TUYÊN GIÁO MÃ ĐÀ

TUYÊN GIÁO MÃ ĐÀ Thông tin địa phương, trong nước và quốc tế!

Giữ vững tình anh em Kinh – Thượng trước âm mưu chia rẽ Bài 1: Gắn bó cội nguồn – đoàn kết giữ nướcGiữa đại ngàn Tây Ngu...
08/09/2025

Giữ vững tình anh em Kinh – Thượng trước âm mưu chia rẽ

Bài 1: Gắn bó cội nguồn – đoàn kết giữ nước

Giữa đại ngàn Tây Nguyên, nơi tiếng cồng chiêng ngân vang như linh hồn của đất, có một sợi dây vô hình mà bền chặt – nối liền tình anh em Kinh – Thượng.

Đó là tình cảm đẹp đẽ, tự nhiên như những đóa hoa rừng. Thế nhưng, những điều tưởng như chân lý – như mái nhà Rông sừng sững giữa núi rừng, lại đang bị xói mòn bởi những “làn gió độc”. Có những kẻ, chưa từng đặt chân đến mảnh đất thiêng này, lại cố tình gieo rắc hoài nghi, khơi dậy oán hận. Họ đâu biết rằng, tình cảm ấy không phải điều bày biện, mà là hồn cốt, được vun đắp bằng máu, bằng mồ hôi và niềm tin trao gửi qua bao thế hệ, đã bén rễ sâu trong lòng đất nước.

Tôi có những năm tháng được sống, làm việc tại mảnh đất Tây Nguyên, nơi đất đỏ lấm gót giày, bếp lửa cháy suốt mùa mưa không chỉ để sưởi ấm, mà để giữ gìn một thứ “lửa” khác: Tình người.

Có những đêm được ngồi bên ché rượu cần, nghe già làng kể chuyện xưa, bằng chất giọng trầm đục, những câu chuyện lịch sử được giữ gìn không bằng sách vở, mà bằng ký ức về những năm tháng người Kinh và người Thượng đã kề vai vượt qua đói khát, chiến tranh và mất mát. Trong khoảnh khắc ấy, không còn thấy ranh giới nào giữa “người miền xuôi” và “người miền ngược”.

Tôi bắt đầu tự hỏi: Vì sao người Kinh và người Thượng khác tiếng nói, khác phong tục lại có thể sống đan xen, nương tựa nhau tự nhiên đến vậy? Câu trả lời không nằm ở một sự kiện đơn lẻ, mà là dòng chảy suốt chiều dài lịch sử.

Giữ vững tình anh em Kinh - Thượng trước âm mưu chia rẽ -

Từ thuở nước nhà còn sơ khai, người Kinh và người Thượng là đồng minh tự nhiên nơi biên cương giữ đất. Trải qua các triều đại phong kiến, từ Lý – Trần – Lê đến Nguyễn, bóng dáng người Thượng luôn âm thầm hiện diện nơi tuyến rừng núi biên cương. Thế kỷ XIII, khi quân Nguyên – Mông tràn xuống từ phương Bắc, nhà Trần đã dựa vào thế núi hiểm trở, rừng sâu và sức người bản địa để làm lá chắn tự nhiên. Tây Nguyên khi đó là địa bàn bất khả xâm phạm, nơi các nhóm cư dân Thượng, từ Bahnar đến Mnông trở thành mắt xích bảo vệ biên viễn, giữ cho hậu phương an toàn.

Các ghi chép trong “Đại Việt sử ký toàn thư” cũng cho thấy, trong những thời kỳ loạn lạc, vùng rừng núi là nơi đóng quân, tích trữ lương thực và cất giấu vũ khí, trong đó người dân tộc thiểu số đóng vai trò dẫn đường và che chở quan quân triều đình. Đặc biệt, phong trào Tây Sơn khởi phát ở vùng Tây Sơn, Bình Định, nhưng ngay từ giai đoạn đầu, các thủ lĩnh đã mở rộng lực lượng lên phía Tây Nguyên để xây dựng hậu cứ và liên minh với các tộc người bản địa. Nguyễn Nhạc, thủ lĩnh Tây Sơn đã kết duyên với con gái một tộc trưởng Bahnar, tạo dựng lòng tin và sự ủng hộ từ các buôn làng. Người Bahnar, H’re, Ê Đê không chỉ góp sức vận chuyển lương thực, gùi muối, đạn, mà còn trực tiếp tham gia nghĩa quân. Trong các chiến thắng lớn như Rạch Gầm – Xoài Mút hay Kỷ Dậu 1789, dấu ấn người Thượng vẫn hiện hữu qua những bàn tay thầm lặng trong rừng già, người gùi lương, giữ đường, tiếp ứng.

