Công an xã Mường Khương, tỉnh Lào Cai

Công an xã Mường Khương, tỉnh Lào Cai Contact information, map and directions, contact form, opening hours, services, ratings, photos, videos and announcements from Công an xã Mường Khương, tỉnh Lào Cai, News & Media Website, Số 292, xã Mường Khương, tỉnh lào cai.

Thông tin, cập nhật đầy đủ, chính xác về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và quy định của địa phương theo phương châm Công an nhân dân vì Nước quên thân, vì Nhân dân phục vụ❤️

15/10/2025
15/10/2025

Dự thảo Báo cáo tổng kết 15 năm thi hành Điều lệ Đảng (2011 - 2025) và đề xuất, định hướng bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng
I. KẾT QUẢ THI HÀNH ĐIỀU LỆ ĐẢNG
1. Công tác quán triệt, cụ thể hóa Điều lệ Đảng, quy định, hướng dẫn của TW về thi hành Điều lệ Đảng
1.1. Công tác quán triệt
Đại hội XI của Đảng (tháng 01/2011) thông qua các văn kiện, trong đó có Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi); Đại hội XII, XIII của Đảng[1] (các năm 2016, 2021) đồng ý giữ nguyên Điều lệ Đảng hiện hành. Ngay sau Đại hội XI, BBT đã tổ chức hội nghị toàn quốc quán triệt các văn kiện được Đại hội thông qua. Các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng ở TW đã chủ động hướng dẫn công tác tổ chức học tập, quán triệt các văn kiện trong toàn Đảng; biên soạn và cung cấp tài liệu, đề cương, cử cán bộ có kinh nghiệm về công tác xây dựng Đảng giúp các cấp uỷ tổ chức học tập, quán triệt tại các hội nghị cán bộ chủ chốt. Cấp uỷ các cấp đã xây dựng kế hoạch, tổ chức hội nghị học tập, quán triệt Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của TW về thi hành Điều lệ Đảng. Công tác phổ biến, quán triệt Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của TW được thực hiện với nhiều hình thức phong phú, đa dạng[2], tập trung làm rõ những điểm mới trong Điều lệ Đảng. Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, XIII, TW đã tổ chức hội nghị kết hợp trực tiếp và trực tuyến từ TW đến địa phương để quán triệt và chỉ đạo các cấp uỷ, tổ chức đảng triển khai học tập các quy định, hướng dẫn thi hành Điều lệ Đảng của TW đến cán bộ, đảng viên. Việc học tập, quán triệt Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của TW được tổ chức theo đúng kế hoạch đề ra; qua đó, đã nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong thi hành Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của TW.
Tuy nhiên, việc tổ chức học tập, quán triệt Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của TW ở một số nơi chưa kịp thời, có nơi còn hình thức; nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên về Điều lệ Đảng chưa thực sự sâu sắc, một số cán bộ, đảng viên chưa nắm vững Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn của TW.
1.2. Về cụ thể hóa
Đại hội XI của Đảng đã thông qua Điều lệ Đảng với một số nội dung bổ sung, sửa đổi để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong thời kỳ mới và phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011). Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng giao BCHTW, BCT, BBT (BCHTW,BCT,BBT) chỉ đạo nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến của Đại hội để điều chỉnh những vướng mắc, bất cập thông qua các quy định, hướng dẫn của TW về thi hành Điều lệ Đảng.
Tại hội nghị TW lần thứ 3 của các khoá XI, XII, BCHTW đã ban hành các quy định về thi hành Điều lệ Đảng, riêng nhiệm kỳ Đại hội XIII, để tạo cơ sở chính trị, pháp lý thực hiện cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy và bổ sung, sửa đổi một số nội dung cho phù hợp thực tiễn công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới, BCHTW đã 03 lần ban hành quy định thi hành Điều lệ Đảng; 03 lần ban hành quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; BCHTW đã quyết định chỉ đạo thí điểm một số chủ trương mới[3]; BBT 02 lần ban hành hướng dẫn về một số vấn đề cụ thể thi hành Điều lệ Đảng. Căn cứ tình hình thực tiễn của công tác xây dựng Đảng, TW đã tiến hành rà soát, ban hành, bổ sung, sửa đổi nhiều quy định, hướng dẫn để cụ thể hoá Điều lệ Đảng, đáp ứng yêu cầu của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội, tập trung vào các lĩnh vực như: đảng viên và công tác đảng viên; nguyên tắc tập trung dân chủ; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, mối quan hệ công tác và quy chế làm việc mẫu của các tổ chức; về bầu cử trong Đảng; nhiệm kỳ, đại biểu, đoàn chủ tịch đại hội; cấp uỷ và cấp uỷ viên khoá mới; nhiệm vụ của đại hội, đại biểu dự đại hội đảng bộ; số lượng cấp uỷ viên, uỷ viên ban thường vụ, uỷ viên UBKT cấp uỷ; tổ chức cơ sở đảng, chi bộ; tổ chức đảng trong Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), Công an Nhân dân Việt Nam (CANDVN); công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và UBKT các cấp; khen thưởng tổ chức đảng và đảng viên; về công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; Đoàn Thanh niên; tài chính Đảng; về ứng dụng khoa học kỹ thuật, chuyển đổi số, cải cách hành chính trong Đảng... Các quy định, hướng dẫn của TW đã kịp thời bổ sung, sửa đổi, đồng bộ với các văn bản của Đảng mới ban hành, giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn và những vướng mắc, bất cập trong thi hành Điều lệ Đảng, nhất là các vấn đề về tổ chức, cán bộ, đảng viên, kiểm tra, giám sát, khen thưởng, kỷ luật đảng.
