốc… đã giúp Người xác định được con đường để giải phóng dân tộc, vì thế kế hoạch “trở về Tổ quốc” của Người đã thay đổi. Điều này thể hiện rõ trong Thư gửi Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản ngày 11/4/1924 của Nguyễn Ái Quốc: “Trước hết tôi phải đi Trung Quốc. Tiếp đó sẽ hướng sự hoạt động theo những khả năng sẽ xuất hiện”(3) - Đó chính là thiết lập những quan hệ giữa Đông Dương và Quốc tế Cộng sản; thông báo tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của thuộc địa này; tiếp xúc với các tổ chức đang tồn tại ở đó; tổ chức một cơ sở thông tin và tuyên truyền…

Trong khi đó, ở Trung Quốc, tình hình Quốc - Cộng hợp tác có chiều hướng phát triển tốt đã thúc đẩy sự phát triển của cách mạng Trung Quốc, nhất là ở Quảng Châu. Vì thế, để tăng cường cán bộ cho phái bộ M. M. Bôrôđin giúp đỡ cách mạng Trung Quốc, ngày 25/9/1924, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã quyết định: “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc cần đi Quảng Châu. Chi phí do Ban Phương Đông chịu”(4) theo đề nghị của Người. Vì thế, Người đã rời nước Nga và ngày 11/11/1924, về đến Quảng Châu, Trung Quốc (trên cương vị phái viên của Quốc tế Cộng sản; trong Phái bộ của Cố vấn Bôrôđin, bên cạnh Chính phủ Tôn Trung Sơn), với tên gọi Lý Thụy để triển khai kế hoạch hoạt động của mình. Từ những “ưu thế” không thể phủ nhận của Quảng Châu, có thể hiểu được vì sao Nguyễn Ái Quốc lại chọn địa bàn chiến lược này làm điểm “dừng chân” để xây dựng “căn cứ địa” và triển khai những hoạt động quan trọng trong lộ trình giải phóng dân tộc.

Thứ nhất, Quảng Châu khi đó đang là trung tâm phong trào cách mạng của Trung Quốc. Năm 1924, được Đảng Cộng sản Trung Quốc giúp đỡ, Tôn Trung Sơn đã cải tổ thành công Quốc Dân Đảng, thành lập Chính phủ Cách mạng tại Quảng Châu và với vị thế Tổng thống, Tôn Trung Sơn đã tiến hành công cuộc hợp tác giữa Quốc Dân Đảng với Đảng Cộng sản lần đầu tiên; đã tiếp nhận sự trợ giúp của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên Xô (với sự giúp đỡ của Đoàn cố vấn do Liên Xô và Quốc tế Cộng sản cử tới); đồng thời triển khai thực hiện 3 chính sách lớn “Liên Nga, liên Cộng, phù trợ công nông”.

Thứ hai, Quảng Châu khi đó đang được mệnh danh là “Mátxcơva của phương Đông”. Khi ấy, những người cộng sản Trung Quốc như Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân, Trương Thái Lôi... mà Nguyễn Ái Quốc từng gặp gỡ, cùng hoạt động cách mạng khi còn ở Paris và được Người giới thiệu vào Đảng Cộng sản Pháp thập niên 1920 cũng đã có mặt tại Quảng Châu, nên nơi đây đã thu hút nhiều nhà cách mạng từ những nước thuộc địa và phụ thuộc đến hoạt động.

Thứ ba, Quảng Châu khi đó vừa gần Việt Nam, vừa là địa bàn đang có nhiều thanh niên Việt Nam yêu nước, đầy nhiệt huyết sang hoạt động, trong đó có tổ chức Tâm Tâm Xã. Dù là một tổ chức yêu nước, nhưng Cương lĩnh của tổ chức này vừa chưa rõ ràng, vừa phần nào chịu ảnh hưởng của một số tổ chức cánh tả ở Trung Quốc, nên đây cũng vừa là mảnh đất tốt, vừa có những hạt giống tốt để Nguyễn Ái Quốc có thể gieo mầm con đường cách mạng vô sản theo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Hơn nữa, Quảng Châu còn có những điều kiện tương đối thuận lợi về giao thông, dễ thực hiện việc chuyển tài liệu, sách báo bí mật cũng như đưa người sang và đưa người về nước để phát triển phong trào cách mạng…

Thực tế là Nguyễn Ái Quốc không chỉ lựa chọn Quảng Châu để thực hiện “lộ trình” giải phóng dân tộc Người đã ấp ủ, mà Người còn triển khai lộ trình đó vừa đúng đắn vừa phù hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam để tiến hành thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc trong những thập niên sau.