Từ khi có Đảng, mối quan hệ ấy được nâng lên thành ý thức chính trị, trở thành một bộ phận cốt lõi trong công cuộc giải phóng dân tộc. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Tây Nguyên không chỉ là địa bàn chiến lược, mà còn là không gian của sự gắn kết máu thịt giữa các dân tộc anh em.

Khởi nghĩa Ba Tơ (1945) là minh chứng điển hình cho sức mạnh đoàn kết dân tộc. Từ 28 chiến sĩ người Kinh ban đầu, phong trào nhanh chóng lan rộng nhờ sự hưởng ứng mạnh mẽ của đồng bào H’rê, Cor, Ca Dong… Họ không chỉ tiếp ứng, mà trực tiếp cầm súng chiến đấu, lập chính quyền cách mạng giữa đại ngàn.

Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi ghi lại rõ: Thành công của khởi nghĩa không thể thiếu vai trò quyết định của các dân tộc thiểu số, đặc biệt là các già làng, những người đã vận động thanh niên vào lực lượng cách mạng và trở thành chỗ dựa tinh thần cho toàn phong trào.

Năm 1946, khi kháng chiến chống thực dân Pháp lan rộng, cái tên Anh hùng Núp, người Bahnar trở thành biểu tượng sáng ngời của cách mạng vùng cao. Không chỉ là “người dân tộc thiểu số tham gia kháng chiến”, ông là người đưa ánh sáng của Đảng về buôn làng, biến rừng thành căn cứ, biến làng Stơr thành pháo đài. Tại đó, bộ đội người Kinh và dân quân người Thượng sống chết có nhau, không còn vùng cao hay vùng thấp, chỉ còn “ta” với “giặc” và lá cờ đỏ sao vàng làm điểm tụ.

Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tuyến đường Trường Sơn huyền thoại không thể hình thành nếu không có sự chung vai của hàng vạn dân công hỏa tuyến; trong đó, người Gia Rai, Ê Đê, Xơ Đăng, H’Mông… là lực lượng chủ lực gùi gạo, tải đạn, mở đường. Những bản làng trở thành nơi trú quân, những già làng trở thành “cột mốc sống”, người dân tộc thiểu số trở thành “mắt xích” không thể thiếu trong mạng lưới hậu cần kháng chiến.

Các tư liệu lịch sử về Bộ đội Trường Sơn cho thấy: Gần 60% dân công hỏa tuyến thuộc các dân tộc thiểu số miền Trung và Tây Nguyên, họ đóng vai trò không thể thay thế trong việc dẫn đường, bắc cầu, vận chuyển vũ khí và bảo vệ hành lang chiến lược. Đảng không chỉ kêu gọi sự đoàn kết, mà thực sự đặt niềm tin, giao nhiệm vụ và trao quyền chủ động cho chính đồng bào dân tộc thiểu số. Đó là một bước chuyển lớn về tư duy: Từ cộng cư sang cộng mệnh.

Đặc biệt, trong Chiến dịch Tây Nguyên năm 1975, chiến dịch mở màn cho đại thắng mùa Xuân lịch sử, sự phối hợp giữa bộ đội chủ lực và lực lượng địa phương đã tạo nên một đòn đánh chiến lược mang tính quyết định. Trận then chốt tại Buôn Ma Thuột, cùng các mũi tiến công tại Pleiku, Kon Tum chỉ thành công khi có sự tham gia chủ động của đồng bào các dân tộc Thượng, từ việc dẫn đường, vận chuyển hậu cần, đến việc giữ chốt và bảo vệ hành lang chiến dịch. Chiến thắng Tây Nguyên không chỉ phá vỡ thế phòng ngự chiến lược của địch, mà còn một lần nữa khẳng định sức mạnh dân tộc khi được thống nhất dưới ngọn cờ của Đảng là sức mạnh không gì cản nổi.

Sau năm 1975, khi đất nước liền một dải, người Kinh lên Tây Nguyên dựng trường, mở trạm; người Thượng giữ rẫy, giữ rừng. Có va chạm, có khác biệt, nhưng chưa từng có hằn thù. Những bữa cơm chung có nước mắm và măng rừng. Đứa trẻ nói tiếng Việt chưa sõi, nhưng hát Quốc ca tròn vành, còn bác sĩ miền xuôi cúi đầu chào già làng bằng tiếng bản địa thể hiện lòng tôn kính.

