Trà Vinh 24/7

Trà Vinh 24/7 Thông tin chính xác, kịp thời về nhiều vấn đề trong cuộc sống
(2)

Nhân sự lãnh đạo chủ chốt sẽ do Bộ Chính trị giới thiệuBộ Chính trị có trách nhiệm chuẩn bị giới thiệu nhân sự để Trung ...
17/10/2025

Nhân sự lãnh đạo chủ chốt sẽ do Bộ Chính trị giới thiệu

Bộ Chính trị có trách nhiệm chuẩn bị giới thiệu nhân sự để Trung ương xem xét bầu Tổng Bí thư; giới thiệu nhân sự để Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội.
Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Cẩm Tú vừa ký ban hành Quy định số 377 về phân cấp quản lý cán bộ và quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, tạm đình chỉ công tác, cho thôi chức vụ, từ chức, miễn nhiệm đối với cán bộ.

Về trách nhiệm quản lý và quyết định với cán bộ, Quy định số 377 nêu rõ Ban Chấp hành Trung ương định hướng, quyết định các chủ trương, nội dung quan trọng về công tác cán bộ và cán bộ.

Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, trực tiếp quyết định một số nội dung trong công tác cán bộ; phân công, phân cấp cho các cấp ủy, tổ chức Đảng quyết định một số nội dung trong công tác cán bộ đối với các chức danh lãnh đạo thuộc diện Trung ương quản lý và các chức danh cán bộ khác.

Bộ Chính trị, Ban Bí thư có thể ủy quyền cho Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội, Thường trực Ban Bí thư quyết định một số khâu, nội dung trong công tác cán bộ.

Trách nhiệm, quyền hạn của Bộ Chính trị

Về trách nhiệm và quyền hạn của Bộ Chính trị, Quy định số 377 nêu: Bộ Chính trị quyết định chủ trương, chính sách về công tác cán bộ và cán bộ theo quy chế làm việc của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Bộ Chính trị trình Ban chấp hành Trung ương các nội dung quan trọng về chiến lược cán bộ và công tác cán bộ. Bộ Chính trị có trách nhiệm chuẩn bị giới thiệu nhân sự để Trung ương xem xét bầu Tổng Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương.

Bộ Chính trị cũng có trách nhiệm giới thiệu nhân sự để Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội.

Theo quy định này, Bộ Chính trị xin ý kiến Trung ương trước khi giới thiệu nhân sự để Quốc hội bầu, phê chuẩn đối với các chức danh: Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Thủ tướng, Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao, ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Tổng Thư ký Quốc hội - Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Tổng Kiểm toán Nhà nước, các thành viên Chính phủ.

Bộ Chính trị xin ý kiến Trung ương trước khi xem xét, quyết định quy hoạch Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Bộ Chính trị kỷ luật cán bộ và những vấn đề khác về công tác cán bộ thuộc thẩm quyền của Ban chấp hành Trung ương Đảng.

Về công tác cán bộ, Bộ Chính trị quyết định phân công công tác đối với ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Ban Bí thư, ủy viên Ban chấp hành Trung ương (cả chính thức và dự khuyết).

Bộ Chính trị cũng chỉ định phó bí thư, ủy viên Quân ủy Trung ương và bí thư, phó bí thư, ủy viên Đảng ủy Công an Trung ương; chỉ định (hoặc thí điểm chỉ định) theo quy định của Ban chấp hành Trung ương Đảng đối với ủy viên ban chấp hành, ban thường vụ, bí thư, phó bí thư, ủy ban kiểm tra, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương.

Khi cần thiết, Bộ Chính trị chỉ định bí thư, giao quyền bí thư hoặc giao phụ trách đảng bộ trực thuộc Trung ương.

Bộ Chính trị cũng quyết định đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, tái cử, chỉ định, điều động, luân chuyển, biệt phái cán bộ; phong, thăng, giáng, tước cấp bậc hàm cấp tướng; tạm đình chỉ, đình chỉ chức vụ; tạm đình chỉ công tác, cho thôi giữ chức vụ, từ chức, miễn nhiệm, đưa ra khỏi quy hoạch; khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chế độ, chính sách đối với các chức danh cán bộ theo thẩm quyền.

Bộ Chính trị có thể ủy quyền cho Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội, Thường trực Ban Bí thư trong phạm vi, lĩnh vực phụ trách xem xét.

Trách nhiệm, quyền hạn của Ban Bí thư

Ban Bí thư quyết định đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, tái cử, chỉ định, điều động, luân chuyển, biệt phái cán bộ; phong, thăng, giáng, tước cấp bậc hàm cấp tướng; tạm đình chỉ, đình chỉ chức vụ; tạm đình chỉ công tác, cho thôi giữ chức vụ, từ chức, miễn nhiệm, đưa ra khỏi quy hoạch; khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chế độ, chính sách đối với các chức danh cán bộ.

Ban Bí thư cũng sẽ quyết định kiểm tra, giám sát công tác cán bộ theo ủy quyền của Bộ Chính trị; định kỳ báo cáo Bộ Chính trị những nội dung về công tác cán bộ và cán bộ do Ban Bí thư quản lý.