DẤU ẤN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC Ở QUẢNG CHÂU

Được về hoạt động tại một địa bàn gần Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc không chỉ kịp thời báo cáo tình hình của Người về Mátxcơva (thông qua 3 bức thư gửi cho Quốc tế Cộng sản; cho đồng chí Đômban - Tổng thư ký Quốc tế Nông dân và cho Ban biên tập Tạp chí Rabốtnhítxa), mà còn nhanh chóng bắt liên lạc với những người Việt Nam yêu nước, trong đó có những thanh niên hăng hái nhất trong tổ chức Tâm Tâm xã để mở rộng địa bàn hoạt động. Với công việc này, Người đã báo cáo cán bộ phụ trách Ban Phương Đông là “đã tìm thấy ở đây một vài người Đông Dương mà với họ, tôi hy vọng làm được việc gì đó”(5).

Tiếp đó, từ những thanh niên yêu nước này, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (6/1925) - một tổ chức có tính chất quần chúng “có khuynh hướng mácxít”, với hạt nhân là Cộng sản đoàn gồm 9 đồng chí (Lê Hồng Sơn tức Lê Văn Phan; Lê Hồng Phong tức Lê Huy Doãn; Hồ Tùng Mậu tức Hồ Bá Cự; Lê Quảng Đạt tức Lê Doạt; Vương Thúc Oánh; Trương Vân Lĩnh tức Lệnh; Lưu Quốc Long tức Quý; Lý Quý tức Trần Phú; Lâm Đức Thụ tức Nguyễn Chí Viễn).

Được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số; thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình; yêu cầu tất cả các hội viên phải hoạt động trong quần chúng, tuyệt đối giữ bí mật hoạt động của Hội... Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã thu hút nhiều thanh niên Việt Nam yêu nước đến Quảng Châu dù thực dân Pháp khủng bố gắt gao.

Có thể nói, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên là một sáng tạo, có chủ đích của Nguyễn Ái Quốc, bởi “trong tư tưởng của những người đứng ra tổ chức thì Hội này sẽ là cơ sở cho một đảng lớn hơn và tương lai đã chứng minh điều đó”(6) . Thông qua những hội viên của Hội này và qua hoạt động của phong trào vô sản hoá, chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ được truyền bá về trong nước, xâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, mà còn thúc đẩy, làm thay đổi tính chất, chiều hướng phát triển của phong trào cách mạng trong nước, làm cho khuynh hướng vô sản lan tỏa, phổ rộng và phong trào công nhân chuyển dần từ tự phát sang tự giác…

Không chỉ dừng ở việc sáng lập và tổ chức hoạt động Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Nguyễn Ái Quốc còn tiến hành đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán “thời dựng Đảng” cho cách mạng Việt Nam bằng việc mở các Lớp huấn luyện chính trị tại số nhà 13 và 13/1 đường Văn Minh (nay là số nhà 248 và 250). Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp phụ trách lớp và là giảng viên chính của các khóa học. Ngoài ra còn có Hồ Tùng Mâu, Lê Hồng Sơn; một số cán bộ trong Đoàn cố vấn của Liên Xô và một số cán bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Các bài giảng tập trung vào 3 loại vấn đề “cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam và phương pháp vận động cách mạng” gắn với hoạt động ra “bích báo” của học viên; tổ chức các vở diễn “kịch cương”, sinh hoạt văn nghệ hoặc tham quan Trường Quân sự Hoàng Phố… đã giúp cho các học viên sự liên hệ lý luận với thực tiễn. Với 3 khóa huấn luyện (từ đầu năm 1926 - 4/1927), đã có khoảng 75 học viên học xong đã trở về nước và đến Xiêm hoạt động. Đó chính là những “hạt giống đỏ”, những người tuyên truyền, tổ chức phong trào cách mạng ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Nam Kỳ và Việt kiều ở Xiêm.

Đặc biệt, ngay từ thời gian này, để thực hiện sự kế tục trong xây dựng và đào tạo cán bộ, Nguyễn Ái Quốc không chỉ lựa chọn một số thanh niên Việt Nam để gửi đi học ở Trường Đại học Phương Đông và Trường Quân sự Hoàng Phố, mà còn viết thư gửi Uỷ banTrung ương thiếu nhi Liên xô, gửi thư cho đại diện đoàn Thanh niên cộng sản Pháp tại Quốc tế Thanh niên cộng sản đề nghị giúp đỡ, để gửi một số thiếu niên Việt Nam sang Liên Xô học tập. Mục đích của Người là “để các em được tiếp thu một nền giáo dục cộng sản chủ nghĩa tốt đẹp, trở thành những thiếu nhi cộng sản đầu tiên của nước An Nam”- “những chiến sĩ Lêninnít tí hon chân chính” - hạt nhân vừa hồng vừa chuyên của Đoàn Thanh niên Cộng sản sau này. Đó cũng chính là thế hệ “rường cột” đảm đương vai trò kế tục sự nghiệp cách mạng của cha anh.