Không cần khẩu hiệu, những hình ảnh ấy chính là biểu tượng lặng thầm cho tình anh em Kinh – Thượng, được gìn giữ bằng đời sống, bằng sự sẻ chia giản dị giữa con người với con người.

NGUYỄN VĂN QUI, Phòng Tuyên huấn Quân khu 5

NIỀM TIN VÀ KHÁT VỌNG CHÁY BỎNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINHTrải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng t...
31/08/2025

NIỀM TIN VÀ KHÁT VỌNG CHÁY BỎNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Sớm nuôi chí cứu dân, cứu nước

Sinh ra ở vùng quê Nghệ An có truyền thống cách mạng sôi sục, 10 năm lớn lên ở kinh đô Huế, tiếp xúc với nền văn hóa mới, với phong trào Duy Tân đã trang bị cho Nguyễn Tất Thành những hiểu biết mới. Năm 1905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được xin cho theo học lớp dự bị Trường Tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố Vinh. Chính tại trường tiểu học này, Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên tiếp xúc với khẩu hiệu Tự do - Bình đẳng - Bác ái của cách mạng Pháp. Điều đó thôi thúc Người sau này tìm đến tận nơi, để tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy.

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là những giá trị Chủ tịch Hồ Chí Minh theo đuổi cho dân tộc và Nhân dân Việt Nam. Tranh cổ động của Nguyễn Thị Lơ
Ngày 5/6/1911, từ bến cảng Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Trải qua những tháng năm lao động kiếm sống, thâm nhập đời sống thực tế của người lao động nhiều nước trên thế giới, Nguyễn Tất Thành thấy rõ cảnh bất công, tàn bạo của xã hội tư bản, xúc động trước đời sống khổ cực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước. Người thấy rõ ở đâu người dân mất nước cũng khổ cực như nhau. Sau này Người đã khái quát thành chân lý: "Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản".

Khoảng đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Khi được hỏi vì sao vào Đảng, Người trả lời: vì đây là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: "Tự do, Bình đẳng, Bác ái".

Ngày 18/6/1919, đại biểu các nước đế quốc tham gia chiến tranh họp Hội nghị ở Versailles (Pháp). Thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp, Nguyễn Tất Thành cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường thảo ra bản Yêu sách của Nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị, dưới bản Yêu sách ký tên Nguyễn Ái Quốc. Đây là lần đầu tiên danh xưng Nguyễn Ái Quốc xuất hiện.

Nguyễn Ái Quốc trực tiếp tới lâu đài Versailles gửi bản Yêu sách cho văn phòng Hội nghị, sau đó gửi đến các đoàn đại biểu các nước Đồng minh dự hội nghị. Nguyễn Ái Quốc còn tự tay viết bản Yêu sách bằng hai thứ tiếng: một bản bằng chữ Quốc ngữ theo thể văn vần, nhan đề Việt Nam yêu cầu ca và một bản chữ Hán nhan đề An Nam nhân dân thỉnh nguyện thư. Người bỏ tiền thuê in 6.000 bản Yêu sách của nhân dân An Nam để phân phát trong các cuộc hội họp, míttinh, phát đi nhiều nơi và bí mật gửi về Việt Nam.

Thực dân Pháp bắt đầu chú ý tới người có tên Nguyễn Ái Quốc. Một tổ mật thám bao gồm cả người Việt lẫn người Pháp được thành lập để chuyên theo dõi Người. Trong một lần đến theo dõi buổi nói chuyện ở Hội trường Hooctiquyntơ tại Paris, viên mật thám Pháp Paul Arnoux chứng kiến Nguyễn Ái Quốc đang phân phát truyền đơn in bản Yêu sách cho những người có mặt, đã phải thốt lên dự cảm: “Con người thanh niên mảnh khảnh và đầy sức sống này có thể là người sẽ đặt chữ thập cáo chung lên nền thống trị của chúng ta ở Đông Dương”.

Quyết tâm hiện thực hóa khát vọng

Bản Yêu sách phản ánh nguyện vọng của nhân dân Việt Nam không được Hội nghị Versailles xem xét, nhưng lại tác động mạnh mẽ đến người Việt Nam trong nước và nước ngoài. Qua việc bản Yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy, như sau này Người đã viết: "Chủ nghĩa Wilson chỉ là một trò bịp bợm lớn" và "muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình".

Trong suốt những năm tháng này, hòa mình vào dòng chảy cách mạng thế giới, tiếp xúc với những luồng tư tưởng tiến bộ, Người đã dần nâng cao nhận thức về chủ nghĩa thực dân, đế quốc, và tích cực hoạt động cho sự phát triển của cách mạng thế giới nói chung và cách mạng Việt Nam nói riêng. Sau khi đọc “Luận cương” của Lênin, Người tán thành Quốc tế III, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản Việt Nam đầu tiên.

