Tiếp Bước

Tiếp Bước Tìm hiểu và chia sẻ!

25/12/2023
🇻🇳Ban chỉ huy quân sự huyện Cẩm Thuỷ bàn giao nhà đại đoàn kết🇻🇳             Hòa chung trong không khí vui tươi phấn khở...
15/12/2023

🇻🇳Ban chỉ huy quân sự huyện Cẩm Thuỷ bàn giao nhà đại đoàn kết🇻🇳

Hòa chung trong không khí vui tươi phấn khởi của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang nhiệt liệt chào mừng kỉ niệm 79 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944 – 22/12/2023) và 34 năm Ngày Hội quốc phòng toàn dân (22/12/1989 – 22/12/2023). Hôm nay, 15/12/2023, thừa ủy quyền của Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu 4, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thanh Hóa; Ban CHQS huyện Cẩm Thuỷ cùng cấp ủy, chính quyền huyện và các xã Cẩm Quý, Cẩm Phú và thị trấn Phong Sơn, đã tổ chức lễ khánh thành và bàn giao 03 ngôi nhà đại đoàn kết tặng các gia đình chính sách tại địa phương.

Dịp này Ban CHQS huyện đã thực hiện nghiêm kế hoạch của Bộ CHQS tỉnh Thanh Hóa, tổ chức khánh thành, bàn giao nhà đại đoàn kết cho các gia đình: 1. Bà Quách Thị Hợi (là thân nhân thờ cúng liệt sĩ) thuộc diện hộ đặc biệt khó khăn ở thôn Quý Thanh, xã Cẩm Quý; 2. Bà Bùi Thị Thân thuộc diện hộ đặc biệt khó khăn, thôn Thái Long, xã Cẩm Phú và gia đình Bà Phan Thị Xuyến (là thân nhân thờ cúng 02 liệt sĩ trong kháng chiến chống pháp) thuộc diện hộ gia đình đặc biệt khó khăn ở TDP Cửa Hà, TT Phong. Được sự quan tâm của Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu 4; Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thanh Hóa đã chỉ đạo Ban Chỉ huy Quân sự huyện Cẩm Thuỷ và cấp ủy, chính quyền địa phương khảo sát, thi công xây dựng nhà tặng các gia đình. Sau một thời gian thi công, mỗi căn nhà có diện tích từ 61 đến 85 m2, gồm phòng ngủ, phòng khách và các công trình phụ trợ, tiện dụng trong sinh hoạt cho các gia đình đã hoàn thành; tổng giá trị công trình từ 171 đến 350 triệu đồng, trong đó Bộ Quốc phòng hổ trợ 80 triệu đồng/gia đình, số tiền còn lại do gia đình, con cháu hỗ trợ, cùng với hàng trăm ngày công lao động của cán bộ, chiến sĩ LLVT huyện và các tổ chức đoàn thể và nhân dân địa phương. Căn nhà hoàn thành và bàn giao cho các gia đình sử dụng là việc làm ý nghĩa mang tính nhân văn sâu sắc, thể hiện tình cảm tốt đẹp và phẩm chất, truyền thống “Bộ đội cụ Hồ”, đồng thời giúp các gia đình từng bước ổn định cuộc sống, an tâm trước tác động của thiên tai, đồng thời giúp các gia đình ổn định cuộc sống, tập trung phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo, góp phần thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, đô thị băn minh tại địa phương./.

THỰC TẾ BÁC BỎ HOÀN TOÀN NHỮNG LUẬN ĐIỆU SAI TRÁIVỀ TỰ DO NGÔN LUẬN, TỰ DO BÁO CHÍ Ở VIỆT NAMGần đây, trên một số đài bá...
11/12/2023

THỰC TẾ BÁC BỎ HOÀN TOÀN NHỮNG LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI
VỀ TỰ DO NGÔN LUẬN, TỰ DO BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM

Gần đây, trên một số đài báo thiếu thiện chí và các trang mạng có địa chỉ ở nước ngoài, các thế thực thù địch, phản động vẫn rêu rao rằng các cơ quan chức năng của Việt Nam “vi phạm quyền tự do ngôn luận”; hạn chế nghiêm trọng tự do báo chí, tự do Internet, bao gồm bắt và truy tố tùy tiện những người chỉ trích chính quyền, kiểm duyệt, đóng các trang mạng, “giới hạn” quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt của người dân “có tiếng nói đối lập, ôn hòa...”. Cần phải khẳng định ngay rằng đó là một sự xuyên tạc, vu khống trắng trợn.