Ban Bí thư ủy quyền cho: Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội, Thường trực Ban Bí thư trong phạm vi, lĩnh vực phụ trách xem xét. Trong đó có ủy quyền về quyết định phân công, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử đối với cán bộ thuộc diện Ban Bí thư quản lý giữ các chức danh, chức vụ có cơ cấu kiêm nhiệm của các Đảng ủy trực thuộc Đảng ủy các cơ quan Đảng Trung ương, Đảng ủy Chính phủ, Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương...

Ngoài ra, Ban Bí thư có thể ủy quyền bổ nhiệm lại và thực hiện chế độ nghỉ hưu; kéo dài nhiệm kỳ đại sứ Việt Nam ở nước ngoài không quá 12 tháng đối với cán bộ thuộc diện Ban Bí thư quản lý.

Cảnh báo thông tin sai sự thật về đóng cửa, giải tán các cơ sở giáo dục ngoài công lập‼️ Thông tin cho rằng các trường n...
16/10/2025

Cảnh báo thông tin sai sự thật về đóng cửa, giải tán các cơ sở giáo dục ngoài công lập

‼️ Thông tin cho rằng các trường ngoài công lập sẽ bị đóng cửa là sai sự thật, bịa đặt và gây hoang mang dư luận.
👮🛑 Vụ việc tin giả này đã được đến cơ quan chức năng để xử lý theo quy định.

Thông tin Chính phủ

15/10/2025

LẤY Ý KIẾN NHÂN DÂN VỀ DỰ THẢO CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIV CỦA ĐẢNG

Vĩnh Long: Tăng cường tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với đồng bào d...
15/10/2025

Vĩnh Long: Tăng cường tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với đồng bào dân tộc, tôn giáo
Ngày 10/10, Ban Chỉ đạo Công tác dân tộc, tôn giáo tỉnh Vĩnh Long tổ chức Hội nghị sơ kết, đánh giá tình hình công tác dân tộc, tôn giáo quý III/2025, định hướng một số nội dung trong thời gian tới.
Tỉnh Vĩnh Long có hơn 373.640 người dân tộc thiểu số, chiếm 11,03% dân số toàn tỉnh; có 12 tổ chức tôn giáo, hơn 1,1 triệu tín đồ các tôn giáo, chiếm 33,4% dân số toàn tỉnh.

Trong quý III/2025, tình hình dân tộc, tôn giáo trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định. Đồng bào dân tộc, tôn giáo chấp hành và đồng thuận với chủ trương của Đảng, Nhà nước về tinh gọn bộ máy, sáp nhập đơn vị hành chính, bày tỏ niềm tin và sự kỳ vọng lớn vào định hướng chiến lược của Đảng. Việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa, giá trị đạo đức của các tôn giáo được quan tâm thực hiện. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc, tôn giáo ngày càng được nâng cao…

Tại Hội nghị, các đại biểu cũng đã tập trung đánh giá tình hình và những vấn đề trong đồng bào dân tộc, tôn giáo quan tâm hiện nay; công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong thực hiện công tác dân tộc, tôn giáo; công tác nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng trong đồng bào dân tộc, tôn giáo; trao đổi, cho ý kiến làm rõ các vấn đề cụ thể liên quan đến dân tộc, tôn giáo tại địa phương; đề xuất giải pháp, nhiệm vụ thời gian tới.
Phát biểu tại Hội nghị, đồng chí Trần Văn Lâu- Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long đề nghị Ban Chỉ đạo Công tác dân tộc, tôn giáo tỉnh Vĩnh Long tiếp tục phát huy hiệu quả chức năng, nhiệm vụ; tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, định hướng để người dân hiểu rõ và tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với đồng bào dân tộc, tôn giáo. Cùng với đó, quan tâm chăm lo đời sống của người dân; thực hiện các chính sách của Đảng, các chương trình mục tiêu quốc gia; chính sách đặc thù đối với đồng bào dân tộc, tôn giáo…

Đồng chí Trần Văn Lâu cũng đề nghị chính quyền địa phương đồng hành, hỗ trợ trong các dịp lễ hội văn hóa của đồng bào dân tộc, tôn giáo; phải tạo mối quan hệ gần gũi, gắn bó với đồng bào dân tộc, tổ chức tôn giáo. Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo tham mưu thực hiện tốt công tác đối ngoại nhân dân trong thời gian tới.

Đồng chí Trần Văn Lâu- Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long phát biểu tại Hội nghị.

Phản bác luận điệu xuyên tạc về phát huy nguồn lực tôn giáo ở Việt NamĐảng, Nhà nước Việt Nam đã xác định tôn giáo, tín ...
15/10/2025

Phản bác luận điệu xuyên tạc về phát huy nguồn lực tôn giáo ở Việt Nam
Đảng, Nhà nước Việt Nam đã xác định tôn giáo, tín ngưỡng là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, có giá trị đạo đức, văn hóa, tôn giáo còn tồn tại lâu dài. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã có sự phát triển nhận thức, trong đó nhấn mạnh: Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước. Tuy nhiên, một số thế lực phản động đã cố tình xuyên tạc, cho rằng Đảng ta lấy “thuốc phiện” (tôn giáo) làm động lực cho sự phát triển đất nước.