Các cơ quan tham mưu, giúp việc ở TW đã chủ động, tích cực nghiên cứu, phối hợp với các cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan liên quan sơ kết, tổng kết thực tiễn, kịp thời hướng dẫn các cấp uỷ, tổ chức đảng về nghiệp vụ trong quá trình thi hành Điều lệ Đảng, như về đảng viên và công tác đảng viên, chuyển sinh hoạt đảng, chuyển giao tổ chức đảng, đánh giá, xếp loại tổ chức đảng, đảng viên, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; tham mưu giúp cấp uỷ tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát công tác xây dựng Đảng và công tác quần chúng trong QĐNDVN và CANDVN.
Các cấp uỷ, tổ chức đảng đã tích cực, chủ động cụ thể hoá[4] một số nội dung của Điều lệ Đảng, quy định, hướng dẫn của TW, nhất là những nội dung quy định khung, nguyên tắc phù hợp với đặc điểm, tình hình, điều kiện của địa phương, đơn vị. Đồng thời, chủ động ban hành các văn bản để giải quyết khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn, mạnh dạn đổi mới, thực hiện thí điểm các mô hình hay, cách làm sáng tạo trong thi hành Điều lệ Đảng.
Nhìn chung, các chủ trương, nghị quyết, quy định, hướng dẫn của BCHTW,BCT,BBT, các cơ quan tham mưu, giúp việc của TW, các cấp uỷ, tổ chức đảng ban hành cụ thể hoá Điều lệ Đảng cơ bản phù hợp tình hình thực tiễn, bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất, khả thi, nội dung ngày càng rõ hơn, thuận lợi cho các cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên thi hành.
Tuy nhiên, một số nội dung trong các quy định, hướng dẫn của TW còn mang tính khái quát cao, chưa bao quát hết các đối tượng, khó khăn khi thực hiện[5], việc cụ thể hoá một số quy định còn chưa kịp thời.
1.3. Về kiểm tra, giám sát
Công tác kiểm tra, giám sát việc quán triệt và thi hành Điều lệ Đảng, quy định, hướng dẫn của TW được các cấp uỷ, cơ quan tham mưu, giúp việc, UBKT cấp uỷ quan tâm thực hiện[6]; cuối nhiệm kỳ TW, các cấp uỷ đã tiến hành công tác kiểm tra gắn với việc tổng kết thi hành Điều lệ Đảng[7], bảo đảm Điều lệ Đảng được phổ biến, quán triệt sâu rộng, thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất trong toàn Đảng.
Hạn chế: Công tác kiểm tra, giám sát việc tổ chức quán triệt, thi hành Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của TW ở một số cấp uỷ, tổ chức đảng, các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc của cấp uỷ chưa được thực hiện kịp thời, thường xuyên.
2. Kết quả triển khai thi hành Điều lệ Đảng
2.1. Phần mở đầu (Đảng và những vấn đề cơ bản về xây dựng Ðảng)
Thực hiện tôn chỉ, mục đích, lý tưởng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng và những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng, tuyệt đại đa số cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên giữ vững lập trường tư tưởng chính trị; kiên định Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đường lối đổi mới của Đảng; chấp hành nghiêm túc các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đề ra các chủ trương, đường lối, chính sách phù hợp quy luật khách quan, xu thế thời đại, thực tiễn của đất nước và nguyện vọng của Nhân dân; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, thường xuyên tự phê bình và phê bình, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, gắn bó mật thiết với Nhân dân; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị; chú trọng thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, phát huy nội lực, khai thác tốt tiềm năng, lợi thế của đất nước và từng địa phương, chủ động khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và đại hội đảng bộ các cấp đã đề ra.
Tuy nhiên, một số nội dung mới của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp nước CNXHCN Việt Nam và các văn kiện ban hành trong các nhiệm kỳ Đại hội XI, XII, XIII của Đảng về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị chưa được cập nhật, bổ sung trong Điều lệ Đảng[8].
