15/10/2025
Phản bác luận điệu xuyên tạc về phát huy nguồn lực tôn giáo ở Việt Nam
Đảng, Nhà nước Việt Nam đã xác định tôn giáo, tín ngưỡng là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, có giá trị đạo đức, văn hóa, tôn giáo còn tồn tại lâu dài. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã có sự phát triển nhận thức, trong đó nhấn mạnh: Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước. Tuy nhiên, một số thế lực phản động đã cố tình xuyên tạc, cho rằng Đảng ta lấy “thuốc phiện” (tôn giáo) làm động lực cho sự phát triển đất nước.
1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát huy nguồn lực tôn giáo
Với một đất nước có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo và nhiều người theo tín ngưỡng, tôn giáo, nên trong quá trình vận động cách mạng cũng như khi quản lý đất nước và điều hành xã hội, Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến tôn giáo, có chính sách đối với tôn giáo phù hợp trong từng giai đoạn cách mạng.
Năm 1986, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới được đánh dấu bằng Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, với chủ trương đổi mới toàn diện về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (nhiệm kỳ 1986 - 1991) nêu rõ định hướng là“nhìn lại và đổi mới”, đánh giá những việc làm được để phát huy, việc chưa làm được bổ sung, việc làm sai để điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp.
Riêng lĩnh vực tôn giáo, sau thời gian đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm, ngày 16/10/1990, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới. Nghị quyết số 24 với luận điểm: tôn giáo còn tồn tại lâu dài; đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp… là bước đột phá nhận thức về nguồn lực tôn giáo và đổi mới chủ trương chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Quá trình phát triển nhận thức về nguồn lực của tôn giáo bắt đầu xem xét một cách cơ bản về những yếu tố liên quan đến hướng tiếp cận tôn giáo, sự tồn tại của tôn giáo và vai trò, ảnh hưởng của tôn giáo.
Mở rộng hướng tiếp cận về tôn giáo. Trước đây, tôn giáo được tiếp cận chủ yếu từ hai góc độ tư tưởng và chính trị với nhiều định nghĩa nhưng đọng lại ở hai câu mang tính kinh điển: “Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội” và “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Với cách nhìn mới về tôn giáo, hai hướng tiếp cận nói trên đều đúng nhưng chưa đủ, cần phải bổ sung. Tôn giáo, với cách nhìn mới, không chỉ là tư tưởng, không chỉ liên quan chính trị mà còn là lịch, là nhận thức, văn hóa, đạo đức. Tôn giáo còn là nguồn lực vật chất và tinh thần, còn là chỗ dựa về đời sống tâm linh của con người. Tóm lại, tôn giáo không chỉ là hình thái ý thức xã hội, mà còn là thực thể xã hội tồn tại lâu dài gắn với con người.
Với cách nhìn mới - cách nhìn đa diện, nhiều chiều, Đảng Cộng sản Việt Nam vượt ra khỏi cách nhìn tôn giáo bó hẹp trong khuôn khổ của tư tưởng và chính trị, mở rộng đến các khía cạnh khác như văn hóa, đạo đức, nguồn lực... đúng như tôn giáo tồn tại và phản ánh. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định, tôn giáo còn tồn tại rất lâu dài, không thể đơn giản cho rằng tôn giáo sẽ mất đi một sớm một chiều khi con người đã khám phá, chinh phục được thiên nhiên, khi đời sống vật chất ngày một tăng, tức là giải quyết được nguồn gốc tự nhiên và xã hội của tôn giáo. Không thể đơn giản, duy ý chí cho rằng, bằng ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt, bằng những kế hoạch năm năm, chủ nghĩa xã hội đã đến, tôn giáo sẽ dần mất đi. Trái lại, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc và trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trước đây, khi tiếp cận vấn đề tôn giáo, hầu như không nói đến mặt tích cực của tôn giáo mà chủ yếu nhấn mạnh những yếu tố tiêu cực. Quan điểm đổi mới đã nhìn nhận cả hai mặt tích cực và tiêu cực của tôn giáo. Bên cạnh mặt tiêu cực như yếm thế, ru ngủ con người trong điều kiện trình độ dân trí thấp, dễ bị các thế lực xấu và chủ nghĩa cơ hội lợi dụng trong những tình thế lịch sử nhất định, tôn giáo còn có mặt tích cực được ghi nhận và trân trọng, trong đó có giá trị đạo đức - gắn liền với chủ nghĩa nhân văn. Giáo lý, giáo luật của các tôn giáo đã tạo ra những quy phạm đạo đức hướng thiện, góp phần điều chỉnh hành vi xã hội của con người. Thực tế ở Việt Nam, những nơi có đông tín đồ tôn giáo thì tệ nạn xã hội ít hơn, trật tự ổn định hơn, lối sống nề nếp và đạo đức hơn.