1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát huy nguồn lực tôn giáo
Với một đất nước có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo và nhiều người theo tín ngưỡng, tôn giáo, nên trong quá trình vận động cách mạng cũng như khi quản lý đất nước và điều hành xã hội, Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến tôn giáo, có chính sách đối với tôn giáo phù hợp trong từng giai đoạn cách mạng.

Năm 1986, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới được đánh dấu bằng Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, với chủ trương đổi mới toàn diện về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (nhiệm kỳ 1986 - 1991) nêu rõ định hướng là“nhìn lại và đổi mới”, đánh giá những việc làm được để phát huy, việc chưa làm được bổ sung, việc làm sai để điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp.

Riêng lĩnh vực tôn giáo, sau thời gian đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm, ngày 16/10/1990, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới. Nghị quyết số 24 với luận điểm: tôn giáo còn tồn tại lâu dài; đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp… là bước đột phá nhận thức về nguồn lực tôn giáo và đổi mới chủ trương chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Quá trình phát triển nhận thức về nguồn lực của tôn giáo bắt đầu xem xét một cách cơ bản về những yếu tố liên quan đến hướng tiếp cận tôn giáo, sự tồn tại của tôn giáo và vai trò, ảnh hưởng của tôn giáo.

Mở rộng hướng tiếp cận về tôn giáo. Trước đây, tôn giáo được tiếp cận chủ yếu từ hai góc độ tư tưởng và chính trị với nhiều định nghĩa nhưng đọng lại ở hai câu mang tính kinh điển: “Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội” và “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Với cách nhìn mới về tôn giáo, hai hướng tiếp cận nói trên đều đúng nhưng chưa đủ, cần phải bổ sung. Tôn giáo, với cách nhìn mới, không chỉ là tư tưởng, không chỉ liên quan chính trị mà còn là lịch, là nhận thức, văn hóa, đạo đức. Tôn giáo còn là nguồn lực vật chất và tinh thần, còn là chỗ dựa về đời sống tâm linh của con người. Tóm lại, tôn giáo không chỉ là hình thái ý thức xã hội, mà còn là thực thể xã hội tồn tại lâu dài gắn với con người.

Với cách nhìn mới - cách nhìn đa diện, nhiều chiều, Đảng Cộng sản Việt Nam vượt ra khỏi cách nhìn tôn giáo bó hẹp trong khuôn khổ của tư tưởng và chính trị, mở rộng đến các khía cạnh khác như văn hóa, đạo đức, nguồn lực... đúng như tôn giáo tồn tại và phản ánh. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định, tôn giáo còn tồn tại rất lâu dài, không thể đơn giản cho rằng tôn giáo sẽ mất đi một sớm một chiều khi con người đã khám phá, chinh phục được thiên nhiên, khi đời sống vật chất ngày một tăng, tức là giải quyết được nguồn gốc tự nhiên và xã hội của tôn giáo. Không thể đơn giản, duy ý chí cho rằng, bằng ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt, bằng những kế hoạch năm năm, chủ nghĩa xã hội đã đến, tôn giáo sẽ dần mất đi. Trái lại, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc và trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Trước đây, khi tiếp cận vấn đề tôn giáo, hầu như không nói đến mặt tích cực của tôn giáo mà chủ yếu nhấn mạnh những yếu tố tiêu cực. Quan điểm đổi mới đã nhìn nhận cả hai mặt tích cực và tiêu cực của tôn giáo. Bên cạnh mặt tiêu cực như yếm thế, ru ngủ con người trong điều kiện trình độ dân trí thấp, dễ bị các thế lực xấu và chủ nghĩa cơ hội lợi dụng trong những tình thế lịch sử nhất định, tôn giáo còn có mặt tích cực được ghi nhận và trân trọng, trong đó có giá trị đạo đức - gắn liền với chủ nghĩa nhân văn. Giáo lý, giáo luật của các tôn giáo đã tạo ra những quy phạm đạo đức hướng thiện, góp phần điều chỉnh hành vi xã hội của con người. Thực tế ở Việt Nam, những nơi có đông tín đồ tôn giáo thì tệ nạn xã hội ít hơn, trật tự ổn định hơn, lối sống nề nếp và đạo đức hơn.

Nghị quyết 25 (2003) xác định tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân: Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc: Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và Nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia; Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng: Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác vận động quần chúng tôn giáo phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc; thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân, trong đó có đồng bào tôn giáo. Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện toàn. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách, giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật.

Tóm lại, bước vào thời kỳ đổi mới, quan điểm của Đảng về tôn giáo và công tác tôn giáo đã chuyển từ nhận thức tôn giáo là chính trị, là tiêu cực, là bị địch lợi dụng, sang tôn giáo là nhu cầu của nhân dân, là những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của tôn giáo cần được khuyến khích phát huy.

Từ thay đổi nhận thức, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo phát huy nguồn lực tôn giáo thông qua tuyên truyền, thuyết phục, vận động tổ chức, tín đồ tôn giáo tham gia vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết của các tổ chức, cá nhân tôn giáo phát huy nguồn lực tôn giáo đóng góp vào sự phát triển trên 2 bình diện: nguồn lực tinh thần và nguồn lực vật chất.