2.2. Về đảng viên (Chương I)
Nhiệm vụ của đảng viên quy định trong Điều lệ Đảng được hầu hết các cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên chấp hành nghiêm túc. Các cấp uỷ, tổ chức đảng đã thực hiện nền nếp việc phân công cấp uỷ viên theo dõi, phụ trách các tổ chức đảng cấp dưới, trực tiếp dự sinh hoạt chi bộ; phân công nhiệm vụ phù hợp với năng lực của đảng viên và điều kiện cụ thể của từng chi bộ; nhiều chi bộ khu dân cư đã phân công đảng viên theo dõi, phụ trách hộ gia đình, nâng cao ý thức trách nhiệm, vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ, tăng cường quản lý và đánh giá đảng viên chặt chẽ, chính xác hơn.
Quyền của đảng viên được hầu hết các cấp uỷ, tổ chức đảng quan tâm, thực hiện bảo đảm đúng quy định của Điều lệ Đảng và các quy định, quy chế của TW, của cấp uỷ các cấp. Đảng viên được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương của Đảng; thảo luận, tham gia ý kiến trước khi biểu quyết ban hành các nghị quyết của tổ chức đảng và các công việc của Đảng, kể cả nhân sự cấp uỷ, UBKT, góp phần bảo đảm chế độ sinh hoạt của Đảng ngày càng dân chủ và thực chất hơn; đồng thời, giúp đảng viên kịp thời nắm bắt tốt hơn đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị; được ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng; phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời; trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình; khiếu nại về quyết định kỷ luật đối với mình.
Trong các nhiệm kỳ Đại hội XI, XII, XIII, công tác phát triển đảng viên tiếp tục được cấp uỷ các cấp quan tâm lãnh đạo thực hiện đạt kết quả tích cực. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XI đến tháng 5/2025, toàn Đảng đã kết nạp 2.623.209 đảng viên. Nhiều tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc TW có tỉ lệ kết nạp đảng viên tăng cao[9]. Tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, thủ tục kết nạp đảng viên cơ bản được tuân thủ nghiêm túc; việc kết nạp lại người vào Đảng, kết nạp đảng viên trong một số trường hợp đặc biệt được các cấp uỷ xem xét thận trọng, khách quan[10]. Hầu hết đảng viên mới kết nạp đều có ý chí rèn luyện tốt, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống, có ý thức phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phát huy tốt vai trò tiên phong, gương mẫu, đi đầu trong các hoạt động ở cơ sở và được xét, công nhận đảng viên chính thức đúng thủ tục, quy trình, thời gian quy định. Việc xoá tên đảng viên, cho đảng viên ra khỏi Đảng được nghiêm túc thực hiện, bảo đảm giữ vững kỷ cương của Đảng[11].
Tính đến ngày 31/5/2025, toàn Đảng có 5.558.731 đảng viên; cơ cấu đảng viên chuyển biến theo hướng tích cực, tỉ lệ đảng viên trẻ, nữ, người dân tộc thiểu số, người theo tôn giáo ngày càng tăng[12]. Cùng với việc quan tâm phát triển đảng viên, các cấp uỷ, tổ chức đảng chú trọng nghiên cứu và có nhiều giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ của đảng viên, nhất là của số đảng viên kết nạp trong nhiệm kỳ này được nâng lên[13]. Số đảng viên được xếp loại hoàn thành nhiệm vụ trở lên theo đánh giá hằng năm chiếm tỉ lệ cao.
Thẩm quyền và việc giải quyết vấn đề đảng tịch của đảng viên[14]; phát, quản lý thẻ đảng viên, quản lý hồ sơ đảng viên và chuyển sinh hoạt cho tổ chức đảng, đảng viên được các cấp uỷ, tổ chức đảng, ban tổ chức cấp uỷ thực hiện đúng quy định, hướng dẫn của TW. Thực hiện nền nếp đảng viên đang công tác giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và Nhân dân nơi cư trú, góp phần tăng cường tinh thần trách nhiệm của đảng viên đang công tác và trách nhiệm quản lý đảng viên của tổ chức đảng nơi cư trú.
Nhìn chung, các quy định về đảng viên, công tác đảng viên, như: Tiêu chuẩn đảng viên, điều kiện xét kết nạp vào Đảng; nhiệm vụ, quyền của đảng viên; phát triển đảng viên; thời kỳ dự bị, mốc tính tuổi đảng; thủ tục, thẩm quyền, quy trình xét, công nhận đảng viên chính thức; quản lý đảng viên đi làm ăn xa, ra ngoài nước; việc xoá tên đảng viên; cho đảng viên ra khỏi Đảng; đảng tịch của đảng viên; phát, quản lý thẻ đảng viên, quản lý hồ sơ đảng viên; việc chuyển sinh hoạt đảng; đảng viên sinh hoạt hai chiều; đảng viên tuổi cao, sức yếu, tự nguyện xin giảm, miễn công tác và sinh hoạt đảng được quy định trong Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của TW khá cụ thể, cơ bản phù hợp và đáp ứng tình hình thực tế, được các cấp uỷ, tổ chức đảng triển khai thực hiện nghiêm túc, bảo đảm đúng nguyên tắc và tạo thuận lợi cho đảng viên.