Chúng ta chẳng lạ gì dân chủ, nhân quyền là vấn đề mà các thế lực thù địch, phản động và một số trang mạng, đài báo thiếu thiện chí thường xuyên lợi dụng để chống phá Việt Nam. Nhưng dù bằng luận điệu, chiêu trò gì đi chăng nữa, họ cũng không thể phủ nhận được thực tế, không thể xuyên tạc được sự thật.

Đối với Đảng, Nhà nước Việt Nam, tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin, tự do biểu đạt là quan điểm xuyên suốt, nhất quán. Không chỉ là quyền cần phải bảo đảm mà Việt Nam còn xác định đó là một động lực cho sự phát triển của xã hội. Việt Nam tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin, tự do biểu đạt của người dân. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Cùng với đó quyền tự do ngôn luận trên báo chí được Luật Báo chí năm 2016 quy định, công dân có quyền: Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác... Luật Báo chí năm 2016 và Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 cũng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí; bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền… Không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động... Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, phát sóng”… Có thể khẳng định rằng, hệ thống pháp luật Việt Nam về báo chí, phát thanh, truyền hình ngày càng được hoàn thiện theo hướng bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin, tự do biểu đạt của nhân dân.
Thực tế cho thấy báo chí ở Việt Nam đã trở thành diễn đàn ngôn luận của các tổ chức xã hội, nhân dân, là công cụ quan trọng bảo vệ lợi ích của xã hội, các quyền tự do của nhân dân; là lực lượng quan trọng trong công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách và pháp luật của Nhà nước. Báo chí đã đóng vai trò quan trọng trong phát hiện, đưa tin nhiều vụ việc vi phạm pháp luật, góp phần vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội, xây dựng bộ máy công quyền trong sạch, vững mạnh. Mọi người dân đều có quyền đề đạt nguyện vọng, phát biểu và đóng góp ý kiến trên tất cả các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Chủng loại thông tin trên báo chí, đài phát thanh và truyền hình ở Việt Nam ngày càng phong phú và cập nhật hơn do nguồn cung cấp thông tin nhiều và đa dạng hơn. Hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng cởi mở, sôi động. Các phiên họp của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, nhất là các buổi chất vấn được truyền hình trực tiếp trên truyền hình. Nhiều chương trình đối thoại, tranh luận, trả lời, thăm dò ý kiến… với nội dung phong phú, đa dạng về mọi vấn đề đã được đăng tải, truyền thanh và truyền hình rộng rãi.
Sự phát triển nhanh chóng, đa dạng về loại hình và phong phú về nội dung và các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam là một minh chứng về tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin ở Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam có 808 cơ quan báo chí (bao gồm 138 báo và 670 tạp chí); 72 đài phát thanh, truyền hình; 666 cơ sở truyền thanh - truyền hình cấp huyện; 9.812 đài truyền thanh cấp xã…

Người dân Việt Nam ngày càng được tiếp cận tốt hơn với công nghệ thông tin hiện đại, đặc biệt là Internet. Chính phủ Việt Nam chủ trương khuyến khích và tạo mọi điều kiện để người dân tiếp cận, khai thác và sử dụng rộng rãi thông tin trên mạng Internet… Đến đầu năm 2023, Việt Nam có 77,93 triệu người dùng Internet, chiếm 79,1% tổng dân số. Ngoài ra, số lượng người dùng mạng xã hội để bày tỏ chính kiến, tổ chức các diễn đàn thảo luận, phản biện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gửi các góp ý, kiến nghị đến các cơ quan chức năng… cũng đạt con số hơn 70 triệu, tương đương với 71% tổng dân số… Sự phát triển nhanh của các phương tiện thông tin đại chúng, Internet, mạng xã hội cho thấy, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin ở Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ.

Thế nhưng bất chấp những thành quả ấy, các tổ chức, cá nhân thù địch và một số trang mạng, đài báo thiếu thiện chí vẫn cố tình xuyên tạc, vu khống Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Đáng lưu ý họ ngộ nhận rằng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet, tự do biểu đạt là quyền tuyệt đối. Họ cố tình lờ đi trách nhiệm, nghĩa vụ công dân trong quá trình thực thi quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet, tự do biểu đạt.

Cũng như mọi quốc gia trên thế giới, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet, tự do biểu đạt ở Việt Nam không phải là quyền tự do vô hạn định, vô tổ chức mà phải theo khuôn khổ pháp luật. Pháp luật Việt Nam quy định hạn chế quyền tự do ngôn luận, tự do Internet trong một số trường hợp, phù hợp với Công ước về các quyền dân sự và chính trị, nhằm tôn trọng các quyền hợp pháp và chính đáng, uy tín, danh dự của người khác; nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn công cộng, sức khỏe cộng đồng và đạo đức của xã hội. Những trường hợp “có tiếng nói đối lập, ôn hòa…” mà các thế lực thù địch, phản động ra sức tung hô thực chất họ đã lợi dụng, lạm dụng quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt để tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước; phát tán những luận điệu, tài liệu phản động gây hoài nghi, hoang mang trong dư luận, kích động gây rối, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân... nhằm phá hoại công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam. Họ bị các cơ quan chức năng của Việt Nam bắt giữ, điều tra và truy tố là do đã vi phạm pháp luật.