Về nguồn lực tinh thần. Xuất phát từ luận điểm: "dân là gốc", "khoan thư sức dân", "chăm lo người nghèo khó", "lượng hình, xá tội” của Nho giáo, Phật giáo được Đảng ta vận dụng vào trong đường lối, chính sách; có lối sống thiện lương, tu tâm, khuyên con người làm lành, lánh dữ, tích đức hành thiện; lối sống vì tha nhân của tôn giáo.

Tôn giáo có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của kinh tế. Sự ảnh hưởng là thúc đẩy hay kìm hãm kinh tế còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó tự do tôn giáo được tổ chức Pew Porum (Hoa Kỳ) chỉ ra là yếu tố có tính quyết định đến ảnh hưởng của tôn giáo lên kinh tế. Giáo lý tôn giáo khuyến thiện và cổ vũ lối sống trung thực, lìa xa sự lợi dụng vì mục đích cá nhân, ích kỷ. Do đó tự do tôn giáo tạo điều kiện thuận lợi để những người kinh doanh có thể đưa những giá trị tôn giáo và giáo lý đạo đức vào trong ứng xử và hoạt động kinh doanh của họ, làm cho họ trở thành những đối tác tin cậy và trách nhiệm hơn, các sản phẩm làm ra có chất lượng hơn.

Hầu hết các hoạt động tôn giáo ở các mức độ khác nhau đều mang ý nghĩa kinh tế. Các hoạt động tôn giáo, từ việc đi lại để tham gia các sinh hoạt liên quan tôn giáo, hoạt động truyền thông tôn giáo và tổ chức các sự kiện tôn giáo, đến việc xây dựng các cơ sở tôn giáo,... đều phát sinh giao dịch mang tính cung - cầu. Chính vì vậy, hoạt động tôn giáo được tự do sẽ làm gia tăng các giao dịch kinh tế, kích cầu, tạo thêm việc làm,... do đó trực tiếp thúc đẩy phát triển kinh tế ở địa phương hay quốc gia.

Tự do tôn giáo góp phần tích cực vào việc kiến tạo hòa bình bằng cách giảm căng thẳng, xung đột bạo lực liên quan đến tôn giáo và điều đó là quan trọng đối với doanh nghiệp. Nơi có sự ổn định sẽ có nhiều cơ hội để đầu tư và tiến hành các hoạt động kinh doanh bình thường và có thể dự báo được.

Về nguồn lực vật chất. Các tôn giáo lớn ở Việt Nam đều gắn đạo với đời, với tư tưởng nhập thế, được thể hiện qua những việc làm cụ thể mà các tôn giáo có thế mạnh như hoạt động từ thiện, văn hóa - xã hội, tham gia vào dịch vụ công để chia sẻ gánh nặng cho xã hội. Trong phát triển bền vững, tôn giáo đặc biệt có vai trò bảo vệ môi trường, đề cao việc sống hòa đồng, gần gũi với thiên nhiên,...

Tôn giáo ở Việt Nam những năm qua có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng. Nếu số lượng tín đồ tôn giáo năm 2020 so với năm 2003 tăng 35% thì cùng thời gian này, số lượng chức sắc, chức việc tôn giáo tăng gần 70%, số lượng cơ sở thờ tự của tôn giáo tăng 33%. Trong số 25,3 triệu người theo tôn giáo có gần 200 ngàn chức sắc, chức việc (khoảng 125 tín đồ/1 chức sắc, chức việc). Đây là lực lượng lãnh đạo, dẫn dắt tín đồ cả việc đạo và việc đời. Chức sắc, chức việc các tôn giáo nhìn chung có học vấn, được đào tạo bài bản, trong đó một bộ phận chức sắc, chức việc còn được đào tạo để am hiểu nhiều lĩnh vực từ tâm lý đến văn hóa, từ kinh tế đến chính trị và kỹ năng giao tiếp, thuyết phục7.

Tính đến năm 2024, theo thống kê của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tôn giáo đã tham gia xã hội hóa giáo dục, y tế, hoạt động bảo trợ xã hội, dạy nghề những con số khá ấn tượng như sau:

Trên lĩnh vực giáo dục, cả nước đã có 39 tỉnh, thành phố có cơ sở giáo dục mầm non tư thục do cá nhân tôn giáo thành lập (26 tỉnh, thành phố có quy mô trường) với 269 trường mầm non, 905 nhóm, lớp mầm non độc lập do các cá nhân tôn giáo thành lập, chiếm 15,6% so với số trường mầm non ngoài công lập trên phạm vi toàn quốc. Các cơ sở giáo dục mầm non tư thục do cá nhân tôn giáo thành lập đã huy động 125.594 trẻ đến trường/lớp, chiếm 3,06% so với tổng số trẻ đến trường mầm non trên toàn quốc và chiếm 18,3% so với trẻ đến trường mầm non ngoài công lập.