Đây là dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Người và cũng từ đây, tư tưởng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản bắt đầu hình thành. Người xác định: muốn có độc lập, tự do thì các dân tộc bị áp bức không thể ngồi yên chờ đợi, càng không thể trông chờ vào sự “ban ơn” của các thế lực đế quốc, thực dân. Muốn có cuộc sống ấm no, hạnh phúc thực sự thì vấn đề quyết định trước hết là phải giành cho được độc lập, tự do. “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.

Người tiến tới thành lập Đảng Cộng sản, lực lượng lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, dần hiện thực hóa khát vọng, mong muốn về một đất nước được giải phóng. Tính từ ngày về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng tháng 2/1941, chỉ trong vòng 5 năm (1941 - 1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân đưa con thuyền cách mạng Việt Nam tới bến bờ với mốc son chói lọi là Cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Cũng trong 5 năm này, Người đã có ba sáng lập vĩ đại đối với lịch sử Việt Nam là Mặt trận Dân tộc thống nhất (1941), Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, 1944) và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945). Đây là cơ sở bước đầu để thực hiện khát vọng về một đất nước độc lập, tự do.

Lịch sử càng lùi xa, càng thấy tầm vóc vĩ đại của quyết tâm cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người dặn dò đồng chí Võ Nguyên Giáp những ngày tháng 8/1945: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.

Khát vọng sống trong đất nước giải phóng, hoàn toàn độc lập, tự do còn được Hồ Chí Minh nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân tộc nhiều lần. Đó là ngày 19/12/1946 với lời thề quyết tử: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!”; khi trả lời các nhà báo, ngày 2 tháng Giêng năm 1947, Hồ Chí Minh tái khẳng định: “Tự do độc lập là quyền trời cho của mỗi dân tộc”; và khi giặc Mỹ đem cả triệu quân vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, đem máy bay ném bom hủy diệt miền Bắc, Hồ Chí Minh vẫn dõng dạc tuyên bố: “… Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".

Kỷ niệm 80 năm ngày Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh 2/9, suy ngẫm về những ước vọng, hoài bão của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cứu nước và giải phóng dân tộc, chúng ta vẫn như thấy Bác đang đồng hành trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển và thịnh vượng, được tiếp nối trên nền tảng kỷ nguyên Độc lập - Tự do mà Người đã lãnh đạo giành lấy, xây dựng và trao truyền lại./.

Báo Đại biểu Nhân dân

"KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP, TỰ DO" - GIÁ TRỊ VĨNH HẰNG CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” - ...
28/08/2025

"KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP, TỰ DO" - GIÁ TRỊ VĨNH HẰNG CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” - câu nói bất hủ ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vang lên trên làn sóng phát thanh từ Thủ đô Hà Nội vào tháng 7/1966, trong thời điểm miền bắc đang gồng mình trước bom đạn chiến tranh, còn miền nam chìm trong máu lửa. Đây không chỉ là khẩu hiệu kháng chiến, mà là tuyên ngôn bất diệt về quyền sống và khát vọng làm người của một dân tộc từng trải qua hàng nghìn năm mất nước, chia cắt và hy sinh.

Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, chân lý ấy vẫn là ánh sáng soi đường, là điểm tựa tinh thần, là ngọn cờ tư tưởng dẫn dắt dân tộc ta vững bước trên hành trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự chủ, hùng cường và hạnh phúc.

Một chân lý từ trái tim và hành trình dân tộc

Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không phải hình thành từ lý thuyết hay sách vở, mà kết tinh từ thực tiễn đau thương và anh dũng của dân tộc Việt Nam, cũng như từ hành trình 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước của người thanh niên mang tên Nguyễn Văn Ba, tiếp đó là Nguyễn Ái Quốc - sau này trở thành Hồ Chí Minh.