Cùng với việc đào tạo cán bộ, Nguyễn Ái Quốc chủ trương xuất bản sách, báo chí làm phương tiện tuyên truyền. Đầu tiên, báo Thanh Niên ra đời, số 1 ra ngày 21/6/1925. Trong tổng số 202 số báo Thanh Niên, thì có có 88 số báo được xuất bản từ 21/6/1925 - 17/4/1927 do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp biên soạn, sửa chữa. Từ việc xác định rõ mục đích của báo là “gửi về nước để tuyên truyền cho nhân dân”, Người chọn lối viết ngắn gọn, dễ hiểu thể hiện qua tranh vẽ, ca dao, thơ ca, khẩu hiệu đăng tải trong các chuyên mục Tin tức trong nước, Thế giới, Phụ nữ, Từ điển cách mạng,v.v.. để tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa cộng sản, Đảng Cộng sản. Nội dung của các bài báo không chỉ khơi dậy truyền thống yêu nước, ý chí đấu tranh chống giặc ngoại xâm, mà còn kêu gọi tinh thần đoàn kết của mọi người dân để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc.

Dù số lượng phát hành không nhiều (100 bản), nhưng báo Thanh Niên có hình thức nhỏ, gọn được chuyển về trong nước, được người dân truyền đọc và ghi chép lại đã góp phần mang hơi thở của thời đại đến với phong trào công nhân, phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam; đồng thời đưa ý thức hệ vô sản lan tỏa trong đời sống xã hội Việt Nam, góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng Mácxít Lêninnít kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam.

Sau báo Thanh Niên, Người cho xuất bản báo Công nông (từ 12/1926 - đầu năm 1928), Bán nguyệt san Lính Cách mệnh (đầu năm 1927 - đầu năm 1928); Việt Nam tiền phong cho những đối tượng hẹp hơn…

Tiếp đó, Nguyễn Ái Quốc dành thời tập hợp và hoàn thiện những bài giảng của mình tại các Lớp huấn luyện chính trị để xuất bản thành cuốn sách Đường Kách mệnh. Sách được Bộ Tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản đầu năm 1927, làm tài liệu học tập và truyên truyền. Đường Kách mệnh được bí mật được chuyển về trong nước không chỉ là một trong những tác phẩm lý luận quan trọng, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam, mà còn góp phần trang bị lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cho nhân dân/đưa thế giới đương đại hội nhập với Việt Nam và đưa cách mạng Việt Nam hội cùng dòng chảy của cách mạng thế giới.

Những năm tháng ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc còn cùng với các đồng chí Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, Miến Điện… vận động thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức (9/7/1925) nhằm đoàn kết, liên lạc với các dân tộc bị áp bức cùng làm cách mạng nhằm đánh đổ đế quốc, bởi “con đường thoát duy nhất để xóa bỏ sự áp bức chỉ có thể là liên hiệp các dân tộc nhỏ yếu bị áp bức và giai cấp vô sản toàn thế giới”(7).

Tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức mở rộng hơn Hội Liên hiệp thuộc địa (1922) không chỉ “đánh dấu sự thức tỉnh của các dân tộc châu Á”, mà còn nhanh chóng thu hút đông đảo sự tham gia của chi hội Nông dân Quảng Đông, Hội Phụ nữ Quảng Đông,v.v.. Với Hội này, Nguyễn Ái Quốc “mang tên Lý Thụy là một trong những người lãnh đạo của Hội, được bầu làm Bí thư kiêm phụ trách công việc tài chính của Hội, đồng thời cũng là người trực tiếp phụ trách chi bộ Việt Nam của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức”(8).