Trong lĩnh vực y tế, các tổ chức, cá nhân tôn giáo đã mở 185 cơ sở khám chữa bệnh trong đó có 143 cơ sở khám bệnh đông y hoặc đông tây y kết hợp, 42 cơ sở tây y (33 tủ thuốc, 09 nhà thuốc) và 01 trạm xá. Trong 3 năm từ 2021 đến 2024, tổng số lượng người được khám, chữa bệnh, chăm sóc khức khỏe tại các cơ sở khám, chữa bệnh nhân đạo của các tôn giáo là gần 1,5 triệu lượt. Đặc biệt, các tổ chức tôn giáo đã phối hợp khám chữa bệnh lưu động, phát thuốc miễn phí cho hơn 177 triệu lượt người; bốc, phát thuốc miễn phí hoặc bán giá rẻ gần 306 triệu thang thuốc cho bệnh nhân nghèo.

Trong lĩnh vực dạy nghề. Giáo hội Công giáo Việt Nam có một số cơ sở (trường, trung tâm) dạy nghề như: Toà Giám mục Giáo phận Xuân Lộc (Đồng Nai) có Trường Trung cấp nghề Hòa Bình (đào tạo 10 ngành nghề bậc trung cấp theo chương trình khung của Tổng cục Dạy nghề, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội); Dòng Don Bosco (Lâm Đồng) có Trường Trung cấp nghề Tân Tiến; Trung tâm dạy nghề tư thục Lasan Đà Lạt (trực thuộc Tỉnh Dòng Lasan Việt Nam); Trung tâm dạy nghề tư thục Vinh Sơn Đà Lạt (trực thuộc Dòng Vinh Sơn Việt Nam).

Trong lĩnh vực bảo trợ xã hội. Đến năm 2020 cả nước có 402 cơ sở bảo trợ xã hội, trong đó có 233 cơ sở ngoài công lập (đa số của các tổ chức, cá nhân các tôn giáo). Các địa phương có nhiều cơ sở bảo trợ xã hội của các tôn giáo: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Thừa Thiên-Huế, Khánh Hòa, Hà Nội, Vĩnh Long,..

2. Nhận diện và phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch
- Luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch:

Trong giai đoạn đổi mới đất nước hiện nay, Việt Nam đã nhìn nhận và đổi mới một cách căn bản về tôn giáo và công tác tôn giáo, từ nhận thức đến chủ trương, chính sách, từ nội dung công tác đến tổ chức thực hiện. Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta đã nhận định khái quát về tình hình hoạt động tôn giáo ở Việt Nam: “Tình hình tôn giáo ổn định; đa số chức sắc, chức việc và đồng bào có đạo yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, gắn bó đồng hành cùng dân tộc, góp phần đấu tranh, phản bác luận điệu xuyên tạc, vu cáo chính quyền vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo”. Hoạt động của đa số chức sắc, chức việc, tín đồ tuân thủ quy định của pháp luật, đúng theo đường hướng hành đạo của tôn giáo: “chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Văn kiện Đại hội Đảng XIII đã đề xuất những phương hướng, giải pháp làm lành mạnh hóa sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng ở nước ta: Tiếp tục nhấn mạnh công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. “vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đảm bảo cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định pháp luật và hiến chương, điều lệ được nhà nước công nhận.

Tuy nhiên, trên một số trang mạng xã hội, một số tổ chức phản động như Việt Tân, Đài châu Á Tự do, đặc biệt là trang BBC tiếng Việt đăng bài viết, đưa ra luận điệu rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam coi “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, rồi lại lấy tôn giáo là “nguồn lực của sự phát triển” tức là lấy thuốc phiện (tôn giáo) là nguồn lực của phát triển. Từ đó họ quy chụp rằng Đảng Cộng sản Việt Nam dùng thuốc phiện tôn giáo để mê muội nhân dân phục vụ cho mục đích “toàn trị” của Đảng,…

Vậy thực chất quan điểm coi tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân của Chủ nghĩa Mác là như thế nào và chúng ta lấy tôn giáo là nguồn lực của sự phát triển dựa trên cơ sở nào, phải được làm rõ để phản bác những luận điểm sai trái trên và đưa ra cách hiểu đúng về quan điểm tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân của chủ nghĩa Mác.

- Phản bác các luận điệu của các thế lực thù địch

C.Mác nói đến tôn giáo trong tác phẩm Lời nói đầu Phê phán Triết học pháp quyền của Hêghen: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Thật ra không phải C.Mác là người đầu tiên dùng hình ảnh thuốc phiện để nói về tôn giáo, mà trước đó Bauer? đã dùng thuốc phiện để nói về tôn giáo. Nhưng phải đến C.Mác hình ảnh tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân mới được diễn tả trong một đoạn văn rất sâu sắc như trên. Và cũng không phải đến nay những quan điểm sai trái, thù địch mới chống phá quan điểm về tôn giáo của chủ nghĩa Mác. Từ giữa thế kỷ XIX một số đại biểu của chủ nghĩa duy tâm, nhà thờ Công giáo đã quy chụp cho chủ nghĩa Mác chỉ nhìn tôn giáo là một chất gây nghiện làm mê muội quần chúng. Chỉ nhìn tôn giáo ở chức năng “đao phủ” tức là tôn giáo sẵn sàng dùng sức mạnh thần quyền tác động vào thế quyền để duy trì sự áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị. Và tất yếu dẫn đến quan điểm phải tiêu diệt tôn giáo, làm cho tôn giáo mất đi trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Sự thật là có giai đoạn cụ thể nhiều người cộng sản đã nhìn tôn giáo thiên về mặt tiêu cực, tôn giáo là mê tín, thực hiện chính sách tả khuynh và nhiệm vụ của những người cộng sản là thu hẹp, hạn chế, khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo. Làm cho tôn giáo dần dần mất đi trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Để đến chủ nghĩa cộng sản thì tôn giáo hoàn toàn tiêu vong.