Ngay từ năm 1919, trong bản yêu sách gửi Hội nghị Versailles, Nguyễn Ái Quốc đã lên tiếng đòi quyền tự do, bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Sau đó, trong quá trình đi qua nhiều nước thuộc địa và đế quốc, Người nhận thấy: Không có con đường nào khác ngoài con đường giải phóng dân tộc để nhân dân có quyền làm chủ vận mệnh của mình. Hồ Chí Minh từng viết: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đây là tất cả những điều tôi muốn, đây là tất cả những điều tôi hiểu”. Câu nói ấy chính là hạt nhân tư tưởng mà sau này được kết tinh thành chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

Kết tinh giữa chủ nghĩa yêu nước và tinh thần giải phóng dân tộc

Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là sự kết tinh giữa chủ nghĩa yêu nước Việt Nam với tinh thần giải phóng dân tộc, giữa bản lĩnh kiên cường của truyền thống dân tộc với khát vọng làm chủ của con người hiện đại. Hồ Chí Minh không đối lập độc lập dân tộc với tự do cá nhân - ngược lại, Người coi đó là hai mặt không thể tách rời. “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” - một tuyên ngôn vượt thời đại, đặt con người làm trung tâm của mọi giá trị.

Điều đó cho thấy độc lập - tự do không chỉ là lý tưởng quốc gia, mà còn là quyền con người thiêng liêng. Đó là quyền được mưu cầu hạnh phúc, được sống có nhân phẩm, được đóng góp cho xã hội trong điều kiện bình đẳng, không bị áp bức và lệ thuộc. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm “tự do” không mang tính trừu tượng mà rất cụ thể: Là “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Đó là tự do sinh kế, tự do tri thức, tự do phát triển bản thân trong một đất nước độc lập, có pháp luật bảo vệ và có công lý bảo đảm.

Ngọn đuốc soi đường cách mạng Việt Nam

Tư tưởng ấy đã trở thành kim chỉ nam cho toàn thể dân tộc Việt Nam đứng lên giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám, chiến đấu trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Cũng nhờ ngọn đuốc tư tưởng đó, nhân dân ta đã huy động được sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, biến một dân tộc nghèo, bị đô hộ thành một quốc gia đánh thắng hai cường quốc thực dân - đế quốc. Tư tưởng ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho những bà mẹ tiễn con ra trận, cho những người lính cảm tử vì Tổ quốc, cho lớp lớp thanh niên nối nhau lên đường với niềm tin sắt đá rằng độc lập, tự do là lẽ sống tối cao.

Không thể nào quên những trang sử lẫm liệt mà tư tưởng Hồ Chí Minh đã làm bừng sáng. Dưới ngọn cờ độc lập - tự do, chúng ta đã giành được chủ quyền dân tộc, thống nhất non sông và đưa đất nước bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế với thế và lực ngày càng lớn mạnh.

Giá trị thời đại của một tư tưởng vĩnh hằng

Ngày nay, khi đất nước không còn chiến tranh, thì độc lập - tự do không chỉ là chủ quyền lãnh thổ hay thể chế chính trị, mà còn là năng lực làm chủ trong phát triển, là khả năng tự cường về kinh tế, công nghệ, văn hóa và giá trị sống. Đó là quyền của người dân được khởi nghiệp, được cất lên tiếng nói xây dựng chính sách, được tiếp cận thông tin, tri thức và cơ hội vươn lên.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, độc lập - tự do không chỉ là nguyên tắc đối nội mà còn là bản lĩnh đối ngoại. Đó là quyền chọn con đường phát triển phù hợp, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc mà không rơi vào lệ thuộc hay bị áp đặt. Tư tưởng Hồ Chí Minh vì vậy không chỉ thuộc về quá khứ, mà còn là kim chỉ nam cho hôm nay và cả tương lai.

Với thế hệ trẻ, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ là một khẩu hiệu mang tính biểu tượng, mà là lời nhắc nhở về trách nhiệm công dân và khát vọng đóng góp. Đó là động lực để dấn thân, sáng tạo, vươn lên vì một đất nước độc lập, hùng cường và nhân văn. Chúng ta được sống trong hòa bình, được học hành, lập thân, lập nghiệp là nhờ có nền tảng vững chắc của độc lập - tự do mà bao thế hệ cha ông đã đánh đổi bằng máu xương.

Đặc biệt, tư tưởng đó đang được tiếp nối một cách sinh động trong chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm khi nhấn mạnh rằng: “Phải đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình”. Bởi vì thể chế không chỉ là công cụ điều hành quản lý, mà còn là không gian phát huy quyền làm chủ của nhân dân - là hiện thân cụ thể nhất của tự do trong một nhà nước pháp quyền hiện đại. Cũng theo Tổng Bí thư, đổi mới pháp luật không chỉ nhằm hoàn thiện hệ thống quy phạm, mà còn phải “giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực, phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước, tận dụng mọi cơ hội phát triển” - tức là làm cho tinh thần độc lập, tự chủ lan tỏa vào từng lĩnh vực của đời sống quốc gia.

Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” vì vậy không dừng lại ở giá trị truyền thống mà đang được làm mới trong thời đại hội nhập sâu rộng và cạnh tranh toàn cầu. Đó là tự do sáng tạo, là độc lập trong tư duy phát triển, là khát vọng xây dựng một thể chế thật sự của dân, do dân và vì dân.

Sống mãi với thời gian

Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết tinh của lương tri nhân loại, là tuyên ngôn thiêng liêng của một dân tộc từng bị nô lệ, nhưng chưa bao giờ khuất phục. Đó không chỉ là một giá trị lịch sử, mà là ngọn lửa soi đường cho hiện tại và tương lai. Trong hành trình xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, dân chủ, công bằng và văn minh, tư tưởng ấy vẫn là điểm tựa tinh thần bất diệt.

Chúng ta có thể hiện đại hóa đất nước bằng công nghệ và vốn đầu tư, nhưng nếu mất đi tinh thần độc lập, lòng yêu nước và khát vọng tự do, thì chúng ta sẽ đánh mất linh hồn của dân tộc. Ngược lại, nếu biết kế thừa và phát triển tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong bối cảnh mới - như lời Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: Phải biến thể chế thành động lực, pháp luật thành bệ đỡ - thì dân tộc Việt Nam sẽ không chỉ tồn tại, mà còn vươn mình mạnh mẽ trên bản đồ thế giới, đúng như ý chí sắt đá Hồ Chí Minh từng gửi gắm trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”./.

Báo Nhân dân

Tổng Bí thư Tô Lâm trao tặng danh hiệu “Anh hùng Lao động” cho bà Nguyễn Thị BìnhSáng 25/8, tại Hà Nội, Bộ Ngoại giao tổ...
25/08/2025

Tổng Bí thư Tô Lâm trao tặng danh hiệu “Anh hùng Lao động” cho bà Nguyễn Thị Bình

Sáng 25/8, tại Hà Nội, Bộ Ngoại giao tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập ngành Ngoại giao (28/8/1945-28/8/2025) và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất.

Tại Lễ kỷ niệm, thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Tổng Bí thư Tô Lâm đã trao tặng Bộ Ngoại giao danh hiệu Huân chương Lao động hạng Nhất vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc, đột xuất trong công tác tham mưu, triển khai các hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc từ năm 2023 đến năm 2025.

Tổng Bí thư Tô Lâm đã trao tặng danh hiệu “Anh hùng Lao động” cho bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch nước, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do đã có công lao to lớn trong lĩnh vực đối ngoại, đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc./.

Sự nguy hại của lạm dụng công nghệ, coi nhẹ tư duy: Bài 2: Coi trọng sự học, chống trì trệ tư duyLạm dụng công nghệ, coi...
22/08/2025

Sự nguy hại của lạm dụng công nghệ, coi nhẹ tư duy:
Bài 2: Coi trọng sự học, chống trì trệ tư duy

Lạm dụng công nghệ, coi nhẹ tư duy là hai mặt của một vấn đề dẫn đến suy thoái. Khi ai đó lạm dụng công nghệ thái quá, tất sẽ dẫn đến lười học, lười nghiên cứu.

Và khi cái sự lười ấy trở thành căn bệnh, con người lại càng sa vào lệ thuộc công nghệ. Vì vậy, muốn làm chủ công nghệ, trước hết con người phải làm chủ tri thức và tư duy độc lập. Để không rơi vào cái bẫy suy thoái, công nghệ càng hiện đại, sự học của mỗi người càng phải được coi trọng, tư duy càng phải được đề cao...

Coi trọng tư duy độc lập

Một trong những nguy hại của việc lạm dụng công nghệ, coi nhẹ tư duy là cán bộ dần xa rời thực tiễn. Những bài viết, bài phát biểu, tài liệu học tập... được tạo ra từ trí tuệ nhân tạo (AI) không thể chứa đựng hơi thở của cuộc sống, sự trăn trở của nhân dân. Bản lĩnh chính trị không thể được hun đúc từ những con chữ vô hồn, mà phải gắn liền với thực tiễn. Việc học tập phải gắn với thực hành, với việc dấn thân vào những vấn đề thực tế của đời sống đang đặt ra. Cán bộ cần gắn chặt với cơ sở, lắng nghe ý kiến của nhân dân, thấu hiểu những khó khăn, trăn trở của dân. Chỉ có như vậy, khi ban hành những quyết sách, những phát biểu chỉ đạo... mới thực sự có giá trị, mang tính thuyết phục.