Cũng ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã quan tâm, nghiên cứu tình hình nông dân Trung Quốc (bài viết “Tình cảnh nông dân Trung Quốc” ngày 4/1/1924; “Nông dân Trung Quốc” ngày 19 - 21/3/1925); đã tham gia tổ chức Đại hội lần thứ nhất của nông dân tỉnh Quảng Đông (1/5/1925); đã tham gia tổ chức Hội nghị đại biểu đầu tiên của 20 vạn nông dân tỉnh Quảng Đông và Hội nghị đại biểu lần thứ hai của công nhân Trung Quốc (đầu tháng 5/1925) nhằm “thành lập một Mặt trận thống nhất giữa những người bị bóc lột ở thành thị và nông thôn”; đã tham gia đội diễn thuyết, ủng hộ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Trung Quốc…

Thực tế là sau ngày 12/4/1927, mặc dù Tưởng Giới Thạch đã tiến hành đảo chính phản cách mạng và đàn áp khủng bố các lực lượng cách mạng, nhưng Nguyễn Ái Quốc “vẫn tiếp tục ở lại Quảng Châu để bí mật liên lạc với các đồng chí Trung Quốc và duy trì công việc của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên”(9), thể hiện rõ tinh thần, trách nhiệm của một người chiến sĩ cộng sản quốc tế…

Tháng 6/1927, trước khi rời Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã viết gửi Ban Phương Đông kết quả công tác của mình: “Mặc dù thiếu thời gian và tiền, nhờ sự giúp đỡ của các đồng chí người Nga và Annam, chúng tôi đã có thể: 1) Đưa 75 thanh niên Annam đến học ở Trường tuyên truyền do chúng tôi tổ chức ở Quảng Châu, 2) Xuất bản ba tờ tuần báo nhỏ, 3) Phái những người tuyên truyền vừa mới được đào tạo về Xiêm, Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Nam Kỳ, 4) Thành lập một liên đoàn cách mạng do một uỷ ban gồm 5 uỷ viên ở Quảng Châu lãnh đạo, liên đoàn đã bắt rễ khắp nơi trong tất cả các xứ Đông Dương đó”(10). Những nội dung ngắn gọn trong báo cáo này là kết quả thực hiện kế hoạch mà Nguyễn Ái Quốc đã đề ra trong những năm tháng hoạt động cách mạng ở Quảng Châu (11/11/1924 - 5/1927). Những kết quả này không chỉ có ý nghĩa vô cùng to lớn, góp phần quan trọng dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam; con đường và tiến trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng sau đó, mà còn tác động đến phong trào cách mạng Trung Quốc nói riêng và Quốc tế Cộng sản nói chung.

Những thông tin trong các báo cáo, trong những bài viết của Nguyễn Ái Quốc thời kỳ này không những giúp Quốc tế Cộng sản nắm được tình hình phong trào cách mạng ở các nước phương Đông, mà còn phân tích, đánh giá, làm phong phú hơn lý luận của Quốc tế Cộng sản trong lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản bởi thực tiễn sinh động ở Trung Quốc và An Nam…

Đặc biệt, từ sự am hiểu tình hình Trung Quốc, phong trào cách mạng Trung Quốc - Nguyễn Ái Quốc đã không chỉ là Người bắc nhịp cầu đoàn kết giữa những người cộng sản Việt Nam và những người cộng sản Trung Quốc, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Trung Quốc, mà còn đặt nền móng vững chắc cho mối quan hệ tương hỗ, tương trợ, cùng đấu tranh vì hòa bình, độc lập, tự do giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc “có núi liền núi, sông liền sông” ở những thời kỳ sau./.

07/11/2024

GIÁM ĐỐC CÔNG AN LÀ THIẾU TƯỚNG, CHỈ HUY TRƯỞNG QUÂN SỰ CŨNG PHẢI THIẾU TƯỚNG THÌ “KHÓ THẬT”

Ngày 5/11, Quốc hội thảo luận ở hội trường về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.

Một nội dung được nhiều đại biểu quan tâm khi dự thảo luật đề xuất nâng hạn tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan quân đội cấp úy, cấp tá lên 1-4 năm.

Cụ thể, với cấp úy, hạn tuổi cao nhất của sĩ quan tại ngũ (tuổi nghỉ hưu) tăng từ 46 tuổi lên 50; thiếu tá từ 48 lên 52; trung tá từ 51 lên 54; thượng tá từ 54 lên 56; đại tá từ 57 tuổi (đối với nam) và 55 (đối với nữ) lên 58 (không phân biệt nam, nữ).

Đại biểu Lữ Văn Hùng (đoàn Bạc Liêu) đề nghị nghiên cứu cấp quân hàm của chỉ huy trưởng quân sự thành phố. Theo ông, cần xem xét nghiên cứu cho tương xứng khi giám đốc công an là thiếu tướng mà chỉ huy trưởng quân sự chỉ là đại tá, trong khi cả hai đều là ủy viên thường vụ tỉnh ủy.

Lý giải về vấn đề trên, Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Quốc phòng cho biết, nếu quy định giám đốc công an là thiếu tướng, chỉ huy trưởng quân sự phải thiếu tướng thì "chúng tôi thấy khó thật”.