Tóm lại, Cách nói của Mác: tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân vừa là sự phản ánh, vừa là sự phản kháng xã hội. Cho thấy cội nguồn của tôn giáo là từ nhân dân để chống đỡ với nỗi khốn cùng thực tại. Hơn nữa,đầu của thế kỉ XIX, từ thuốc phiện vẫn chưa có nghĩa là ma túy như ngày nay mà nó là một thứ thuốc thông thường, một chất giảm đau, các thầy thuốc vẫn kê đơn.

*

* *

Như vậy, phát huy nguồn lực của các tôn giáo đã trở thành chủ trương, chính sách nhất quán trong quá trình đổi mới, trong việc khuyến khích cộng đồng các tôn giáo phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước đã thực hiện nhất quán quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về những tác động tích cực của tôn giáo đối với đời sống xã hội.

Với những phân tích khái quát trên về việc huy động, sử dụng nguồn lực tôn giáo đã bác bỏ những luận điệu sai trái: coi tôn giáo là thuốc phiện đối với nhân dân. Bác bỏ luận điểm “thuốc phiện” tôn giáo làm động lực của sự phát triển của một số thế lực thù địch./.

TS. Đào Đình Tưởng

Học viện Chính trị khu vực I

--------------------------------

Tài liệu tham khảo:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc Sự thật Hà Nội, tập 2, tr 45, 171, 171, 171.

[2] Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân là quan điểm của C. Mác viết trong tác phẩm: Phê phán Triết học pháp quyền của Heghen - Lời nói đầu.

[3] Mác-Ănghen, toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật 1995, tr 570

[4] Lê Thị Liên, Phát huy nguồn lực tôn giáo trong phát triển đất nước http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/phat-huy-nguon-luc-ton-giao-trong-phat-trien-dat-nuoc.html
baocaovien.vn
Sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra sôi động ở khắp các vùng, miền, các cộng đồng dân cư, các tầng lớp xã hội, nhất là vào dịp đầu năm, lễ hội truyền thống (Trong ảnh: Nhân dân tham dự lễ hội hoa đăng) _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Nhận diện và phản bác luận điệu xuyên tạc về phát triển kinh tế tư nhân ở Việt NamNgày 04/5/2025, Bộ Chính trị ban hành ...
15/10/2025

Nhận diện và phản bác luận điệu xuyên tạc về phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam
Ngày 04/5/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân (Nghị quyết số 68-NQ/TW) với các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp đột phá, chưa từng có tiền lệ, định hình quan điểm mới của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta.
1. Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị đánh dấu một bước ngoặt trong tư duy, nhận thức của Đảng về KTTN; với tinh thần xóa bỏ định kiến, Nghị quyết là lời khẳng định mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước về vai trò then chốt, động lực quan trọng hàng đầu của khu vực KTTN trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Có thể khẳng định, Nghị quyết số 68-NQ/TW ra đời đã khẳng định KTTN là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, điều này không chỉ mang tính định hướng mà còn có ý nghĩa về mặt thể chế, khắc phục định kiến lịch sử lâu dài về KTTN trong những năm qua. Nghị quyết số 68-NQ/TW đã đưa nhiều giải pháp cụ thể giúp KTTN phát triển vươn mình để hòa nhập, đồng thời thể hiện đúng bản chất, quy luật của nền kinh tế thị trường. Đây là một thay đổi có tính đột phá về tư duy, từ chỗ coi KTTN là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế, thì đến nay trở thành một “động lực quan trọng nhất” của kinh tế quốc gia, là đầu tàu chiến lược thúc đẩy kinh tế, có vị trí, vai trò bình đẳng và ngang hàng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập sâu rộng vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Ngay sau khi Đảng ta ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW, các thế lực thù địch đã ra sức rêu rao, xuyên tạc rằng: Việc Đảng ta ban hành Nghị quyết khẳng định KTTN là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế là “thừa nhận sự bóc lột, thừa nhận mối quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN)”. Phát triển KTTN là sự thất bại của kinh tế thị trường định hướng XHCN, là dấu hiệu Việt Nam đang “chuyển đổi sang nền kinh tế tư bản dưới vỏ bọc xã hội chủ nghĩa”. Chúng cho rằng như vậy là “mâu thuẫn với quan điểm của Đảng trong các thời kỳ trước”, việc ban hành Nghị quyết 68-NQ/TW là nhằm can thiệp vào kinh tế trái quy luật, làm cản trở phát triển kinh tế hoặc bóp méo thị trường nhằm trục lợi. Qua đó, các thế lực thù địch tìm cách phủ nhận thành quả của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, gây tâm lý hoài nghi, dao động, phá hoại niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, từ đó, hòng kêu gọi thay đổi thể chế chính trị ở nước ta.