Nghị quyết 25 (2003) xác định tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân: Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc: Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và Nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia; Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng: Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác vận động quần chúng tôn giáo phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc; thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân, trong đó có đồng bào tôn giáo. Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện toàn. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách, giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật.
Tóm lại, bước vào thời kỳ đổi mới, quan điểm của Đảng về tôn giáo và công tác tôn giáo đã chuyển từ nhận thức tôn giáo là chính trị, là tiêu cực, là bị địch lợi dụng, sang tôn giáo là nhu cầu của nhân dân, là những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của tôn giáo cần được khuyến khích phát huy.
Từ thay đổi nhận thức, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo phát huy nguồn lực tôn giáo thông qua tuyên truyền, thuyết phục, vận động tổ chức, tín đồ tôn giáo tham gia vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết của các tổ chức, cá nhân tôn giáo phát huy nguồn lực tôn giáo đóng góp vào sự phát triển trên 2 bình diện: nguồn lực tinh thần và nguồn lực vật chất.
Về nguồn lực tinh thần. Xuất phát từ luận điểm: "dân là gốc", "khoan thư sức dân", "chăm lo người nghèo khó", "lượng hình, xá tội” của Nho giáo, Phật giáo được Đảng ta vận dụng vào trong đường lối, chính sách; có lối sống thiện lương, tu tâm, khuyên con người làm lành, lánh dữ, tích đức hành thiện; lối sống vì tha nhân của tôn giáo.
Tôn giáo có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của kinh tế. Sự ảnh hưởng là thúc đẩy hay kìm hãm kinh tế còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó tự do tôn giáo được tổ chức Pew Porum (Hoa Kỳ) chỉ ra là yếu tố có tính quyết định đến ảnh hưởng của tôn giáo lên kinh tế. Giáo lý tôn giáo khuyến thiện và cổ vũ lối sống trung thực, lìa xa sự lợi dụng vì mục đích cá nhân, ích kỷ. Do đó tự do tôn giáo tạo điều kiện thuận lợi để những người kinh doanh có thể đưa những giá trị tôn giáo và giáo lý đạo đức vào trong ứng xử và hoạt động kinh doanh của họ, làm cho họ trở thành những đối tác tin cậy và trách nhiệm hơn, các sản phẩm làm ra có chất lượng hơn.
Hầu hết các hoạt động tôn giáo ở các mức độ khác nhau đều mang ý nghĩa kinh tế. Các hoạt động tôn giáo, từ việc đi lại để tham gia các sinh hoạt liên quan tôn giáo, hoạt động truyền thông tôn giáo và tổ chức các sự kiện tôn giáo, đến việc xây dựng các cơ sở tôn giáo,... đều phát sinh giao dịch mang tính cung - cầu. Chính vì vậy, hoạt động tôn giáo được tự do sẽ làm gia tăng các giao dịch kinh tế, kích cầu, tạo thêm việc làm,... do đó trực tiếp thúc đẩy phát triển kinh tế ở địa phương hay quốc gia.
Tự do tôn giáo góp phần tích cực vào việc kiến tạo hòa bình bằng cách giảm căng thẳng, xung đột bạo lực liên quan đến tôn giáo và điều đó là quan trọng đối với doanh nghiệp. Nơi có sự ổn định sẽ có nhiều cơ hội để đầu tư và tiến hành các hoạt động kinh doanh bình thường và có thể dự báo được.
Về nguồn lực vật chất. Các tôn giáo lớn ở Việt Nam đều gắn đạo với đời, với tư tưởng nhập thế, được thể hiện qua những việc làm cụ thể mà các tôn giáo có thế mạnh như hoạt động từ thiện, văn hóa - xã hội, tham gia vào dịch vụ công để chia sẻ gánh nặng cho xã hội. Trong phát triển bền vững, tôn giáo đặc biệt có vai trò bảo vệ môi trường, đề cao việc sống hòa đồng, gần gũi với thiên nhiên,...
Tôn giáo ở Việt Nam những năm qua có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng. Nếu số lượng tín đồ tôn giáo năm 2020 so với năm 2003 tăng 35% thì cùng thời gian này, số lượng chức sắc, chức việc tôn giáo tăng gần 70%, số lượng cơ sở thờ tự của tôn giáo tăng 33%. Trong số 25,3 triệu người theo tôn giáo có gần 200 ngàn chức sắc, chức việc (khoảng 125 tín đồ/1 chức sắc, chức việc). Đây là lực lượng lãnh đạo, dẫn dắt tín đồ cả việc đạo và việc đời. Chức sắc, chức việc các tôn giáo nhìn chung có học vấn, được đào tạo bài bản, trong đó một bộ phận chức sắc, chức việc còn được đào tạo để am hiểu nhiều lĩnh vực từ tâm lý đến văn hóa, từ kinh tế đến chính trị và kỹ năng giao tiếp, thuyết phục7.