Bộ trưởng phân tích, giám đốc công an tỉnh chỉ có 1 thiếu tướng nhưng chỉ huy trưởng quân sự tỉnh liên quan đến chính ủy, rồi chỉ huy trưởng biên phòng tỉnh cũng liên quan đến chính ủy. 4 vị trí này như nhau mà lại chỉ chọn 1 để phong tướng thì “khó cân lắm”.

Vì vậy, Bộ trưởng Quốc phòng đề nghị, vị trí này "chúng tôi đề nghị vẫn là đại tá”, bởi nhiệm vụ của công an và quân đội khác nhau dù đều là lực lượng vũ trang trong giai đoạn thời bình.

05/11/2024

SAI LẦM KHI ĐEM NGÔ ĐÌNH DIỆM RA SO SÁNH VỚI CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VĨ ĐẠI

Hết chuyện phiếm để bàn, đám kền kền hậu duệ của tàn quân “VNCH” tái diễn trò lật sử, đưa hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh để so sánh với Ngô Đình Diệm. Việc đưa ca tụng ông Diệm đã là một sai lầm và càng sai lầm hơn nữa khi so sánh ông Diệm với Hồ Chủ tịch. Bởi lẽ:

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước chân chính, một vị lãnh tụ thiên tài trong thế kỷ XX; sau bao năm buôn ba tìm đường cứu nước, Người về lãnh đạo Đảng, quân đội, nhân dân đứng lên khởi nghĩa dành chính quyền, đánh đuổi thực dân, đế quốc ra khỏi bờ cõi, đem lại hòa bình, độc lập, tự do cho người dân Việt Nam.

Còn Ngô Đình Diệm chỉ là tên bù nhìn do Mỹ dựng lên, hay nói cách khác ông ta là tay sai của đế quốc Mỹ sử dụng nhằm chống phá cách mạng Việt Nam lâu dài. Chính vì vậy, năm 1956, do hiểu rõ bản chất của Diệm, nhân dân miền Nam Việt Nam có thiên hướng ủng hộ Chính phủ lâm thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh hơn chính quyền Ngô Đình Diệm; theo đó Mỹ, VNCH đơn phương phá hoại hiệp định Giơ-ne-vơ, tiếp tục thực hiện chia cắt đất nước lâu dài theo ý đồ của Mỹ.

Đặc biệt, trong quá trình cai trị, Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách độc tài theo dạng “gia đình trị”, sử dụng bạo lực có vũ trang để bình thiên hạ; bộ mặt gian ác, “bán nước cầu vinh” của anh em Ngô Đình Diệm đã khiến cho nhân dân miền Nam căm phẫn tận xương tủy. Cái chết trong cuộc đảo chính chính là cái kết cay đắng cho một kẻ sẵn sàng vì lợi ích cá nhân ngồi xổm trên nỗi đau của đồng bào.

Một con người như vậy, đâu có đủ tư cách được đem ra so sánh với Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới. Chính vì thế, cho nên đám kền kền “việt tân” chỉ còn biết bới lông tìm vết, đưa việc ăn mặc của ông Diệm để so bì với Hồ Chủ tịch.

Đây được xem là trò bỉ ổi nhất của đám “việt tân”. Nếu xét vế truyền thống văn hóa Việt Nam, Hồ Chỉ tịch là tấm gương sáng ngời trong việc giữ gìn, phát triển văn hóa truyền thống. Người ăn mặc giản dị theo phong cách của một lão nông để được gần gũi với nhân dân, kính trọng nhân dân để được nhân dân yêu quý. Còn những gì mà đám kền kền ca tụng Diệm, chẳng qua là kiểu “phông – bạt” làm màu để mị dân mà thôi.

Bên cạnh đó, cần nhận thức đúng đắn về chiếc áo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh mặc khi gặp ông Chu Ân Lai (cố Thủ tướng của Trung Quốc) là chiếc áo được giới chức Cộng sản mặc trong các hoạt động quốc tế. Cho nên, nếu như dư luận không tường minh về nguồn gốc của chiếc áo đó có thể sẽ bị đám kền kền dắt mũi cho rằng Hồ Chủ tịch mặc quần áo của người Trung Quốc, qua đó củng cố thêm luận điệu xuyên tạc về đời tư của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà đám lều báo rêu rao bấy lâu nay.

05/11/2024

MỖI CHI BỘ ĐỪNG ĐỂ ĐẢNG VIÊN “QUÊN RỬA MẶT” HÀNG NGÀY

Tự phê bình và phê bình là “vũ khí sắc bén”, là quy luật, nguyên tắc bất di bất dịch trong xây dựng, chỉnh đốn của Đảng Cộng sản. Người đảng viên cộng sản chân chính luôn coi tự phê bình và phê bình là công việc thường xuyên, liên tục để tự tôi rèn mình, từ đó biết sửa sai, điều chỉnh những gì chưa đúng, chưa chuẩn mực, phát triển và nhân lên những việc làm đúng, điều tốt đẹp mà mỗi đảng viên đem lại cho xã hội.

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều bài viết, bài nói về việc tự phê bình và bình. Tháng 10/1947, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Bác viết: “Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả, điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra, lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư”.

Cũng trong tác phẩm này, Người chỉ rõ: “Thang thuốc tốt nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình”. Mỗi cán bộ, đảng viên “mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”. “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Đảng cần phải biết những ưu điểm và khuyết điểm của mình “để dạy dỗ đảng viên, dạy dỗ quần chúng”.
Mặc dù đến Đại hội II (1951), Đảng ta mới đưa tự phê bình và phê bình vào Điều lệ Đảng, nhưng ngay từ khi mới ra đời (3/2/1930), Đảng ta đã mang trong mình tinh thần “tự chỉ trích” rất nghiêm túc. Dù thời gian đã lùi xa nhưng những tư tưởng, lời dạy của Bác đến nay vẫn còn nguyên giá trị, là kim chỉ nam để Đảng ta vận dụng vào thực tiễn quá trình lãnh đạo đất nước. Trải qua 94 năm với bề dày lịch sử, kinh nghiệm, trí tuệ, khoa học, trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng ta đặc biệt coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là việc tự phê bình và phê bình, trong đó coi việc “tự soi, tự sửa” của mỗi đảng viên, tổ chức đảng là mấu chốt để đánh giá chất lượng đảng viên và tổ chức đảng.

Trong 3 nhiệm kỳ Đại hội Đảng gần đây, Đảng ta đều có nghị quyết, kết luận về việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng với mong muốn Đảng ta ngày càng vững mạnh, trong sạch. Đó là: Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Đến Đại hội XIII của Đảng đã tổng kết sâu sắc, toàn diện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và chỉ rõ: “Trong những năm tới, phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII đã ban hành Kết luận 21 về: “Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Tuy đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử nhưng kiểm điểm công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã nhận thấy: “Tự phê bình và phê bình ở không ít nơi còn hình thức; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi; một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ được giao”.

Cũng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay cho thấy có không ít cán bộ, đảng viên, nhất là một số cán bộ cấp cao, thuộc diện Ban Bí thư, Bộ Chính trị quản lý đã vi phạm Điều lệ Đảng, những điều đảng viên không được làm và vi phạm pháp luật nghiêm trọng, bị xử lý nghiêm minh về kỷ luật Đảng và cả xử lý hình sự. Qua những vụ việc trên cho thấy công tác tự phê bình và phê bình của một số tổ chức đảng và đảng viên chưa nghiêm túc; công tác đấu tranh, phê bình của các tổ chức đảng có đảng viên vi phạm đã bị nơi lỏng, xem nhẹ. Nhất là vai trò của người đứng đầu, của cán bộ chủ trì bị buông lỏng, chi phối tác động do lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm. Những đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật của

Nhà nước là do trong cuộc sống, công việc hằng ngày đã quên rằng mình đang là cán bộ, đảng viên, là những công bộc, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

Đừng để đảng viên xem nhẹ trách nhiệm “tự soi, tự sửa” và “quên rửa mặt” hằng ngày, mỗi tổ chức đảng và đảng viên cần phát huy tinh thần đấu tranh thẳng thắn, góp ý chân thành, vì sự nghiệp chung của Đảng. Tránh tình trạng thấy sai mà không dám phê bình, góp ý để đồng chí, đồng đội mình tiến bộ, trưởng thành; để đảng viên không kéo dài, lún sâu vào những sai lầm, khuyết điểm, sớm nhận ra những việc làm ti tiện, sai trái, nhanh chóng khắc phục hậu quả (nếu có), sửa chữa lỗi lầm của mình gây ra, giữ gìn uy tín cho Đảng, danh dự cho bản thân, gia đình, dòng họ. Có làm việc ắt sẽ có sai sót, khuyết điểm nhưng sớm tự nhận ra hoặc được đảng viên cùng tổ đảng, cùng chi bộ nhắc nhở, cảnh tỉnh chắc chắn đảng viên sẽ sớm tỉnh ngộ, tránh được những vi phạm./.

st

05/11/2024

Lại thêm những luận điệu xuyên tạc việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của công dân
Những ngày này, khi các địa phương trên cả nước đang tích cực triển khai công tác khám sức khỏe (từ ngày 1-11 đến 31-12), gọi thanh niên nhập ngũ thì trên không gian mạng lại xuất hiện các thông tin, luận điệu sai trái, xuyên tạc việc tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự (NVQS), đả kích môi trường quân ngũ. Đây là luận điệu nhằm bôi nhọ hình ảnh, truyền thống của người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, xuyên tạc việc thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc, tạo dư luận xấu, gieo rắc tư tưởng thoái thác về trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân với Tổ quốc, nhất là những người trong độ tuổi thực hiện NVQS.
Những luận điệu sai trái, xuyên tạc
Trên không gian mạng, mạng xã hội, các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị đang rêu rao, tuyên truyền các bài viết, đăng status, dòng trạng thái sai sự thật như: “Trong khi các nước phát triển quan tâm chăm lo đào tạo cho thanh niên lập nghiệp, làm ăn kinh tế thì chỉ có Việt Nam mới bắt ép người dân đi NVQS, nghĩa vụ công an”, “hãy để thanh niên lập nghiệp, làm giàu, đừng bắt đi NVQS”, “mất 2 năm đi NVQS về chẳng được gì”, “chỉ con nhà nghèo mới bị bắt đi nghĩa vụ”...
Trong khi sự thật là, nhiều nước trên thế giới vẫn đang áp dụng bắt buộc nghĩa vụ quân sự, không thực hiện miễn, hoãn-kể cả các ngôi sao nghệ thuật. Nguy hiểm hơn, các thế lực thù địch, phản động còn đăng tải các cảnh bạo lực, quân phiệt của quân đội nước ngoài với lời bình xuyên tạc là ở Việt Nam; họ cắt ghép, dàn dựng hình ảnh, video để bóp méo sự thật, xuyên tạc về đạo đức, tác phong và hoạt động của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội... nhằm kích động một số người nhẹ dạ, cả tin, thiếu hiểu biết chia sẻ, lan tỏa trên mạng xã hội, làm nóng vấn đề.
Mục đích của họ là bôi nhọ hình ảnh tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ, bản chất, truyền thống, uy tín của Quân đội, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Quân đội, với Đảng, Nhà nước. Từ đó, khiến cho công dân đến độ tuổi nhập ngũ và gia đình, người thân “tự diễn biến”, dao động tư tưởng, hoài nghi, thiếu niềm tin, trốn tránh thực hiện NVQS, chống đối việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Hệ quả là rơi vào âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tham gia biểu tình, chống phá, kích động các quân nhân đào ngũ, bỏ ngũ.
Trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng của mọi công dân
Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật trường tồn của dân tộc Việt Nam. Lịch sử minh chứng, biết bao thế hệ ông cha đã ngã xuống cho nền độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, hàng triệu thanh niên Việt Nam đã xung phong “xếp bút nghiên lên đường ra trận”, trở thành những chiến sĩ kiên trung, bất khuất.
Những anh hùng liệt sĩ như: Võ Thị Sáu, Lý Tự Trọng, Bế Văn Đàn, Cù Chính Lan, Tô Vĩnh Diện, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm, 10 nữ thanh niên xung phong tại Ngã ba Đồng Lộc... là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, niềm tự hào của các thế hệ thanh niên Việt Nam học tập, noi theo: “Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không thể là con đường nào khác”-câu nói đanh thép của Anh hùng Lý Tự Trọng đã trở thành lời hiệu triệu, động lực thôi thúc hàng triệu thế hệ thanh niên Việt Nam mong muốn được cống hiến, hy sinh cho Tổ quốc.
Thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc là quyền lợi và trách nhiệm cao cả của mỗi công dân Việt Nam để bảo vệ nền độc lập, tự do, hòa bình cho Tổ quốc, bảo vệ sự bình yên cho chính quê hương, gia đình, người thân của mình. Thực hiện NVQS đã được hiến định trong Hiến pháp, pháp luật Nhà nước. Điều 45, Chương II, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.
Công dân phải thực hiện NVQS và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân” và Điều 64, Chương IV quy định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân... Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh”. Thể chế hóa Hiến pháp, khoản 1, khoản 2, Điều 4 và khoản 1, Điều 59 Luật NVQS năm 2015 quy định: “NVQS là nghĩa vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân; công dân trong độ tuổi thực hiện NVQS, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú phải thực hiện NVQS theo quy định.