2. Sinh thời, C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng chỉ ra rằng chế độ sở hữu tư nhân là nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng xã hội và sự tha hóa con người, sở hữu tư nhân dẫn đến “sự cạnh tranh, khủng hoảng kinh tế và cuối cùng là tập trung tư bản, làm gia tăng bất công xã hội”. Tuy nhiên, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng khẳng định, trong một số giai đoạn lịch sử, KTTN có thể thúc đẩy sản xuất và phát triển lực lượng lao động, tạo tiền đề cho sự phát triển và tiến bộ xã hội. V.I.Lênin cũng khẳng định, KTTN là một tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Người nhấn mạnh: Chính sách ngăn cấm hoàn toàn trao đổi tư nhân là một sự dại dột và tự sát. Chính sách kinh tế mới - NEP (1921) đã cho phép các doanh nghiệp nhỏ và thương mại tự do hoạt động để phục hồi nền kinh tế Nga sau chiến tranh. Đây được xem là bước đi chiến lược nhằm khai thác tiềm năng của KTTN để phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời định hướng khu vực này theo con đường XHCN.

Hiện nay, khu vực này đóng góp khoảng 51% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước và tạo ra hơn 40 triệu việc làm, cho thấy vai trò không thể thay thế của KTTN.
Kế thừa quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về KTTN, trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước ta, Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định vị trí, tầm quan trọng của KTTN đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Văn kiện Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã khẳng định: “Cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế,... Xóa bỏ những thành kiến thiên lệch,...”, “sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế XHCN”. Văn kiện các kỳ Đại hội sau này của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của KTTN đối với nền kinh tế ở nước ta, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “KTTN được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn KTTN mạnh, có sức cạnh tranh cao. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động[1]”; Điều 51, Hiến pháp năm 2013 cũng nhấn mạnh: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,… Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”. Đặc biệt, trong bài viết “Phát triển KTTN - đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng” mới đây, Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định, KTTN không chỉ là một thành phần của nền kinh tế mà còn là động lực hàng đầu thúc đẩy tăng trưởng và đổi mới sáng tạo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và ứng dụng công nghệ cao; yêu cầu xóa bỏ mọi rào cản, định kiến đối với kinh tế tư nhân; xây dựng các chính sách hỗ trợ toàn diện như cải thiện môi trường pháp lý, phát triển hạ tầng hiện đại và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Hiện nay, khu vực này đóng góp khoảng 51% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước và tạo ra hơn 40 triệu việc làm, cho thấy vai trò không thể thay thế của KTTN. Tổng Bí thư nhấn mạnh: Trong những năm tới, KTTN phải là lực lượng tiên phong thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh quốc gia, có trách nhiệm xã hội, góp phần nâng cao đời sống Nhân dân, tham gia xây dựng xã hội văn minh, hiện đại, góp phần xây dựng một Việt Nam năng động và hội nhập quốc tế. Đây là minh chứng rõ ràng cho sự nhất quán trong đường lối của Đảng nhằm phát triển KTTN trở thành “một động lực quan trọng” thúc đẩy tăng trưởng bền vững và nâng cao đời sống Nhân dân; việc phát triển KTTN là sự vận dụng sáng tạo để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, điều này không chỉ phù hợp với lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển, mà còn nhất quán với đường lối đổi mới của Đảng, với con đường đi lên CNXH mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân đã lựa chọn; điều này hoàn toàn không hề mâu thuẫn với quan điểm của Đảng trong các thời kỳ trước như các thế lực thù địch rêu rao, xuyên tạc.