Tính đến năm 2024, theo thống kê của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tôn giáo đã tham gia xã hội hóa giáo dục, y tế, hoạt động bảo trợ xã hội, dạy nghề những con số khá ấn tượng như sau:
Trên lĩnh vực giáo dục, cả nước đã có 39 tỉnh, thành phố có cơ sở giáo dục mầm non tư thục do cá nhân tôn giáo thành lập (26 tỉnh, thành phố có quy mô trường) với 269 trường mầm non, 905 nhóm, lớp mầm non độc lập do các cá nhân tôn giáo thành lập, chiếm 15,6% so với số trường mầm non ngoài công lập trên phạm vi toàn quốc. Các cơ sở giáo dục mầm non tư thục do cá nhân tôn giáo thành lập đã huy động 125.594 trẻ đến trường/lớp, chiếm 3,06% so với tổng số trẻ đến trường mầm non trên toàn quốc và chiếm 18,3% so với trẻ đến trường mầm non ngoài công lập.
Trong lĩnh vực y tế, các tổ chức, cá nhân tôn giáo đã mở 185 cơ sở khám chữa bệnh trong đó có 143 cơ sở khám bệnh đông y hoặc đông tây y kết hợp, 42 cơ sở tây y (33 tủ thuốc, 09 nhà thuốc) và 01 trạm xá. Trong 3 năm từ 2021 đến 2024, tổng số lượng người được khám, chữa bệnh, chăm sóc khức khỏe tại các cơ sở khám, chữa bệnh nhân đạo của các tôn giáo là gần 1,5 triệu lượt. Đặc biệt, các tổ chức tôn giáo đã phối hợp khám chữa bệnh lưu động, phát thuốc miễn phí cho hơn 177 triệu lượt người; bốc, phát thuốc miễn phí hoặc bán giá rẻ gần 306 triệu thang thuốc cho bệnh nhân nghèo.
Trong lĩnh vực dạy nghề. Giáo hội Công giáo Việt Nam có một số cơ sở (trường, trung tâm) dạy nghề như: Toà Giám mục Giáo phận Xuân Lộc (Đồng Nai) có Trường Trung cấp nghề Hòa Bình (đào tạo 10 ngành nghề bậc trung cấp theo chương trình khung của Tổng cục Dạy nghề, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội); Dòng Don Bosco (Lâm Đồng) có Trường Trung cấp nghề Tân Tiến; Trung tâm dạy nghề tư thục Lasan Đà Lạt (trực thuộc Tỉnh Dòng Lasan Việt Nam); Trung tâm dạy nghề tư thục Vinh Sơn Đà Lạt (trực thuộc Dòng Vinh Sơn Việt Nam).
Trong lĩnh vực bảo trợ xã hội. Đến năm 2020 cả nước có 402 cơ sở bảo trợ xã hội, trong đó có 233 cơ sở ngoài công lập (đa số của các tổ chức, cá nhân các tôn giáo). Các địa phương có nhiều cơ sở bảo trợ xã hội của các tôn giáo: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Thừa Thiên-Huế, Khánh Hòa, Hà Nội, Vĩnh Long,..
2. Nhận diện và phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch
- Luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch:
Trong giai đoạn đổi mới đất nước hiện nay, Việt Nam đã nhìn nhận và đổi mới một cách căn bản về tôn giáo và công tác tôn giáo, từ nhận thức đến chủ trương, chính sách, từ nội dung công tác đến tổ chức thực hiện. Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta đã nhận định khái quát về tình hình hoạt động tôn giáo ở Việt Nam: “Tình hình tôn giáo ổn định; đa số chức sắc, chức việc và đồng bào có đạo yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, gắn bó đồng hành cùng dân tộc, góp phần đấu tranh, phản bác luận điệu xuyên tạc, vu cáo chính quyền vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo”. Hoạt động của đa số chức sắc, chức việc, tín đồ tuân thủ quy định của pháp luật, đúng theo đường hướng hành đạo của tôn giáo: “chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Văn kiện Đại hội Đảng XIII đã đề xuất những phương hướng, giải pháp làm lành mạnh hóa sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng ở nước ta: Tiếp tục nhấn mạnh công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. “vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đảm bảo cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định pháp luật và hiến chương, điều lệ được nhà nước công nhận.