Tổ chức, cá nhân có hành vi trốn tránh, chống đối, cản trở việc thực hiện NVQS thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự”. Theo đó, công dân đến tuổi tham gia NVQS không thể đưa ra để bàn luận, so đo, tính toán “đi hay không đi”, “dám hay không dám”. Việc trốn tránh NVQS, trốn tránh trách nhiệm công dân không những vi phạm pháp luật mà còn là tội lớn với thế hệ cha anh đi trước, với Tổ quốc và dân tộc.
Trường học lớn để thanh niên phấn đấu
Cần khẳng định, Quân đội là trường học lớn để lớp lớp thế hệ thanh niên phấn đấu rèn luyện, trưởng thành. Được phục vụ trong môi trường Quân đội, cống hiến sức trẻ bảo vệ Tổ quốc là niềm vinh dự, tự hào của mỗi công dân. Với kỷ luật tự giác và nghiêm minh, môi trường văn hóa quân sự là cơ hội để thanh niên học tập, rèn luyện, trưởng thành và cống hiến.
Cùng với sự phát triển của đất nước, đời sống vật chất, tinh thần, chế độ, chính sách đối với quân nhân ngày càng được quan tâm, bảo đảm tốt. Quá trình thực hiện NVQS, thanh niên được học tập, tiếp thu những kiến thức về chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ hữu ích cho bản thân. Trong môi trường quân ngũ, họ được học tập, quán triệt đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên các lĩnh vực, nhất là về quốc phòng, an ninh, chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; được giáo dục chính trị, truyền thống, giáo dục pháp luật...
Thông qua đó, thanh niên trưởng thành về nhận thức chính trị, hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học để nhận diện rõ, đúng những vấn đề thời sự, chính trị diễn ra trong nước và thế giới; đồng thời, nâng cao tinh thần yêu nước, nhận thức, ý thức cảnh giác cách mạng, có lập trường chính trị vững vàng, có khả năng “miễn dịch” trước những luận điệu xuyên tạc, kích động, chống phá của các thế lực thù địch.
Môi trường quân ngũ còn giúp thanh niên được rèn luyện sức khỏe, thể lực dẻo dai; tác phong chững chạc, có trách nhiệm cao với công việc, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm; giao tiếp, ứng xử đúng mực, có văn hóa. Quân đội cũng chính là môi trường giáo dục tốt nhất về tình đồng chí, đồng đội; tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái; cán bộ, chiến sĩ đồng sức, đồng lòng cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ. Đó còn là nơi mà thanh niên thấm nhuần sâu sắc tình đoàn kết, gắn bó máu thịt quân dân, tình yêu quê hương, đất nước trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Bên cạnh đó, sau khi huấn luyện, những quân nhân có đủ điều kiện sẽ được tuyển chọn, bố trí công việc phù hợp với khả năng hoặc cử đi đào tạo để trở thành sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp (nếu có nguyện vọng phục vụ lâu dài trong Quân đội). Những quân nhân hoàn thành NVQS, khi xuất ngũ sẽ được hưởng chính sách ưu đãi như cộng điểm khi thi tuyển sinh vào các trường đại học, học viện, hỗ trợ đào tạo học nghề, tạo công ăn việc làm...
Khi xuất ngũ được hưởng trợ cấp xuất ngũ, trợ cấp việc làm, trợ cấp bảo hiểm, thanh toán nghỉ phép, quà Tết, phụ cấp, thẻ học nghề giúp thanh niên lập thân, lập nghiệp và ổn định cuộc sống sau này. Điều đó minh chứng, môi trường Quân đội không những không “xấu” như sự bịa đặt, xuyên tạc của các thế lực thù địch mà còn là nơi có điều kiện tốt để thanh niên rèn luyện, phấn đấu, trưởng thành về mọi mặt.
Thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc không chỉ là nghĩa vụ, trách nhiệm mà trên hết đó còn là niềm vinh dự, tự hào của mỗi công dân Việt Nam, góp phần bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, giữ gìn bản sắc, truyền thống dân tộc, hội nhập quốc tế. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để các thế hệ thanh niên được tu dưỡng, rèn luyện và trưởng thành trong môi trường “Quân đội anh hùng của dân tộc anh hùng”. Thực tiễn sinh động đó là minh chứng bác bỏ, phê phán các luận điệu xuyên tạc về thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Trung tá, TS ĐỖ NGỌC HANH, Phó chủ nhiệm Khoa Triết học Mác-Lênin, Trường Sĩ quan Chính trị

Address

Tân An

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Vàm Cỏ Hôm Nay posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share