Dưới sự lãnh đạo, quản lý, điều hành đúng đắn của Đảng, Nhà nước, sau gần 40 năm thực hiện đường lối Đổi mới, từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, kém hiệu quả, với thu nhập bình quân đầu người khoảng 96 USD vào năm 1989, Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ, dự kiến năm 2025 vào nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình cao, tương đương mức trên 5.000 USD/người/năm, đạt được tốc độ tăng trưởng GDP trung bình 6,37%/năm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn cao gấp đôi mức trung bình của các quốc gia đang phát triển, bất chấp những biến động kinh tế toàn cầu. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 24 thế giới tính theo sức mua tương đương (PPP), là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất khu vực Đông Nam Á, đồng thời từng bước khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Sự phát triển này có đóng góp rất to lớn của khu vực KTTN, với hơn 940.000 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động, 5 triệu hộ kinh doanh cá thể và hàng chục triệu lao động, khu vực này đã đóng góp khoảng 50% GDP, 30% thu ngân sách và hơn 80% việc làm cho toàn xã hội. Không chỉ đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, mà KTTN đóng góp rất to lớn vào xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, cải thiện mức sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Dựa trên lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam, chúng ta có quyền khẳng định rằng, chủ trương phát triển KTTN không phải là từ bỏ mục tiêu CNXH mà ngược lại là sử dụng chính KTTN để tạo động lực phát triển, rút ngắn chặng đường ở thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ, trong thời kỳ quá độ cần thiết phải sử dụng các thành phần kinh tế phi XHCN cho mục đích xây dựng CNXH. Thực tiễn quá trình xây dựng CNXH ở nước Nga Xô viết đã chứng minh rằng, trong thời kỳ quá độ, chính quyền Xô Viết đã sử dụng cả thành phần kinh tế phi XHCN như tư bản nhà nước, tư bản tư nhân cho mục tiêu phát triển lực lượng sản xuất, coi đó là biện pháp tối ưu để giải phóng sức sản xuất, tăng năng suất lao động. Ở nước ta, Đảng, Nhà nước ta thừa nhận KTTN, coi đây là động lực phát triển song không đồng nghĩa với xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất TBCN. Để KTTN phát triển lành mạnh, là động lực của nền kinh tế, nó phải được quản lý, vận hành theo định hướng XHCN, nghĩa là được tự do cạnh tranh bình đẳng trong khuôn khổ cơ chế kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều tiết của Nhà nước chứ không phải là dấu hiệu Việt Nam đang “chuyển đổi sang nền kinh tế tư bản dưới vỏ bọc XHCN” như nhiều luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc. Thừa nhận KTTN không có nghĩa là chúng ta thừa nhận bóc lột và tạo điều kiện cho quan hệ bóc lột được hiện diện trong các quan hệ kinh tế ở nước ta. Trong nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; KTTN là một động lực quan trọng; thành phần kinh tế nhà nước nắm giữ nguồn lực vật chất quan trọng, then chốt là công cụ, lực lượng vật chất để nhà nước ổn định vĩ mô, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường, trong đó có xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công chứ không phải là “thừa nhận sự bóc lột, thừa nhận mối quan hệ sản xuất TBCN” như nhiều người rêu rao, xuyên tạc.

Nghị quyết số 68-NQ/TW đưa ra các giải pháp cụ thể để bảo đảm doanh nghiệp tư nhân tiếp cận công bằng các nguồn lực phát triển
3. Mặc dù có sự đóng góp to lớn vào sự phát triển chung của đất nước, tuy nhiên, trong những năm trước đây, KTTN vẫn bị đặt trong tư thế “thứ yếu”, thiếu sự bình đẳng thực sự về cơ hội tiếp cận nguồn lực, thông tin, đất đai, tín dụng; phải đối mặt với nhiều rào cản kìm hãm sự phát triển, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của nền kinh tế đất nước. Vẫn còn tình trạng chưa nhất quán giữa chủ trương, chính sách đã ảnh hưởng nhiều đến tâm lý và niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp. Đa số doanh nghiệp tư nhân vẫn ở quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa với tiềm lực tài chính và trình độ quản trị còn hạn chế. Năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo thấp, dẫn đến năng suất lao động, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh chưa cao. Bên cạnh đó, tư duy kinh doanh còn thiếu tầm nhìn chiến lược, sự kết nối với doanh nghiệp nhà nước cũng như doanh nghiệp FDI còn lỏng lẻo. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, nhưng chủ yếu là do tư duy, nhận thức về vị trí, vai trò của KTTN trong nền kinh tế còn chưa đầy đủ, chưa theo kịp yêu cầu phát triển; thể chế, pháp luật còn vướng mắc, bất cập; quyền tài sản và quyền tự do kinh doanh chưa được bảo đảm đầy đủ. KTTN còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong tiếp cận nguồn lực, đặc biệt là vốn, công nghệ, đất đai, tài nguyên và nhân lực chất lượng cao. Một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả và khó tiếp cận; chi phí kinh doanh còn cao.

Có thể khẳng định rằng, việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 68-NQ/TW được xem là một bước ngoặt trong tư duy phát triển, khi không chỉ khẳng định vị thế và vai trò then chốt của KTTN mà còn cam kết cải thiện môi trường thể chế, gỡ bỏ rào cản, tạo điều kiện để khu vực này bứt phá trong giai đoạn mới; góp phần quan trọng trong định hình tương lai của nền kinh tế Việt Nam, góp phần quan trọng hiện thực hóa mục tiêu mà Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra là: Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Những năm tới, nhân loại tiếp tục chứng kiến những chuyển biến sâu sắc trên phạm vi toàn cầu về địa chính trị, địa kinh tế, cạnh tranh chiến lược… cùng với những thách thức về biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, an ninh truyền thống và phi truyền thống. Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự quản lý, điều hành của Chính phủ, Nghị quyết số 68-NQ/TW cùng với 03 nghị quyết khác của Bộ Chính trị trở thành “Bộ tứ trụ cột”[2] giúp đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển, thịnh vượng, hùng cường của dân tộc; kiến tạo một Việt Nam thịnh vượng, năng động và ngày một vươn xa trên trường quốc tế./.

Nguyễn Thanh Bình

-------------------

Chú thích:

[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 130.

[2] Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới”; Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
baocaovien.vn

Address

Thành Phố Trà Vinh
Tỉnh Trà Vinh
87000

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Trà Vinh 24/7 posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share