Hạn chế, vướng mắc, bất cập: Một số cấp uỷ cơ sở, chi bộ còn lúng túng, có sai sót trong thực hiện quy trình, thủ tục, thẩm quyền kết nạp đảng viên, xét công nhận đảng viên chính thức[15], xoá tên đảng viên và trong thực hiện chất vấn, trả lời chất vấn của đảng viên. Việc quản lý thẻ đảng viên còn một số hạn chế, cơ bản không thu hồi được thẻ đảng theo quy định đối với đảng viên bị khai trừ, nhiều đảng viên làm mất thẻ đảng; một số cấp uỷ quản lý hồ sơ đảng viên chưa chặt chẽ, tài liệu trong hồ sơ chưa đầy đủ theo quy định. Một số chi bộ cho giảm, miễn công tác, sinh hoạt đảng theo diện tuổi cao, sức yếu chưa đúng thực chất, điều kiện. Một số đảng viên chưa thực hiện tốt nhiệm vụ đảng viên; tự ý không nộp hồ sơ đảng viên đến nơi sinh hoạt mới; khi ra nước ngoài lao động chậm hoặc không chuyển sinh hoạt đảng theo quy định.
Hướng dẫn về độ tuổi được kết nạp đảng viên còn có cách hiểu khác nhau, lúng túng trong thực hiện[16]. Một số nội dung về giới thiệu sinh hoạt đảng và sinh hoạt đảng tạm thời chưa sát với tình hình thực tiễn, nhất là đối với đảng viên thường xuyên đi làm xa nơi sinh hoạt đảng chính thức, sinh viên sau khi tốt nghiệp chưa có việc làm, nơi ở ổn định.
2.3. Về nguyên tắc tổ chức và cơ cấu tổ chức của Đảng (Chương II)
Quy định về ĐCSVN tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hiện nghiêm. Các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng được tổ chức và hoạt động theo Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn của TW, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; định kỳ các cấp uỷ báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới, thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc; thực hiện tự phê bình và phê bình gắn với việc đánh giá, xếp loại chất lượng tập thể và cá nhân; dân chủ thảo luận và thông qua nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định trong phạm vi quyền hạn khi có hơn một nửa số thành viên tán thành, nội dung không trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên; hầu hết các tổ chức đảng, đảng viên nghiêm chỉnh chấp hành nghị quyết của Đảng, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và BCHTW, qua đó góp phần xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh, củng cố, tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội và từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Quy định đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, quyết định, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết, quyết định của Đảng, cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó, không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được nghiêm túc thực hiện.
Trên cơ sở Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của TW, quy chế làm việc mẫu, các tổ chức trong toàn Đảng đã tập trung xây dựng, thường xuyên rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc, xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác, trách nhiệm của tập thể, cá nhân và người đứng đầu, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ; cơ bản các tổ chức thực hiện nghiêm quy chế làm việc, góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo, giải quyết tốt mối quan hệ giữa cấp uỷ với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Quy định về hệ thống tổ chức của Đảng được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước cơ bản được thực hiện nghiêm, thống nhất trong cả nước; thực hiện đồng bộ việc sắp xếp tổ chức đảng với sắp xếp các đơn vị hành chính 02 cấp và thôn, tổ dân phố, bảo đảm sự lãnh đạo liên tục, toàn diện của cấp uỷ đối với hoạt động của các địa phương, cơ quan, đơn vị trước, trong và sau khi sắp xếp. Từ 01/7/2025, toàn Đảng có 34 đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc TW; 3.321 đảng bộ xã, phường, đặc khu.
Hầu hết tổ chức cơ sở đảng tại đơn vị cơ sở hành chính, sự nghiệp, kinh tế hoặc đơn vị công tác đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ xã, phường, đặc khu trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc TW; một số tổ chức cơ sở đảng tại các cơ quan, đơn vị được tổ chức theo khu vực đặt dưới sự lãnh đạo của tổ chức đảng ngành dọc tại địa phương[17], bảo đảm vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, tổ chức đảng đối với cơ quan, đơn vị.
Việc lập, kết thúc hoạt động của các đảng bộ khối, đảng bộ ở những nơi có đặc điểm riêng trực thuộc TW, trực thuộc cấp uỷ cấp tỉnh và các đảng bộ, chi bộ trực thuộc được thực hiện thống nhất theo quy định của TW; đến nay, TW đã quyết định kết thúc hoạt động 02 đảng bộ khối ở TW và cơ bản kết thúc hoạt động các đảng bộ khối cấp tỉnh, thành lập 04 đảng bộ trực thuộc TW[18], 02 đảng bộ trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ[19], 02 đảng bộ trực thuộc đảng uỷ xã, phường, đặc khu[20]. Việc giao quyền cấp trên cơ sở và thí điểm giao quyền cấp trên cơ sở cho đảng ủy cơ sở mà cấp trên trực tiếp không phải là tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc TW, ủy quyền kết nạp, khai trừ đảng viên cho đảng uỷ cơ sở góp phần tăng cường phân cấp, cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, khắc phục một số vướng mắc, bất cập trong hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng có vị trí quan trọng, hoạt động trên phạm vi rộng, số lượng đảng viên lớn. Hệ thống tổ chức đảng ở ngoài nước và tổ chức đảng trong doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước được quan tâm củng cố và có nhiều đổi mới; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của đảng uỷ cấp trên cơ sở trong doanh nghiệp nhà nước được quy định rõ, khẳng định vai trò lãnh đạo toàn diện của cấp ủy trong doanh nghiệp.
Quy chế bầu cử trong Đảng và các hướng dẫn của BBT đã được các cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả. Nguyên tắc, hình thức bầu cử; quyền hạn, trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức liên quan đến bầu cử; việc ứng cử, đề cử, quy định về số dư, trình tự, thủ tục bầu cử phù hợp với tình hình thực tế. Các chỉ thị của BCT về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, các quy định của BCT về tiêu chuẩn cán bộ, đảng viên được quy định rõ ràng đã góp phần thực hiện tốt việc kiện toàn các cơ quan lãnh đạo và xây dựng đội ngũ cấp uỷ viên các cấp bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu, chất lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Hệ thống các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc, đơn vị sự nghiệp của TW, của cấp uỷ tiếp tục được sắp xếp, kiện toàn, đổi mới theo hướng nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, tinh giản biên chế, tinh gọn đầu mối bên trong, giảm số lượng lãnh đạo quản lý; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác được rà soát, bổ sung, sửa đổi, quy định rõ hơn.
Để tham mưu, giúp cấp uỷ triển khai, thực hiện một số nhiệm vụ trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, các cấp uỷ đã lập các tiểu ban[21], hội đồng[22], tổ công tác, ban chỉ đạo[23] và giải thể khi hoàn thành nhiệm vụ.
Nhìn chung, các quy định về nguyên tắc tổ chức và cơ cấu tổ chức của Đảng trong Điều lệ Đảng là phù hợp, quá trình thực hiện thuận lợi, nguyên tắc tập trung dân chủ, quy định về nhiệm kỳ, về đại biểu, đoàn chủ tịch đại hội, về cấp uỷ và cấp uỷ viên khoá mới cơ bản được thực hiện nghiêm; các loại hình tổ chức đảng đã phát huy hiệu quả tích cực trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định, cơ bản lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao; tổ chức bộ máy của Đảng ở các cấp được sắp xếp, đổi mới, hoàn thiện theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn.
Hạn chế, vướng mắc, bất cập: Việc cụ thể hoá nguyên tắc tập trung dân chủ còn rải rác ở nhiều văn bản, chưa hệ thống, do đó, nhận thức về nguyên tắc tập trung dân chủ chưa thống nhất, chưa đầy đủ. Một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, hạn chế tranh luận, thảo luận trong sinh hoạt đảng, thậm chí có nơi còn vi phạm nghiêm trọng. Trong sinh hoạt cấp uỷ, chi bộ việc tự phê bình và phê bình có lúc, có nơi chưa thực chất, chưa thường xuyên, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi. Một số cấp uỷ viên, đảng viên chưa nắm vững và chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng, quy định, hướng dẫn của TW, vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng; thực hiện chưa đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của cấp uỷ viên và đảng viên[24]. Việc xây dựng quy chế làm việc ở một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa chú trọng nội dung, nguyên tắc, chưa cụ thể hoá nhiệm vụ, thẩm quyền sát với địa phương, cơ quan, đơn vị; có nơi chậm ban hành, chất lượng quy chế không bảo đảm; có nơi thực hiện quy chế làm việc chưa nghiêm túc. Một số mô hình tổ chức đảng do địa phương, đơn vị thí điểm[25] thực hiện thiếu đồng bộ, thống nhất, không hiệu quả, chưa phù hợp quy định thi hành Điều lệ Đảng phải kết thúc hoạt động. Mô hình đảng uỷ khối trực thuộc TW, trực thuộc cấp uỷ cấp tỉnh còn nhiều hạn chế, bất cập (đã kết thúc hoạt động từ ngày 24/01/2025).
2.4. Cơ quan lãnh đạo của Đảng ở cấp TW (Chương III)
Trong mỗi nhiệm kỳ, BCHTW đã xây dựng Chương trình công tác toàn khoá[26], đề ra các nhiệm vụ lớn, quan trọng để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, đồng bộ các mặt công tác; BCHTW cơ bản thực hiện đúng chương trình đề ra và có sự điều chỉnh kịp thời để đáp ứng yêu cầu công tác lãnh đạo, chỉ đạo, phù hợp tình hình đất nước. Quy chế làm việc của BCHTW,BCT,BBT các khoá[27] đã kế thừa những nội dung phù hợp của khoá trước, bổ sung một số nội dung mới đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phân định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng và được tổ chức thực hiện nghiêm. BCHTW,BCT,BBT giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động, luôn đoàn kết, thống nhất cao trong các quyết định của mình, nhất là những vấn đề mới, khó, nhạy cảm, phức tạp, góp phần quyết định và bảo đảm giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
BCHTW,BCT,BBT đã thực sự đề cao trách nhiệm, phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể trong việc cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội XI, XII, XIII thành các nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định, quy chế[28] và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả trong toàn Đảng.
Các đồng chí Uỷ viên BCT, Uỷ viên BBT, Uỷ viên BCHTW và nhất là Đồng chí Tổng Bí thư đã dành thời gian làm việc trực tiếp với các cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc, kiểm tra và tìm hiểu, nắm tình hình thực tế ở cơ sở. Thường trực BBT, các cơ quan tham mưu của Đảng ở TW đã tăng cường giao ban định kỳ với các cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị của Đảng ở TW và địa phương để nắm tình hình và chỉ đạo phối hợp xử lý các vấn đề mới nảy sinh.
Nhìn chung, các quy định về Đại hội đại biểu toàn quốc, về BCHTW,BCT,BBT và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan lãnh đạo của Đảng ở cấp TW là phù hợp, phát huy hiệu quả trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đại hội; những chủ trương, chính sách về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, công tác xây dựng Đảng và thí điểm một số chủ trương mới, về phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị.
2.5. Cơ quan lãnh đạo của Đảng ở các cấp địa phương (Chương IV)
Các cấp uỷ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện đúng Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của TW về nội dung, nhiệm vụ của đại hội, đại biểu dự đại hội đảng bộ; về số lượng cấp uỷ viên, uỷ viên ban thường vụ, uỷ viên UBKT cấp uỷ; về nhiệm vụ, quyền hạn của ban chấp hành, ban thường vụ, thường trực cấp uỷ, bí thư, phó bí thư cấp uỷ cấp tỉnh, cấp huyện (từ ngày 01/7/2025 là xã, phường, đặc khu).
Các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở địa phương được quan tâm xây dựng, kiện toàn vững mạnh. Hầu hết các cấp uỷ, ban thường vụ đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quy chế làm việc, tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt theo hướng thiết thực và hiệu quả; lãnh đạo, chỉ đạo, thảo luận, quyết định các vấn đề theo đúng thẩm quyền, thể hiện được vai trò lãnh đạo của Đảng ở địa phương; phân công rõ nhiệm vụ cho từng cấp uỷ viên, uỷ viên ban thường vụ, thường trực cấp uỷ. Cấp uỷ cấp trên thường xuyên kiểm tra, giám sát cấp uỷ cấp dưới trong việc xây dựng, thực hiện quy chế làm việc để kịp thời chấn chỉnh những nội dung chưa đúng với quy định của Điều lệ Đảng, của TW và pháp luật của Nhà nước, khắc phục những hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện.
Việc chỉ định cấp uỷ và bổ sung phương hướng, nhiệm vụ đối với tổ chức đảng thành lập mới, hợp nhất, sáp nhập, chia tách được thực hiện nghiêm túc, kịp thời, đồng bộ, nhất là tại những nơi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính, sắp xếp tổ chức các cơ quan, đơn vị, bảo đảm các tổ chức đảng và cấp uỷ hoạt động liên tục, giữ vững vai trò lãnh đạo và không phải tổ chức đại hội nhiều lần.
Nhìn chung, các quy định về cơ quan lãnh đạo của Đảng ở các cấp địa phương trong Điều lệ Đảng được tổ chức thực hiện nghiêm, góp phần nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cấp uỷ trong lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của đại hội, những chủ trương, chính sách về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và tổ chức thực hiện thí điểm một số chủ trương mới tại địa phương.
Hạn chế, vướng mắc, bất cập: Việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của thường trực cấp uỷ, nhất là mối quan hệ công tác giữa đồng chí bí thư cấp uỷ và đồng chí chủ tịch uỷ ban nhân dân có nơi còn lúng túng. Chương IV quy định về cơ quan lãnh đạo của Đảng ở các cấp địa phương chưa quy định cấp uỷ xã là cơ quan lãnh đạo ở cấp xã.
2.6. Về tổ chức cơ sở đảng (Chương V)
Tính đến ngày 31/5/2025, toàn Đảng có 49.733 đảng bộ, chi bộ cơ sở[29], 2.633 đảng bộ bộ phận, 235.694 chi bộ trực thuộc. Việc thành lập các tổ chức cơ sở đảng, đảng bộ bộ phận, chi bộ trực thuộc bảo đảm đúng Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của TW.
Các cấp uỷ, tổ chức đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện nghiêm túc, bài bản, có hiệu quả các quy định của Điều lệ Đảng, các chủ trương, nghị quyết, quy định, hướng dẫn của TW về: xây dựng tổ chức cơ sở đảng; chức năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ sở đảng; xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước; đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt chi bộ; đặc biệt, kể từ khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp, đảng uỷ xã, phường, đặc khu đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu hoàn thành công tác kiện toàn tổ chức, sắp xếp cán bộ; các cơ quan, đơn vị, tổ chức hoạt động thông suốt, gần dân, sát dân, cơ bản đáp ứng các yêu cầu quản trị xã hội hiện đại. Đa số tổ chức cơ sở đảng đã phát huy vai trò là hạt nhân chính trị ở cơ sở, lãnh đạo cán bộ, đảng viên và Nhân dân hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị theo chức năng, nhiệm vụ được Điều lệ Đảng, TW quy định.
Công tác đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng hằng năm được các cấp uỷ, tổ chức đảng nghiêm túc tổ chức thực hiện theo đúng quy định, hướng dẫn của TW, từng bước khắc phục bệnh thành tích, đúng thực chất hơn.
Các cấp uỷ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, nghiêm túc chấp hành Điều lệ Đảng, chỉ thị của BCT, các quy định, hướng dẫn của TW về nội dung, nhiệm vụ, nhiệm kỳ, đại biểu dự đại hội đảng bộ, chi bộ; cơ bản bầu đủ số lượng, bảo đảm chất lượng uỷ viên ban chấp hành, uỷ viên ban thường vụ đảng uỷ cơ sở, chi uỷ, bí thư, phó bí thư; duy trì nền nếp chế độ, hình thức sinh hoạt của chi uỷ, chi bộ, đảng uỷ, đảng bộ cơ sở theo quy định; thí điểm sinh hoạt trực tuyến theo hướng dẫn của TW; một số chi bộ đông đảng viên được tổ chức và hoạt động theo tổ đảng. Thực hiện đúng quy định về việc lập chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở theo nơi làm việc hoặc nơi ở của đảng viên.
Nhìn chung, các quy định của Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn của TW về: lập tổ chức cơ sở đảng, đảng bộ bộ phận, chi bộ trực thuộc; nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng, của ban thường vụ đảng uỷ cơ sở, đảng bộ bộ phận, chi bộ trực thuộc; đại hội của tổ chức cơ sở đảng (nội dung, nhiệm vụ của đại hội; đại biểu dự đại hội; về bầu cấp uỷ, số lượng uỷ viên ban chấp hành, ban thường vụ); về chế độ sinh hoạt của chi uỷ, chi bộ, đảng uỷ, đảng bộ cơ sở; chi uỷ, bí thư, phó bí thư chi bộ; hình thức sinh hoạt chi bộ, nhất là ở các chi bộ có đông đảng viên, có đảng viên hoạt động phân tán; việc sinh hoạt đảng trực tuyến; tổ chức và hoạt động của chi bộ trực thuộc có trên 30 đảng viên; tổ đảng và hoạt động của tổ đảng được thực hiện nghiêm, ổn định từ nhiều năm, cơ bản phù hợp tình hình thực tế, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức cơ sở đảng, chi bộ, góp phần củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng.
Hạn chế, vướng mắc, bất cập: Một số địa phương lập mô hình đảng bộ bộ phận chưa đúng quy định; nhiều chi bộ khu dân cư, tổ dân phố quá đông đảng viên. Hoạt động của đảng bộ bộ phận còn lúng túng, gặp nhiều vướng mắc, tầng nấc, vai trò hạn chế, nhất là trong công tác kiểm tra, giám sát các chi bộ trực thuộc, đảng viên[30] và công tác tổ chức cán bộ. Việc họp thường lệ mỗi năm hai lần ở các đảng bộ cơ sở có đông đảng viên, hoạt động phân tán trên phạm vi rộng gặp khó khăn; một số nơi thực hiện chưa nghiêm. Việc sinh hoạt định kỳ, sinh hoạt chuyên đề ở một số loại hình chi bộ, nhất là chi bộ trong doanh nghiệp và một số tổ chức, cơ sở ở nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Vai trò và sức chiến đấu của chi bộ còn yếu, chưa kịp thời phát hiện khi cán bộ, đảng viên có sai phạm trong quá trình công tác, sinh hoạt.
Chưa có quy định cụ thể đối với đảng bộ cơ sở, đảng bộ cấp trên cơ sở, đảng bộ được giao quyền, thí điểm giao quyền cấp trên cơ sở sau khi thành lập mà không duy trì đủ số lượng đảng viên theo quy định. Nhiệm kỳ chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở 05 năm 02 lần chưa đồng bộ, thống nhất với nhiệm kỳ đại hội của cấp trên và các quy định về công tác cán bộ, khó khăn trong xác định nhiệm vụ chính trị của nhiệm kỳ và công tác bố trí cán bộ (trước ngày 01/7/2025). Quy định về lập tổ chức cơ sở đảng gồm cả đảng bộ cơ sở và chi bộ cơ sở[31] chưa sát với thực tế về quy mô, tính chất và nhiệm vụ của mỗi loại hình tổ chức đảng. Trong thực tế, có nhiều loại hình đảng bộ, chi bộ cơ sở, có chức năng, nhiệm vụ khác nhau, nhưng Điều lệ Đảng chỉ quy định về nhiệm vụ chung của tổ chức cơ sở đảng là chưa phù hợp với thực tiễn (BBT đã ban hành chức năng, nhiệm vụ cho từng loại hình tổ chức cơ sở đảng). Chưa có quy định cụ thể về điều kiện lập chi bộ cơ sở, lập chi bộ trực thuộc; về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ bộ phận. Thực tiễn cho thấy các quy định về tổ chức cơ sở đảng còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu kỹ lưỡng để sửa đổi, thay thế cho phù hợp với mô hình tổng thể tổ chức bộ máy trong thời kỳ mới.
2.7. Về tổ chức đảng trong QĐNDVN và CANDVN (Chương VI)
Các quy định mới của BCT, BBT về tổ chức đảng trong QĐNDVN và CANDVN, cơ quan chính trị trong QĐNDVN được bổ sung, sửa đổi, ban hành kịp thời, phù hợp với việc sắp xếp tinh gọn tổ chức của QĐNDVN và CANDVN, góp phần nhanh chóng kiện toàn hệ thống tổ chức đảng trong Quân đội và Công an[32]. Vị trí, vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng trong Quân đội và Công an ngày càng được khẳng định và tăng cường; chức năng, nhiệm vụ của các loại hình đảng bộ, chi bộ trong Quân đội và Công an được rà soát và bổ sung, sửa đổi; chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ bộ phận trong Quân đội và Công an được quy định rõ hơn, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc.
Việc thực hiện nghiêm quy định đồng chí bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ tham gia đảng uỷ quân khu; đồng chí bí thư cấp uỷ cấp tỉnh, cấp huyện (từ ngày 01/7/2025 là xã, phường, đặc khu) là bí thư đảng uỷ quân sự cùng cấp; đồng chí phó bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ phụ trách đảng uỷ bộ đội biên phòng (trước ngày 01/7/2025); phó bí thư là chủ tịch uỷ ban nhân dân phụ trách đảng uỷ công an cùng cấp; tổ chức đảng quân sự, công an địa phương cấp nào đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của cấp uỷ địa phương cấp đó, đồng thời chấp hành nghị quyết của đảng uỷ quân sự, đảng uỷ công an cấp trên về mặt chuyên môn, nghiệp vụ; quy chế phối hợp giữa cấp uỷ công an cấp trên với cấp uỷ địa phương cấp dưới trong lãnh đạo, chỉ đạo cấp uỷ công an cùng cấp[33] đã khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của cấp uỷ, sự phù hợp của cơ chế song trùng lãnh đạo đối với tổ chức đảng trong quân đội, công an địa phương, phát huy vai trò của tổ chức đảng trong quân đội, công an ở địa phương, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ công tác quân sự, quốc phòng, công an tại địa phương.
Nhìn chung, các quy định của Điều lệ Đảng, quy định, hướng dẫn của TW về tổ chức đảng trong QĐNDVN và CANDVN; về cơ quan chính trị trong QĐNDVN, cơ quan làm công tác đảng, công tác chính trị, công tác quần chúng trong CANDVN; về cơ chế lãnh đạo của cấp uỷ cùng cấp với tổ chức đảng quân sự, công an địa phương là phù hợp với cơ cấu tổ chức của Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân, thực tiễn và đặc thù của công tác xây dựng Đảng ở các đảng bộ này, bảo đảm vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội, Công an và phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang trong bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo đảm an ninh chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo trong tình hình mới.
Hạn chế: Cơ cấu của cơ quan quân sự tham gia cấp uỷ địa phương chưa phù hợp[34]; việc kiện toàn cán bộ chủ trì ở cơ quan quân sự địa phương cấp tỉnh[35] tham gia cấp uỷ địa phương có nơi còn chậm (trước ngày 01/7/2025).
(Tiếp theo dưới phần comment)

Address

Số 292, Xã Mường Khương
Tỉnh Lào Cai

Telephone

+842143881203

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Công an xã Mường Khương, tỉnh Lào Cai posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share