Muốn làm chủ tri thức, thích ứng với những đổi thay, phát triển của công nghệ, một trong những giải pháp quan trọng của cán bộ, đảng viên là chống trì trệ tư duy, chống xa rời thực tiễn. Khai thác, tận dụng AI đúng cách sẽ giúp chúng ta sáng tạo ra những ý tưởng và giải pháp đột phá. Mỗi cán bộ cần coi trọng việc học tập, nghiên cứu, tự rèn luyện trí tuệ, năng lực tư duy độc lập. Công nghệ cần được sử dụng như công cụ hỗ trợ, chứ không phải “đũa thần” để dựa dẫm. Nếu không thay đổi và thích ứng, hệ quả nhãn tiền là tư duy bị “đóng băng”, sáng tạo bị triệt tiêu, niềm tin của nhân dân bị suy giảm. Ngược lại, nếu biết kết hợp công nghệ với trí tuệ, bản lĩnh và phẩm chất của con người, chúng ta sẽ biến AI thành công cụ đắc lực để xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có trí tuệ, năng động, sáng tạo, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong quá trình sắp xếp, tinh gọn bộ máy; góp phần bảo vệ và củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về “Học tập suốt đời”, cụ thể hóa vào xu thế phát triển của đất nước và yêu cầu của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn mới, Tổng Bí thư Tô Lâm trong bài viết “Học tập suốt đời” đã nhấn mạnh: Học tập suốt đời để dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám hy sinh vì lợi ích chung, để trở thành những người hữu dụng đang là đòi hỏi cấp thiết đối với từng cá nhân... Như vậy, khi công nghệ càng phát triển, việc ứng dụng AI vào đời sống xã hội càng sâu rộng và toàn diện thì phải đặc biệt coi trọng sự học, nhất là trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Mục đích của Phong trào “Bình dân học vụ số” là cập nhật kiến thức, trang bị kỹ năng ứng dụng công nghệ số vào thực tiễn công tác của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động trong hệ thống chính trị các cấp. AI được sử dụng như một loại công cụ thông minh, cao hơn nữa, nó được coi như một “trợ lý ảo”, giúp việc cho con người. Tuy nhiên, sản phẩm làm ra, chất lượng công việc đến đâu, hoàn toàn phụ thuộc vào ý định, mục đích, trình độ, kỹ năng của người dùng.

Trong bối cảnh hiện nay, khi thông tin và ứng dụng công nghệ đòi hỏi phải cập nhật liên tục, nội dung hôm nay có thể trở nên lỗi thời chỉ sau một thời gian ngắn, thì yêu cầu về học tập trở thành quy luật sinh tồn của mỗi cán bộ, đảng viên. Nếu không học, không cập nhật, không chịu tư duy, nghiên cứu, chúng ta sẽ lạc hậu, tụt hậu, mất năng lực thích ứng, thậm chí bị đào thải khỏi guồng quay phát triển.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, mọi thành công đều bắt nguồn từ tinh thần học tập và sáng tạo không ngừng. Từ Phong trào “Bình dân học vụ” sau Cách mạng Tháng Tám, đến công cuộc đổi mới từ năm 1986, rồi bước vào kỷ nguyên hội nhập quốc tế sâu rộng... tất cả đều đòi hỏi sự nỗ lực học tập của toàn dân tộc, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Không phải ngẫu nhiên mà trong nhiều nghị quyết của Đảng, nội dung “học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ” cán bộ luôn được đặt ở vị trí then chốt. Học tập không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ, trách nhiệm chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên đối với sự phát triển của đất nước.

Trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, việc học tập, nghiên cứu, trui rèn bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng đòi hỏi phải tiến hành thường xuyên, liên tục như “rửa mặt hằng ngày”. Việc ứng dụng AI vào các công việc của Đảng là một đòi hỏi tất yếu. Nhưng, chất lượng của văn bản, văn kiện và các sản phẩm dùng để học tập, quán triệt ở mỗi tổ chức đảng như thế nào, hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ đạo, ý định, yêu cầu đặt ra của cán bộ, nhất là người đứng đầu cấp ủy các cấp. Cần tránh kiểu cán bộ khoán trắng cho trợ lý, trợ lý lại phó mặc cho AI, dẫn đến sai theo dây chuyền, yếu cả hệ thống...

Tự học đồng hành với công nghệ

Nhìn thẳng vào thực tế, vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên coi học tập là thủ tục, hình thức, học để “đủ điều kiện” chứ không học để đổi mới tư duy. Vẫn còn tình trạng học theo phong trào, sính bằng cấp mà chưa thực sự căn cứ vào đòi hỏi thực tiễn, ngại khó, ngại khổ, không đào sâu suy nghĩ để vươn lên. Thực trạng này dẫn đến hệ lụy, không ít cán bộ chỉ tích lũy kiến thức trong trường lớp, rồi thỏa mãn, dừng lại. Bằng cấp được coi như “tấm vé thăng tiến”, thay vì là kết quả của quá trình rèn luyện tri thức. Thiếu tư duy phản biện, sáng tạo, khiến năng lực lãnh đạo, quản lý bị bó hẹp, trì trệ.

Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) đã nhận định, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn diễn biến phức tạp. Vì vậy, phải đặc biệt coi trọng, đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới, gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Soi chiếu trong môi trường thúc đẩy chuyển đổi số hiện nay, chúng ta thấy rõ, nếu ở đâu cán bộ, đảng viên coi nhẹ việc học, coi nhẹ tư duy nghiên cứu, ỷ lại vào AI thì những nguy cơ đã được Đảng ta cảnh báo sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp và gay gắt hơn.

Trong đời sống xã hội, để thúc đẩy nhanh chuyển đổi số, nhiều tổ chức, cá nhân kêu gọi “chuyển đổi số hay là chết?”. Nhưng, trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thẩm thấu sâu sắc những nguy cơ, cảnh báo mà Đảng ta đã chỉ ra, chúng ta cần thấy rõ, nếu chuyển đổi số không đúng cách và có biểu hiện "mê sảng" vì nó thì hệ lụy khôn lường. Ở đây, bệnh lười học, ỷ lại vào AI không chỉ là khuyết điểm cá nhân mà còn là nguy cơ chính trị, đe dọa trực tiếp đến đạo đức và sức chiến đấu của Đảng. Để khắc phục những bất cập, khơi thông những điểm nghẽn trong tư duy, cần một cuộc “cách mạng" trong tư duy ở đội ngũ cán bộ, đảng viên, với tinh thần đề cao tự học, tự nghiên cứu, biến học tập thành nhu cầu tự thân. Chúng ta cần gắn học với hành, học lý luận để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra; đa dạng hóa hình thức học, từ đào tạo chính quy, bồi dưỡng tại chỗ, đến học lẫn nhau, học ở nhân dân, trao đổi trực tiếp từ cơ sở. Đặc biệt, cần phát huy vai trò nêu gương của người đứng đầu. Lãnh đạo phải là người tiên phong học tập, nghiên cứu để truyền cảm hứng cho cấp dưới. Sự học không đơn thuần là để có thêm kiến thức, mà còn để rèn luyện bản lĩnh, bồi đắp tư duy phản biện, đấu tranh, xây dựng. Cán bộ không chỉ học để biết sử dụng công nghệ mà còn phải học để hiểu rõ bản chất của công nghệ, để làm chủ công nghệ và biến nó thành công cụ phục vụ công việc của mình, phục vụ công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thái độ ỷ lại vào công nghệ, “nhai lại” những gì AI đưa ra ở một số người cho thấy sự thiếu hụt nghiêm trọng về tư duy phản biện, về khả năng phân tích và tổng hợp thông tin. Nuôi dưỡng tinh thần học tập suốt đời sẽ giúp cán bộ, đảng viên có nền tảng vững chắc để thẩm định thông tin, không bị động, dao động trước những thông tin sai lệch hay những sản phẩm máy móc, rập khuôn. Thế giới đang chuyển động với tốc độ chưa từng có. Theo các chuyên gia, khoảng 60% công việc hiện nay sẽ biến mất hoặc thay đổi căn bản trong 10-15 năm tới do tác động của công nghệ. Trong bối cảnh ấy, tinh thần học tập, nghiên cứu là cách tốt nhất để không tụt hậu. Với cán bộ, đảng viên, đó còn là yêu cầu chính trị.

Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: Chỉ khi đẩy mạnh thực chất học tập suốt đời, chúng ta mới giàu có những ý tưởng, giải pháp, sáng kiến để giải quyết những vấn đề mới, chưa có tiền lệ. Sự kết hợp giữa trí tuệ khoa học và bản lĩnh chính trị chính là động lực giúp chúng ta vượt qua những thách thức trong kỷ nguyên số. AI có thể cung cấp dữ liệu, nhưng chỉ con người mới có thể đưa ra quyết định dựa trên sự thấu cảm, sự hiểu biết sâu sắc về yêu cầu nhiệm vụ và đòi hỏi từ thực tiễn...

(còn nữa)

LỮ NGÀN

Address

ấp 1, Xã Mã Đà, Huyện Vĩnh Cửu
Tỉnh Đồng Nai

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when TUYÊN GIÁO MÃ ĐÀ posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share