Thực tế sự phát triển toàn diện kinh tế - văn hóa - xã hội của Việt Nam thời gian qua đã cho thấy những cáo buộc rằng các cơ quan chức năng của Việt Nam “vi phạm quyền tự do ngôn luận”, “giới hạn” quyền tự do biểu đạt của người dân mà các thế lực thù địch, phản động rêu rao là hồ đồ, vô căn cứ. Những giọng điệu lạc lõng bóp méo, xuyên tạc sự thật ấy là nhằm mưu đồ xấu. Thế nhưng họ sẽ không thể làm gì được. Hình ảnh một đất nước Việt Nam hòa bình, ổn định, dân chủ, phát triển và là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế đã bác bỏ hoàn toàn những luận điệu sai trái đó./.

QUỐC AN

Nhận diện và đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc về tình hình nhân quyền ở Việt NamBài 1: Gia tăng luận điệu sai trái,...
11/12/2023

Nhận diện và đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc về tình hình nhân quyền ở Việt Nam

Bài 1: Gia tăng luận điệu sai trái, xuyên tạc trong dịp kỷ niệm ngày quốc tế về nhân quyền

Bản “Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền” ra đời cách đây 75 năm là dấu mốc quan trọng khẳng định khát vọng, mục tiêu chung và nhu cầu phổ quát của nhân loại về quyền con người. Ở Việt Nam, những tư tưởng và giá trị của Tuyên ngôn nhân quyền luôn được Đảng và Nhà nước ta coi trọng, thực thi đầy đủ, nghiêm túc, trách nhiệm. Thế nhưng, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại thường xuyên đưa ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc, vu cáo tình hình nhân quyền để chống phá.
Lấy cớ diễn trò lố
Nhân quyền hay quyền của con người là những quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Nhân quyền là danh từ trong sáng, dùng để chỉ một trong những giá trị căn cốt của loài người. Kỷ niệm Ngày Nhân quyền quốc tế (10/12) là dịp để Liên hợp quốc và các quốc gia thành viên tôn vinh những giá trị cao cả cùng những thành tựu đạt được trong thúc đẩy, bảo vệ quyền con người.
Với Việt Nam, những thành tựu ấy được minh chứng cụ thể qua việc không ngừng nâng cao đời sống, bảo vệ các quyền hợp pháp của người dân, đồng thời tích cực đóng góp cho nỗ lực thúc đẩy quyền con người trên toàn thế giới.
Song bất chấp thực tế mà nước ta đạt được trong bảo đảm, thúc đẩy quyền con người, hội nhóm, cá nhân phản động lưu vong ở nước ngoài, những tổ chức mượn danh “nhân quyền”, hãng truyền thông hải ngoại định kiến với Việt Nam lại dùng những chiêu bài xảo trá để đả phá. Trong đó cần nhận diện, đấu tranh qua những vấn đề sau:
Thứ nhất, mượn ngày Nhân quyền quốc tế, một số tổ chức thường ra thông báo, cáo trình bày tỏ quan điểm đánh giá sai sự thật về bảo đảm nhân quyền ở Việt Nam. Trong đó, tổ chức Giám sát nhân quyền (HRW) “kêu gọi Việt Nam cải tổ gấp quyền con người trước kỳ kiểm định phổ quát sắp đến” nhằm xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm các luật lệ quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Mặc dù mang cái tên rất mỹ miều là “Giám sát nhân quyền” nhưng mọi hoạt động của tổ chức này đều thể hiện rõ tâm địa xấu xa, mưu đồ và động cơ chính trị đen tối, thấp hèn. Dù không có mặt ở Việt Nam, không khảo sát thực tiễn, không có những tài liệu chính thống, không hiểu được tình hình nhân quyền ở nước ta nhưng HRW lại luôn tự cho mình quyền phán xét về nhân quyền Việt Nam, kêu gọi Việt Nam “cần khẩn cấp cải tổ quyền con người”. Các thông tin mà HRW có được thực chất từ một vài tổ chức, cá nhân bất mãn, cơ hội chính trị cung cấp. Điều này cho thấy rõ âm mưu, thủ đoạn bôi nhọ hình ảnh đất nước, con người Việt Nam của HRW.
Thứ hai, trao giải thưởng nhân quyền cho các đối tượng có hoạt động chống phá Tổ quốc, xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc. Vào ngày 18/11/2023, tổ chức Mạng lưới nhân quyền Việt Nam (tiếng Anh: Vietnam Human Rights Network – VHRN) có trụ sở tại bang California (Mỹ) công bố cái gọi là “Báo cáo nhân quyền 2022-2023” để xuyên tạc kỳ thị tôn giáo, dân tộc đồng thời cổ vũ cho những đối tượng lợi dụng quyền tự do dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc tiến hành các hoạt động trái pháp luật, phá hoại đất nước. Đều đặn hằng năm, mạng lưới này còn tiến hành xét họp, bình chọn, công bố “Giải thưởng nhân quyền Việt Nam” để “tuyên dương thành tích tranh đấu bất bạo động cho lý tưởng nhân quyền tại Việt Nam”. Đối tượng nào có “thành tích” chống phá đất nước càng nhiều thì tỷ lệ được trao giải thưởng càng cao. Năm nay, các đối tượng Trần Văn Bang, Y Wô Niê, Lê Trọng Hùng – những kẻ đang phải chấp hành án phạt tù về các hoạt động chống phá đất nước được tổ chức này “vinh danh”, tán dương.
Cùng với tổ chức ngoại vi của mình là VHRN, lợi dụng ngày Nhân quyền quốc tế, tổ chức phản động Việt Tân cũng đăng đàn trên mạng xã hội tiến hành trao giải thưởng nhân quyền với tên gọi “Giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng” cho các đối tượng vi phạm pháp luật Việt Nam để ca ngợi, cổ xúy cho các hoạt động chống phá Việt Nam. Năm nay Việt Tân đã tổ chức bình chọn, trao giải và xướng tên đối tượng Trương Văn Dũng.
Điểm chung của trò lố “Giải thưởng nhân quyền” là các đối tượng được các tổ chức này trao giải đều có các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ bảng, nói xấu chính quyền, thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, thể hiện thái độ thù ghét, bất mãn đối với Đảng, Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đằng sau trò lố đó là tìm kiếm nguồn tài chính hỗ trợ, đồng thời để cho các đối tượng trong nước bấu víu, tiếp tục tiến hành các hoạt động phá hoại Tổ quốc, nhân dân.
Thứ ba, không dừng lại ở trao “Giải thưởng nhân quyền”, các thế lực thù địch còn lồng ghép với thủ đoạn đòi thả tự do cho các đối tượng được gọi là “tù nhân lương tâm”. Thực chất, đây là các đối tượng có hành vi phạm tội, đối tượng phải chịu sự điều tra, truy tố, xét xử công khai, bị tuyên án và phải chấp hành án phạt tù khi có hành vi tuyên truyền, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, phỉ báng chính quyền nhân dân, xâm hại đến quyền, lợi ích chính đáng của các tổ chức, cá nhân; thường xuyên kích động nhân dân chống đối chính quyền; soạn thảo, phát tán nhiều tài liệu bôi xấu chế độ. Ngoài ra, họ còn tổ chức khảo sát, lấy ý kiến về tình hình nhân quyền ở Việt Nam trên mạng xã hội; tự cho mình có sứ mệnh giải quyết những khó khăn, vướng mắc của người dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, kêu gọi các tổ chức quốc tế, chính phủ các nước can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam; phủ nhận những nỗ lực trong thúc đẩy quyền con người Việt Nam; đòi thay đổi thể chế chính trị…
Những âm mưu, thủ đoạn trên được tiến hành đều đặn và b**g nở mạnh mẽ khi Liên hợp quốc, các tổ chức trực thuộc và các quốc gia thành viên tiến hành các hoạt động hướng đến kỷ niệm ngày Nhân quyền quốc tế. Các thế lực thù địch đã triệt để khai thác các tính năng của Internet, truyền thông, mạng xã hội nhằm làm méo mó bản chất, giá trị ngày Nhân quyền quốc tế. Mục đích của họ nhằm gây mất ổn định tình hình an ninh, trật tự; quy kết, vu cáo “Việt Nam không có nhân quyền”, “chính quyền không bảo đảm quyền con người”, từ đó muốn đưa Việt Nam đi theo các lối nhân quyền kiểu phương Tây; phớt lờ những sáng kiến đóng góp của Việt Nam cho các hoạt động nhân quyền của Liên hợp quốc…
Nhân quyền không phải là tuyệt đối
Quyền con người là những quyền tự nhiên của con người mà không có bất cứ ai, tổ chức, thể chế chính trị nào có thể tước bỏ. Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc đã đưa ra quan niệm về quyền con người, đó là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những tự do cơ bản của con người.
Như vậy, quyền con người được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chỉ áp dụng với con người và dành cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một con người. Cho dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định, một điều rõ ràng là quyền con người đều mang tính phổ quát, là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử.
Tuy nhiên, dưới mọi góc độ nghiên cứu quyền con người đều không có tính tuyệt đối, trong lĩnh vực nhân quyền, giữa quyền và nghĩa vụ luôn song hành, thống nhất với nhau, không tách rời nhau. Trong bất kỳ thể chế chính trị nào hiện nay, quyền con người không được xem là quyền tuyệt đối mà bị giới hạn bởi các quy định của pháp luật để ngăn cản, điều chỉnh, xử lý những hành vi lạm dụng quyền của cá nhân, tổ chức này xâm hại đến quyền lợi của cá nhân, tổ chức, Nhà nước. Một số tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nhân quyền nhưng thiếu thiện chí với Việt Nam đã không hiểu hoặc cố tình phớt lờ các mối quan hệ trên nên thường có cái nhìn phiến diện, sai lệch, thiếu khách quan đối với vấn đề nhân quyền ở nước ta.
Bàn về vấn đề quyền và nghĩa vụ, tại khoản 1, Điều 29, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 quy định: “Tất cả mọi người đều có những nghĩa vụ với cộng đồng mà ở đó nhân cách của bản thân họ có thể phát triển một cách tự do và đầy đủ”. Theo khoản 2 điều này thì mỗi người trong khi hưởng thụ các quyền và tự do cá nhân đều phải chịu những hạn chế do luật định nhằm bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng các quyền và tự do của người khác...
Ở Việt Nam, khái niệm về quyền con người được thể hiện đậm nét trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng công bố tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Năm 1945, ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được khai sinh (nay là Cộng hòa XHCN Việt Nam), quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946 và sau đó tiếp tục được khẳng định, mở rộng trong các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992, 2013. Hiến pháp năm 2013 là đạo luật gốc, là văn kiện pháp lý cao nhất của Nhà nước Việt Nam đã ghi nhận một cách toàn diện, cụ thể các quyền con người và nội dung các quyền này đã được trình bày xuyên suốt trong các chương, mục của Hiến pháp.
Theo đó, tại Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Đồng thời, cũng tại Điều 14 nêu rõ: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Tại Điều 15, Hiến pháp 2013 quy định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân: “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.
Trên cơ sở Hiến pháp, xuất phát từ quan điểm không ngừng thúc đẩy quyền con người, Nhà nước Việt Nam đã từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm các quyền con người được tôn trọng và thực thi một cách trọn vẹn nhất. Hệ thống pháp luật Việt Nam đã thể hiện đầy đủ tất cả các quyền cơ bản, phổ biến của con người được nêu trong Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới năm 1948 và các công ước quốc tế khác của Liên hợp quốc về quyền con người.
Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước Việt Nam đều lấy con người là trung tâm, phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, phát triển đất nước phồn vinh, tất cả vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Điều này đã được các văn kiện qua các kỳ đại hội Đảng chỉ rõ, đặc biệt Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”. (Còn nữa)

Đại Thắng

Đấu tranh với quan điểm cho rằng: “Thể chế Việt Nam đang bế tắc và hỗn loạn trong đường lối phát triển đất nước. Mâu thu...
05/12/2023

Đấu tranh với quan điểm cho rằng: “Thể chế Việt Nam đang bế tắc và hỗn loạn trong đường lối phát triển đất nước. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường trong quản lý nhà nước ngày càng trầm trọng hơn”.

​ Cách đây ít ngày, Tài khoản facebook nguoibuongio 1972 của Bùi Thanh Hiếu đã đăng bài viết có Tiêu đề “Thể chế quân chủ XHCN”, trong đó đưa ra quan điểm “Thể chế Việt Nam đang bế tắc và hỗn loạn trong đường lối phát triển đất nước. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường trong quản lý nhà nước ngày càng trầm trọng hơn”.

Trước khi đi nhận thức quan điểm nêu trên là quan điểm sai trái, thù địch, chúng ta cần hiểu Chủ Tài khoản facebook nguoibuongio 1972, Bùi Thanh Hiếu là ai? Bùi Thanh Hiếu sinh năm 1972 tại một ngõ nhỏ ở chợ Đồng Xuân, Hà Nội. Khi còn trong nước, Hiếu được biết đến là đối tượng nghiện ma túy, trộm cắp, cờ bạc, đòi nợ thuê và tham gia hoạt động mại dâm ở Hà Nội nên nhiều người thường gọi y là Hiếu nghiện. Sau những lần ngồi tù vì liên quan đến việc buôn bán, sử dụng ma túy và gây rối, Hiếu tiếp tục sống lang thang. Để có tiền mua ma túy, Hiếu tham gia các nhóm “biểu tình chống Trung Quốc” quanh khu vực hồ Hoàn Kiếm và lọt vào “mắt xanh” của các “nhà dân chủ”. Cũng có lần Hiếu ngồi tù với tội danh “Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm an ninh quốc gia” nhưng ra tù Hiếu lại chứng nào tật ấy. Với một kẻ không có gì để mất như Hiếu, những đối tượng chống phá đã nhanh chóng nhào nặn Hiếu thành một “blogger đấu tranh cho dân chủ” với bút danh Người Buôn Gió. Năm 2013, Hiếu được các tổ chức phản động, trong đó có Việt Tân tài trợ đưa ra nước ngoài dưới danh nghĩa một chương trình học bổng nghệ thuật tại Đức và định cư luôn. Tại Đức, Hiếu kiếm sống chủ yếu bằng cách cộng tác với các trang mạng chống cộng. Con người Hiếu là như vậy, cho nên những gì hắn viết trên mạng cũng rất dễ hiểu là sai trái, thu địch, bịa đặt,…

Bây giờ quay lại với quan điểm của Bùi Thanh Hiếu: Theo như hắn viết: “Thể chế Việt Nam đang bế tắc và hỗn loạn trong đường lối phát triển đất nước”. Chúng ta cần hiểu “Thể chế” là gì? Có thể nói khái niệm “Thể chế” đang có nhiều cách tiếp cận, cách hiểu khác nhau, xong theo cách hiểu chung nhất hiện nay thì thể chế bao gồm 3 yếu tố chính: Hệ thống pháp luật, các quy tắc xã hội điều chỉnh các mối quan hệ và các hành vi được pháp luật thừa nhận của một quốc gia; Các chủ thể thực hiện và quản lý sự vận hành xã hội (bao gồm nhà nước, cộng đồng cư dân, các tổ chức xã hội dân sự); Các cơ chế, phương pháp, thủ tục thực hiện hoạt động xã hội, quản lý và điều hành sự vận hành xã hội.

​ Thống nhất về cách hiểu về “Thể chế” như vậy, lấy thực tiễn Việt Nam hiện nay để đối chiếu thì không cần giải thích dài dòng, chúng ta có thể kết luận ngắn gọn rằng không thể có “Thể chế Việt Nam đang bế tắc và hỗn loạn trong đường lối phát triển đất nước”.

Vậy Việt Nam hiện nay có phải: “Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường trong quản lý nhà nước ngày càng trầm trọng hơn”?.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát triển tổng quát của nền kinh tế Việt Nam; là sự đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhìn vào sự phát triển trong lịch sử cho thấy, kinh tế thị trường ra đời là một quá trình lịch sử tự nhiên, không phải là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản. Là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại, trong đó, các yếu tố để sản xuất đều trở thành đối tượng để mua - bán. Người bán thì cần giá trị (tiền), còn người mua thì cần giá trị sử dụng dịch vụ hay hàng hóa mà người bán có. Các hoạt động này không phụ thuộc vào ý chí của người bán hay người mua mà do yêu cầu của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung - cầu quyết định.

Ở nước ta, Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội quyết định chuyển mô hình chủ nghĩa xã hội kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (gọi tắt là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ) và đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Đây là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh tư tưởng, kết tinh trí tuệ và công sức của toàn Đảng, toàn dân trong nhiều năm. kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một mô hình hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường, trong đó, kinh tế thị trường là “cái phổ biến”, còn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

​ Sau 35 năm đổi mới toàn diện, đồng bộ, trước hết là đổi mới về kinh tế, thực hiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa mà: “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.”.

Một số ví dụ thực tiễn để chứng minh tính đúng đắn, khoa học của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta như: trong năm 2020, trong khi phần lớn các nước có mức tăng trưởng âm hoặc đi vào trạng thái suy thoái do tác động của đại dịch COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng 2,91%, góp phần làm cho GDP trong 5 năm (2016 - 2020), tăng trung bình 5,9%/năm, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới. Quy mô nền kinh tế năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD thì đến năm 2022 là 409 tỷ USD. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần. Các cân đối lớn của nền kinh tế về tích luỹ - tiêu dùng, tiết kiệm - đầu tư, năng lượng, lương thực, lao động - việc làm… tiếp tục được bảo đảm, góp phần củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mô. Mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc đi xa là xây dựng Việt Nam thành một đất nước có “dân chủ và giàu mạnh” từng bước được hiện thực hóa.

Từ những phân tích hết sức khái quát trên cũng đủ để khẳng định chắc chắn lại một lần nữa quan điểm của Bùi Thanh Hiếu: “Thể chế Việt Nam đang bế tắc và hỗn loạn trong đường lối phát triển đất nước. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường trong quản lý nhà nước ngày càng trầm trọng hơn”, là sự bịa đặt, hằn học, phủ nhận mà thôi, là bởi con đường mà Bùi Thanh Hiếu chọn là con đường đối đầu với quốc gia, dân tộc, đối đầu với Nhân dân. Và không ai có thể đồng hành với Hiếu trên con đường tội lỗi ấy. Người buôn gió Bùi Thanh Hiếu là đang “buôn bán” sự tò mò, hiếu kỳ, thói a dua, “lên đồng tập thể” của những người nhẹ dạ, cả tin, thiếu hiểu biết, hoặc những kẻ luôn tỏ ra mình là người thạo tin và thích bàn luận những chuyện gây sốc mà thôi. Chúng ta cần cảnh giác, đấu tranh, loại bỏ./.

Quốc Du

KHÔNG ĐỂ CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC LÀM ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG CUỘC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM.Thời gian qua, lợi dụng...
04/12/2023

KHÔNG ĐỂ CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC LÀM ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG CUỘC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM.

Thời gian qua, lợi dụng những diễn biến phức tạp trên Biển Đông, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thông qua nhiều âm mưu nham hiểm nhằm xuyên tạc, phủ nhận đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam.

Sự nham hiểm của những luận điệu xuyên tạc

Biển là không gian chiến lược mở, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đường lối, chiến lược và tương lai phát triển của đất nước. Biển Đông là “bản lề” nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, là nơi hội tụ lợi ích chiến lược và thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực, nhất là các nước lớn. Về mặt tiềm năng phát triển, Biển Đông có nhiều lợi thế. Nơi đây đã và đang trở thành tâm điểm của sự cạnh tranh lợi ích, quyền lực và tầm ảnh hưởng của các nước lớn, được các chuyên gia quân sự ví như vùng “chảo lửa” trên bàn cờ chính trị của khu vực với nhiều diễn biến phức tạp, nhạy cảm.

Lợi dụng tình hình phức tạp trên Biển Đông, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị khai thác triệt để, biến tấu thành nhiều bài viết, hình ảnh, video nhằm bịa đặt tình hình, bóp méo sự thật, xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta trong công tác quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo; lợi dụng các trang mạng xã hội để lan truyền, tán phát thông tin, gây tâm lý hoang mang, bất ổn, chia rẽ đoàn kết trong nước và quốc tế.

Với những nội dung xuyên tạc xảo trá, họ thường lặp đi lặp lại luận điệu cũ rích rằng: “Cộng sản Việt Nam làm ngơ về vấn đề chủ quyền trên Biển Đông”; Đảng, Nhà nước Việt Nam im lặng vì đã thỏa hiệp với nước lớn, không cung cấp đầy đủ thông tin về tình hình Biển Đông, không có giải pháp đủ mạnh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo... Những thông tin xuyên tạc này ít nhiều đã tác động tiêu cực tới nhận thức, tư tưởng, tình cảm, niềm tin của một bộ phận nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta.

Chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam

Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và các hải đảo. Quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là kiên quyết, kiên trì đấu tranh quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không trên các vùng biển, đảo quốc gia. Sinh thời, khi đến thăm cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”.

Những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng nhiệm vụ phát triển mạnh kinh tế-xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển của Tổ quốc. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã thông qua Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 “Về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó xác định: “Phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo”. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 “Về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã xác định: “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ”. Tại Đại hội XIII (năm 2021), Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”.

Như vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của biển, đảo là một bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng không thể tách rời, bất khả xâm phạm của Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc nói chung, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền, bảo đảm an ninh, an toàn và lợi ích quốc gia-dân tộc trên các vùng biển, đảo nói riêng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quá trình hoạch định và triển khai thực hiện đường lối bảo vệ chủ quyền biển, đảo luôn giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, kết hợp chặt chẽ với sức mạnh thời đại và tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để phát triển kinh tế biển gắn với quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo quốc gia.

Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo quốc gia bằng biện pháp hòa bình

Bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, trong đó chủ quyền biển, đảo là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, về biện pháp tiến hành, cần phải hết sức bình tĩnh, tỉnh táo, linh hoạt, thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong các tình huống cụ thể với mục tiêu cao nhất là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia-dân tộc. Quan điểm, lập trường của Việt Nam về vấn đề Biển Đông, về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển quốc gia theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) là rất rõ ràng và hoàn toàn có đầy đủ cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn.

Với những vấn đề còn tồn tại bất đồng, tranh chấp, Việt Nam nhất quán giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế. Là một quốc gia thành viên của Liên hợp quốc đã tham gia ký kết UNCLOS 1982, Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của luật pháp và nguyên tắc quan hệ quốc tế; kiên trì con đường giải quyết các vấn đề nảy sinh bằng biện pháp hòa bình, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau nhằm tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên quan vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và vì hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực, quốc tế.

Trên thực tế, trong những thời điểm mà quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên Biển Đông bị đe dọa, Đảng, Nhà nước và toàn dân ta luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, đồng lòng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình trên các diễn đàn quốc tế, khu vực thông qua các cuộc gặp gỡ, trao đổi đoàn các cấp trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao; chủ động kiềm chế, không có các hành động khiêu khích, không làm phức tạp tình hình; thực hiện đầy đủ, hiệu quả Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và thể hiện thiện chí để sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Xây dựng hệ thống các biện pháp hòa bình để giải quyết bất đồng, tranh chấp với các bên, các nước có liên quan, như biện pháp ngoại giao (đàm phán hòa bình; thương lượng; điều tra; trung gian hòa giải; sử dụng các tổ chức quốc tế, khu vực; ký kết các hiệp định song phương, đa phương...).

Trên tinh thần đó, Việt Nam luôn nỗ lực cao nhất để xử lý các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn trên biển; duy trì quan hệ hữu nghị với các bên, các nước. Kiên trì mục tiêu không để nước ngoài lấn chiếm nhưng cũng không để xảy ra xung đột; kiên trì tìm kiếm giải pháp lâu dài và yêu cầu các bên liên quan không có những hành động quá khích, cực đoan, làm phức tạp thêm tình hình, tuân thủ các cam kết đã ký kết, giải quyết mọi bất đồng trên cơ sở thượng tôn luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982 và nguyên tắc chung sống hòa bình. Coi trọng thúc đẩy xây dựng lòng tin chiến lược với các đối tác; đẩy mạnh hợp tác đa phương trên các lĩnh vực bảo đảm an ninh, nghiên cứu khoa học-công nghệ, phòng, chống tội phạm trên biển... để Biển Đông thực sự là vùng biển hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Một mặt, Việt Nam không tạo phe, không kết nhóm, không chọn bên, không liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam nhằm tấn công các nước khác, không đi theo nước này để chống lại nước kia, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Mặt khác, chúng ta cũng không mơ hồ, mất cảnh giác, né tránh, nhân nhượng vô nguyên tắc, không thụ động, không dựa dẫm, không trông chờ ỷ lại; không mắc mưu lôi kéo, kích động, khiêu khích của bất cứ thế lực nào; chỉ chọn theo chân lý, đứng về lẽ phải, dựa trên luật pháp quốc tế vì mục tiêu hòa bình, hợp tác và phát triển.

Nhằm quán triệt và thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong tình hình mới, chúng ta cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, thực hiện phương châm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” trên tinh thần “thêm bạn, bớt thù”, tranh thủ tối đa sự đồng thuận, ủng hộ của các bên liên quan cùng các nước trong khu vực và trên thế giới để hạn chế những bất đồng, khắc phục sự khác biệt, triệt để khai thác các nhân tố có lợi từ bên ngoài tạo thành sức mạnh tổng hợp.

Tập trung giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục; xây dựng lực lượng bảo vệ chủ quyền, thực thi pháp luật trên biển (hải quân, cảnh sát biển, bộ đội biên phòng, kiểm ngư, dân quân tự vệ biển) vững mạnh; xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng chính trị-tinh thần vững chắc.

Tích cực xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia về biển, tạo khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động khai thác, quản lý, bảo vệ biển, đảo phù hợp với luật pháp quốc tế. Kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp đấu tranh chính trị, pháp lý, ngoại giao, kinh tế, quốc phòng, an ninh; tăng cường hợp tác quốc tế, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại quốc phòng về quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới.

Những quan điểm nêu trên là đường lối chính trị, căn cứ pháp lý để xây dựng sự đoàn kết, đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin trong nước, quốc tế, tạo thành nền tảng và sức mạnh tổng hợp quốc gia; đồng thời là cơ sở để đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động; để dư luận quốc tế hiểu rõ về lập trường, quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia trong tình hình hiện nay.

Đại tá, ThS TRẦN ĐỨC TIẾN, Khoa Lịch sử nghệ thuật quân sự, Học viện Chính trị

Nguồn: Báo QĐND

Address

TT Phong Sơn, Cẩm Thủy
Thanh Hóa

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Tiếp Bước posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Videos

Share

Category