Tuy nhiên, trên một số trang mạng xã hội, một số tổ chức phản động như Việt Tân, Đài châu Á Tự do, đặc biệt là trang BBC tiếng Việt đăng bài viết, đưa ra luận điệu rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam coi “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, rồi lại lấy tôn giáo là “nguồn lực của sự phát triển” tức là lấy thuốc phiện (tôn giáo) là nguồn lực của phát triển. Từ đó họ quy chụp rằng Đảng Cộng sản Việt Nam dùng thuốc phiện tôn giáo để mê muội nhân dân phục vụ cho mục đích “toàn trị” của Đảng,…
Vậy thực chất quan điểm coi tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân của Chủ nghĩa Mác là như thế nào và chúng ta lấy tôn giáo là nguồn lực của sự phát triển dựa trên cơ sở nào, phải được làm rõ để phản bác những luận điểm sai trái trên và đưa ra cách hiểu đúng về quan điểm tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân của chủ nghĩa Mác.
- Phản bác các luận điệu của các thế lực thù địch
C.Mác nói đến tôn giáo trong tác phẩm Lời nói đầu Phê phán Triết học pháp quyền của Hêghen: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Thật ra không phải C.Mác là người đầu tiên dùng hình ảnh thuốc phiện để nói về tôn giáo, mà trước đó Bauer? đã dùng thuốc phiện để nói về tôn giáo. Nhưng phải đến C.Mác hình ảnh tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân mới được diễn tả trong một đoạn văn rất sâu sắc như trên. Và cũng không phải đến nay những quan điểm sai trái, thù địch mới chống phá quan điểm về tôn giáo của chủ nghĩa Mác. Từ giữa thế kỷ XIX một số đại biểu của chủ nghĩa duy tâm, nhà thờ Công giáo đã quy chụp cho chủ nghĩa Mác chỉ nhìn tôn giáo là một chất gây nghiện làm mê muội quần chúng. Chỉ nhìn tôn giáo ở chức năng “đao phủ” tức là tôn giáo sẵn sàng dùng sức mạnh thần quyền tác động vào thế quyền để duy trì sự áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị. Và tất yếu dẫn đến quan điểm phải tiêu diệt tôn giáo, làm cho tôn giáo mất đi trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sự thật là có giai đoạn cụ thể nhiều người cộng sản đã nhìn tôn giáo thiên về mặt tiêu cực, tôn giáo là mê tín, thực hiện chính sách tả khuynh và nhiệm vụ của những người cộng sản là thu hẹp, hạn chế, khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo. Làm cho tôn giáo dần dần mất đi trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Để đến chủ nghĩa cộng sản thì tôn giáo hoàn toàn tiêu vong.
Tóm lại, Cách nói của Mác: tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân vừa là sự phản ánh, vừa là sự phản kháng xã hội. Cho thấy cội nguồn của tôn giáo là từ nhân dân để chống đỡ với nỗi khốn cùng thực tại. Hơn nữa,đầu của thế kỉ XIX, từ thuốc phiện vẫn chưa có nghĩa là ma túy như ngày nay mà nó là một thứ thuốc thông thường, một chất giảm đau, các thầy thuốc vẫn kê đơn.
*
* *
Như vậy, phát huy nguồn lực của các tôn giáo đã trở thành chủ trương, chính sách nhất quán trong quá trình đổi mới, trong việc khuyến khích cộng đồng các tôn giáo phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước đã thực hiện nhất quán quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về những tác động tích cực của tôn giáo đối với đời sống xã hội.
Với những phân tích khái quát trên về việc huy động, sử dụng nguồn lực tôn giáo đã bác bỏ những luận điệu sai trái: coi tôn giáo là thuốc phiện đối với nhân dân. Bác bỏ luận điểm “thuốc phiện” tôn giáo làm động lực của sự phát triển của một số thế lực thù địch./.
TS. Đào Đình Tưởng
Học viện Chính trị khu vực I
--------------------------------
Tài liệu tham khảo:
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc Sự thật Hà Nội, tập 2, tr 45, 171, 171, 171.
[2] Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân là quan điểm của C. Mác viết trong tác phẩm: Phê phán Triết học pháp quyền của Heghen - Lời nói đầu.
[3] Mác-Ănghen, toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật 1995, tr 570
[4] Lê Thị Liên, Phát huy nguồn lực tôn giáo trong phát triển đất nước http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/phat-huy-nguon-luc-ton-giao-trong-phat-trien-dat-nuoc.html
baocaovien.vn
Sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra sôi động ở khắp các vùng, miền, các cộng đồng dân cư, các tầng lớp xã hội, nhất là vào dịp đầu năm, lễ hội truyền thống (Trong ảnh: Nhân dân tham dự lễ hội hoa đăng) _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn