Đạo tràng Pháp Hoa Chùa Bằng

Đạo tràng Pháp Hoa Chùa Bằng Quy y và Thọ trì tu học Pháp Hoa Kinh

BẾ MẠC PHÁP HỘI DƯỢC SƯ TRUYỀN THỐNG LẦN THỨ XX TẠI CHÙA BẰNG Sau bảy ngày diễn ra trong không khí trang nghiêm, thanh t...
17/10/2025

BẾ MẠC PHÁP HỘI DƯỢC SƯ TRUYỀN THỐNG LẦN THỨ XX TẠI CHÙA BẰNG

Sau bảy ngày diễn ra trong không khí trang nghiêm, thanh tịnh và thấm đẫm đạo vị, ngày 16/10/2025 (tức ngày 25 tháng 8 năm Ất Tỵ), Pháp hội Dược Sư truyền thống lần thứ XX tại chùa Bằng – Linh Tiên Tự (phường Hoàng Liệt, Hà Nội) với sự tham gia của đông đảo Phật tử Đạo tràng Pháp Hoa đã thành tựu viên mãn.

Trong buổi sáng bế mạc, đại chúng trang nghiêm cung thỉnh Thượng tọa Thích Tiến Đạt – Phó Viện trưởng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Giám đốc Trung tâm Tư liệu Phật giáo tại Hà Nội, Viện chủ chùa Đại Từ Ân quang lâm pháp tòa, ban thời pháp thoại với chủ đề “Ý nghĩa số 7 trong Kinh Dược Sư.”

Bằng lời giảng từ hòa, minh triết, Thượng tọa đã dẫn dắt đại chúng đi sâu vào tầng ý nghĩa biểu trưng ẩn chứa trong số 7, pháp số xuất hiện xuyên suốt trong Kinh Dược Sư và các pháp hội tu tập.

Theo lời Thượng tọa, số 7 biểu trưng cho sự viên mãn của không gian và thời gian, gồm bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc và ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Trong giáo pháp, số 7 cũng tượng trưng cho trí tuệ viên mãn và quá trình chuyển hóa tâm linh của hành giả. Vì vậy, Pháp hội Dược Sư thường được tổ chức trong 7 ngày, tụng 7 biến kinh, lễ bái 7 tôn tượng, thắp 7 ngọn đèn, hay phóng sinh 49 loài, tất cả đều mang thông điệp hướng về sự giác ngộ viên dung.

Trong bài thuyết pháp của mình, Thượng tọa Thích Tiến Đạt lần lượt giảng giải danh hiệu và hạnh nguyện của bảy Đức Phật Dược Sư. Thế giới Quang Thắng có Đức Phật hiệu Thiện Danh Xưng Cát Tường Vương Như Lai – Đức Phật biểu trưng cho hạnh nguyện tu nhân viên mãn, đem phúc lành và điềm lành đến cho chúng sinh. Ngài giúp diệt trừ nghiệp chướng, tiêu tai tán ách, khiến người hữu duyên đạt được an lạc, phúc trí song tu.

Thế giới Diệu Bảo có Đức Phật tên là Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Như Lai – Đức Phật biểu trưng cho ánh sáng trí tuệ thanh tịnh và tự tại, soi chiếu bóng tối vô minh. Ngài giúp hành giả khai mở trí tuệ, xa lìa tà kiến, diệt trừ phiền não, sống an nhiên tự tại giữa cuộc đời biến động.

Thế giới Viên Mãn Viên Tích có Đức Phật Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai – Đức Phật biểu trưng cho hạnh tinh tấn tu hành và công đức viên mãn. Ánh sáng vàng kim của Ngài tượng trưng cho sự thanh tịnh, vững bền và quý báu. Người niệm danh hiệu Ngài sẽ được tăng trưởng phúc trí, thân tâm sáng rỡ, mọi thiện hạnh đều thành tựu như nguyện.

Thế giới Vô Ưu có Đức Phật Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Vương Như Lai – Đức Phật biểu trưng cho niềm an vui và sự giải thoát khỏi mọi lo toan, khổ não. Ngài giúp chúng sinh diệt trừ phiền muộn, đoạn dứt vọng tưởng, đạt đến tâm an tịnh và hỷ lạc chân thật. Người trì niệm danh hiệu Ngài sẽ được tâm hồn thư thái, hướng về con đường giải thoát vô ưu.

Thế giới Pháp Tràng có Đức Phật Pháp Hải Lôi Âm Như Lai – Đức Phật biểu trưng cho trí tuệ sâu rộng như biển pháp, tiếng nói như sấm vang chấn động vô minh. Ngài giúp chúng sinh phá trừ tà kiến, khơi mở chánh trí, hiểu sâu nhân quả và tự chuyển hóa khổ đau bằng sức mạnh của giáo pháp chân thật. Người thành tâm niệm danh hiệu Ngài sẽ được khai mở trí tuệ, tâm ý kiên định trong chính pháp.

Thế giới Thiện Trụ Bảo Hải có Đức Phật Pháp Hải Thắng Tuệ Du Hý Thần Thông Như Lai – Đức Phật biểu trưng cho trí huệ siêu việt và năng lực thần thông tự tại. Ngài hóa hiện khắp nơi để cứu độ chúng sinh, giúp người tu hành phá tan chấp ngã, dứt trừ kiêu mạn, đạt được tâm an nhiên vô ngại. Niệm danh hiệu Ngài, hành giả nuôi lớn trí tuệ, phát khởi từ bi, biết ứng dụng Phật pháp vào đời sống một cách linh hoạt, lợi mình lợi người.

Thế giới Tịnh Lưu Ly có Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai – Đức Phật biểu trưng cho ánh sáng trí tuệ trong suốt và năng lực chữa lành vô biên. Ngài phát 12 đại nguyện cứu khổ, ban vui, tiêu trừ bệnh tật, giúp chúng sinh lìa xa khổ đau thân tâm, hướng đến an lạc và giải thoát. Người thành tâm trì niệm danh hiệu Ngài sẽ được thân tâm thanh tịnh, phúc thọ tăng trưởng, gia đình bình an, thế giới hòa bình.

Ngài giải thích, mỗi Đức Phật đều đại diện cho một hạnh nguyện cứu khổ ban vui: có vị tiêu trừ bệnh tật, có vị giải nghiệp oan khiên, có vị giúp khai mở trí tuệ, an định tâm hồn. Khi lễ bái, trì niệm danh hiệu bảy Đức Phật ấy, người tu hành không chỉ cầu an, cầu phúc, mà còn tự quán chiếu tâm mình, học theo các hạnh nguyện từ bi, hỷ xả và tinh tấn để chuyển hóa phiền não thành trí tuệ, khổ đau thành an lạc.

Đặc biệt, Thượng tọa nhấn mạnh rằng ánh sáng của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai là ánh sáng trong suốt của lòng từ bi vô lượng. Người nào thành tâm trì niệm, nương theo hạnh nguyện của Ngài, thì mọi bệnh khổ được tiêu trừ, tâm trí được thanh tịnh, gia đình hòa thuận, xã hội an vui. Bằng những hình ảnh giản dị, Thượng tọa Thích Tiến Đạt giúp đại chúng hiểu rõ ý nghĩa sâu xa của bảy ngọn đèn Dược Sư. Ngọn đèn tượng trưng cho bản tâm thanh tịnh của mỗi con người; dầu là phúc đức, bấc là mạng căn, còn ngọn lửa là trí tuệ soi sáng. Nếu muốn ánh sáng trí tuệ ấy được tỏa rạng, người Phật tử phải giữ giới thanh tịnh, nuôi dưỡng từ tâm và hành trì chính pháp.

Bảy ngọn đèn cũng chính là biểu trưng cho Thất Giác Chi – bảy yếu tố giác ngộ gồm niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả. Khi thất giác chi được khơi sáng, thì bảy thứ phiền não (tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, ác kiến) cũng được hóa giải.

Nhờ vậy, người hành trì pháp môn Dược Sư sẽ dần dần tích lũy được “thất thánh tài” – bảy loại tài sản quý báu của người tu (tín, giới, tàm, quý, văn, thí, tuệ.)

Thượng tọa giảng giải, pháp môn Dược Sư không chỉ cầu an, cầu phúc mà còn là pháp môn chữa lành thân tâm và chuyển hóa nghiệp lực. Trong giáo lý nhân quả, nghiệp tham khiến sinh ra tai nạn nước; nghiệp sân dẫn đến tai nạn lửa; nghiệp si sinh ra vọng động, bất an. Khi tâm con người được thanh lọc, các tai nạn trong đời cũng theo đó mà tiêu tan. Bởi vậy, tụng Kinh Dược Sư chính là hành trì con đường tịnh hóa ba nghiệp (thân, khẩu, ý), để thế giới được an bình, quốc gia thịnh trị, nhân dân an lạc. Ngài cũng dành lời khuyến tấn đặc biệt cho hàng Phật tử nữ, khuyên nên nỗ lực tu học để “chuyển nữ thành nam” – không phải là sự biến đổi hình tướng, mà là chuyển hóa tâm yếu mềm, phiền não thành tâm kiên định, vững chãi và trí tuệ.

Kết thúc thời pháp, Thượng tọa Thích Tiến Đạt thành kính tri ân Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm, người đã duy trì Pháp hội Dược Sư suốt những năm qua, giúp hàng vạn Phật tử có cơ hội tụng kinh, nghe pháp, hành trì, gieo trồng căn lành nơi chính pháp. Ngài cũng bày tỏ lòng hoan hỷ trước sự tinh tấn tu tập của Phật tử đạo tràng Pháp Hoa, luôn giữ tâm thanh tịnh, hộ trì Tam Bảo. Thượng tọa cùng đại chúng nguyện đem công đức tu tập cầu ánh sáng Dược Sư soi chiếu khắp muôn nơi, đem an lành đến mọi nhà, thân tâm thanh tịnh, Phật pháp xương minh, chúng sinh an lạc.

Sau thời pháp thoại ý nghĩa mà Thượng tọa truyền trao, dưới sự chủ lễ của chư Tôn đức Tăng bản tự, đại chúng tiếp tục thời khóa Tụng Kinh Dược Sư cầu nguyện thế giới hòa bình, Phật pháp xương minh, chúng sinh an lạc.

Buổi chiều cùng ngày, dưới sự chủ lễ của Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm – Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Trưởng Ban Hoằng pháp Trung ương, Trụ trì chùa Bằng – Linh Tiên Tự, chư Tôn đức và toàn thể đại chúng đồng tụng Kinh Dược Sư, tạ đàn, khép lại Pháp hội Dược Sư truyền thống lần thứ XX thành tựu viên mãn viên mãn, để lại trong lòng mỗi hành giả niềm hoan hỷ và biết ơn sâu sắc.

Nguồn: https://phatsuthudo.vn/be-mac-phap-hoi-duoc-su-truyen-thong-lan-thu-xx-tai-chua-bang-linh-tien-tu-phuong-hoang-liet-ha-noi/

Bài giảng “Bệnh tật và Chữa lành” của TT Thích Giác Hiệp mở rộng góc nhìn y và đạo tại ngày thứ 5 Pháp hội Dược Sư XXĐăn...
17/10/2025

Bài giảng “Bệnh tật và Chữa lành” của TT Thích Giác Hiệp mở rộng góc nhìn y và đạo tại ngày thứ 5 Pháp hội Dược Sư XX
Đăng lên 15/10/2025 Bởi Thích Giác Nghĩa
Sáng ngày 15/10/2025 (nhằm ngày 24 tháng 8 năm Ất Tỵ), trong không khí trang nghiêm của Pháp hội Dược Sư lần thứ XX tại chùa Bằng – Linh Tiên Tự (phường Hoàng Liệt, Hà Nội), chư Tăng và Phật tử đã cung thỉnh Thượng tọa Thích Giác Hiệp – Ủy viên Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Giảng viên Học viện Phật giáo Việt Nam TP.HCM quang lâm pháp toà, thuyết giảng chủ đề “Bệnh tật và Chữa lành” trong sự lắng nghe sâu sắc của toàn thể hội chúng.
Mở đầu bài giảng, Thượng tọa nhấn mạnh, thân bệnh là điều khó tránh, nhưng tâm bệnh mới là gốc của khổ đau. Chữa thân chỉ là phần ngọn, chữa tâm mới là chữa tận nguồn.Từ tinh thần đó, Thượng tọa trích giảng theo Kinh Tăng Chi – nơi Đức Phật dạy Tôn giả A-nan mười pháp quán niệm để truyền lại cho vị tỳ-kheo đang bệnh, giúp an tịnh thân tâm và khai mở tuệ giác.
Thượng tọa diễn giải: Quán vô thường là quán thân, thọ, tâm, pháp đều biến đổi không ngừng; bệnh cũng là một tiến trình vô thường. Hiểu vậy giúp hành giả không sợ hãi, không dính mắc vào cảm giác đau, mà thấy rõ mọi khổ đau đều có khởi, có diệt.
Quán vô ngã – Quán rằng thân này không phải của ta, cảm giác không phải của ta. Khi không còn đồng hóa với việc bản thân đang bệnh, hành giả nhẹ bớt gánh khổ, âu lo.
Quán bất tịnh là quán thân gồm 32 thể trược, vốn không sạch đẹp, để phá chấp vào hình sắc. Người bệnh hiểu thân là tạm, không còn sợ hư hoại, không buồn vì bệnh tật.
Quán nguy hại nghĩa là nhận rõ thân là nơi tập trung của nhiều bệnh tật, đã là con người sinh ra không thể thoát được bệnh tật. Quán chiếu như vậy để khởi tâm tỉnh giác, buông mê luyến thân thể để chấp nhận, suy nghĩ tích cực hơn về bệnh tật.
Quán đoạn tận là Quán về sự đoạn tận các bất thiện pháp – dừng tâm tham, sân, si, dứt trừ vọng tưởng, chỉ an trú trong chính pháp. Người bệnh biết dùng bệnh làm cơ duyên tu tập, không cầu mau khỏi, chỉ cầu tâm an.
Quán ly tham là quán sự mờ nhạt của ái dục, để tâm không còn bị dính mắc vào cuộc đời, của cải, danh vọng, thân xác. Xa lìa lòng tham, chấp trước. Khi chúng ta khởi lòng tham, toan tính chấp trước để đạt được điều mình mong muốn sẽ sinh ra tâm đố kỵ, tiêu cực hại cho sức khoẻ. Vì thế, tưởng ly tham chính là cội nguồn giúp cho tâm an.
Tiếp đến là quán tịnh, tức Quán sự buông xả và thanh tịnh của tâm. Khi tâm xả bỏ mọi chấp thủ, không còn phiền não, đó chính là nền tảng của sự an tịnh nội tâm.
Quán nhàm chán là Quán thấy sự nhàm chán đối với các pháp hữu vi, không còn mê đắm trong các dục lạc tạm bợ, từ đó phát tâm hướng thượng, trở về với nội tâm tĩnh lặng.
Quán vô thường các pháp hữu vi là Quán thấy mọi pháp có tạo tác đều vô thường, có sinh có diệt. Nhận rõ vậy, hành giả không còn chấp vào thân bệnh, vui buồn hay được mất ở đời.
Cuối cùng là Quán hơi thở. Đây là sự thực hành chính niệm trong hơi thở vào – ra, nhận rõ sự sống đang diễn ra từng khoảnh khắc. Pháp này giúp thân tâm định tĩnh, an trú trong hiện tại, làm nền cho mọi phép quán khác. Ngoài ra, khi hơi thở hít vào sâu giúp cho máu huyết lưu thông, tinh thần thư thái giúp tâm an tịnh hơn mỗi ngày.
Bên cạnh đó, Thượng tọa cũng giảng giải năm điều lợi ích khi Đức Phật đến thăm và sách tấn chư Tăng có bệnh, được ghi lại trong Kinh Tăng Chi Bộ. Đó là: Vị Tỳ-kheo bệnh không bị đắm chìm vào các việc thế tục; Không bàn luận những chuyện thế gian; Không sinh tâm say đắm trong việc ngủ nghỉ; Được các vị đồng phạm hạnh quan tâm thăm hỏi, chăm sóc đúng pháp. Và điều quan trọng nhất, là sự hiện diện của Đức Thế Tôn với oai nghi, từ lực và trí tuệ siêu việt khiến chư Tăng phát khởi niềm tin, tinh tấn và tâm vững mạnh trong tu tập.
Trong bài giảng, Thượng toạ mở rộng đến các quốc gia phát triển trên thế giới cũng đang áp dụng các khoá tu, thực hành thiền định vào phương pháp chữa trị tâm bệnh nhằm giúp bệnh nhân quay về bên trong hướng đến những suy nghĩ tích cực, tinh thần thoải mái để hỗ trợ cho việc chữa trị bệnh tốt hơn.
Thượng tọa kết luận, chữa lành không chỉ hết bệnh, mà còn thấy rõ sự vô thường, buông chấp và sống an nhiên trong chính niệm. Khi tâm sáng, thân bệnh cũng dịu; khi tâm tĩnh, bệnh là pháp tu. Đã sinh ra làm người, ai cũng phải trải qua sinh – lão – bệnh – tử. Không ai có thể tránh được quy luật vô thường này. Hiểu và chấp nhận nó không phải là bi quan, mà là bước đầu của sự tỉnh thức và chuyển hóa. Khi ta nhận diện bệnh tật là biểu hiện tự nhiên của thân, tâm sẽ bớt kháng cự, trở nên nhẹ nhàng, và có thể suy nghĩ tích cực hơn để chữa lành.
Bài giảng khép lại trong không khí thanh tịnh và tràn đầy xúc động. Sau đó, đại chúng tiếp tục các thời khóa Tụng Kinh Dược Sư trong ngày, bằng tâm chí thành nguyện cho tất cả chúng sinh thân tâm an lạc, bệnh khổ tiêu trừ, trí tuệ sáng ngời.
Dưới đây là một số hình ảnh của buổi lễ:

THƯỢNG TOẠ THÍCH MINH QUANG THUYẾT PHÁP TRONG NGÀY THỨ 4 PHÁP HỘI DƯỢC SƯ LẦN THỨ XXSáng ngày 13/10/2025 (tức ngày 22 th...
16/10/2025

THƯỢNG TOẠ THÍCH MINH QUANG THUYẾT PHÁP TRONG NGÀY THỨ 4 PHÁP HỘI DƯỢC SƯ LẦN THỨ XX

Sáng ngày 13/10/2025 (tức ngày 22 tháng 8 năm Ất Tỵ), ngày thứ 4 trong khuôn khổ Pháp hội Dược Sư lần thứ XX tại chùa Bằng - Linh Tiên Tự (phường Hoàng Liệt, Hà Nội), toàn thể chư Tăng và Phật tử trang nghiêm cung thỉnh Thượng tọa Thích Minh Quang - Ủy viên Thư ký Hội đồng Trị sự, Phó Chánh Văn phòng I Trung ương GHPGVN, Phó Trụ trì chùa Bái Đính quang lâm pháp tòa, thuyết giảng chủ đề “Ý nghĩa và lợi ích của việc lễ Phật, tụng kinh.”

Với phong thái từ hòa, lời giảng dung dị mà sâu sắc, Thượng tọa đã dẫn dắt đại chúng đi qua hành trình tu tập từ lễ bái, tụng kinh đến ứng dụng giáo pháp trong đời sống.

Mở đầu bài giảng, Thượng tọa Thích Minh Quang chia sẻ rằng, Đức Phật không yêu cầu ai phải lễ bái Ngài, bởi lễ Phật không phải để cầu xin phúc báu hay lợi lộc, mà là hành động thể hiện lòng tôn kính và biết ơn đối với bậc Đại Giác, người đã hiến dâng trọn đời mình cho con đường giác ngộ và giải thoát chúng sinh. Khi chúng ta lễ Phật, chính là đang quán chiếu lại bản thân, học theo hạnh đức của Ngài để nuôi dưỡng tâm khiêm cung và trí tuệ.
Thượng tọa giải thích rằng, “Lễ Phật giả, kính Phật tri đức” nghĩa là lễ Phật để hiểu và kính trọng những phẩm hạnh cao quý của Ngài như lòng từ bi, trí tuệ, hạnh nhẫn nhục và tinh tiến. Qua câu chuyện Đức Phật dạy những đứa trẻ biết trân trọng người gánh phân, Thượng tọa nhấn mạnh rằng sự cao quý không nằm ở hình tướng hay địa vị, mà ở tâm hồn và hành vi thiện lành. Vì vậy, mỗi lần lễ Phật là một lần rèn luyện tâm cung kính, gột rửa ngã chấp, hướng tâm về thiện lành, để từ đó gieo trồng công đức và an lạc trong đời sống tu học.

Tiếp nối bài giảng, Thượng tọa chia sẻ rằng tụng kinh là để thấu hiểu rõ lời Phật dạy. Đại chúng tụng kinh với mục đích để thấu hiểu lời Phật dạy từ đó áp dụng vào thực tiễn. Thượng tọa nhấn mạnh, tụng kinh không cốt ở số lần đọc, mà ở sự chuyên tâm và hiểu nghĩa. Tâm còn mê muội, bị tham sân si đố kỵ chi phối, thân ở đạo tràng nhưng ý nghĩ vẫn vọng động, thì việc tụng kinh chỉ còn là hình thức. Tụng kinh đúng nghĩa là miệng đọc – tai nghe – tâm hiểu – thân hành, để giáo pháp trở thành hơi thở sống trong từng việc làm.

Thượng tọa trích dẫn một câu trong Kinh Dược Sư “Chính kiến, tinh tiến thiện điều ý lạc”. Câu kinhchỉ rõ hai yếu tố giúp tâm được an vui là “Chính kiến” và “Tinh tiến.” Chính kiến là thấy biết chân thật, hiểu rõ nhân quả, vô thường, không để tham - sân - si chi phối. Người có chính kiến không phán xét lỗi người mà luôn phản quang tự kỷ, tu sửa chính mình. Tinh tiến là siêng năng hành trì, vượt qua lười biếng, kiên trì giữ giới, niệm Phật, tụng kinh, làm lành, tránh ác. Nhờ chính kiến và tinh tiến, người học Phật sẽ có được nội tâm vững chãi, an nhiên giữa biến động cuộc đời.

Thượng tọa Thích Minh Quang nhấn mạnh rằng giáo pháp chỉ thật sự có ý nghĩa khi được ứng dụng trong đời sống. Vì tu hành không phải là tách mình khỏi thế gian, mà là đem trí tuệ và lòng từ bi thấm vào từng việc làm hàng ngày.

Ngài giảng rõ sự khác biệt giữa “phúc đức” và “công đức.” Phúc đức là kết quả của các việc thiện như bố thí, cúng dường, giúp đỡ chúng sinh đem lại an vui, thuận lợi trong đời sống hiện tại. Công đức là kết quả của việc hành trì và truyền bá Phật pháp, giúp mình và người cùng giác ngộ. Đây là phúc báu vượt ngoài vật chất, dẫn đến giải thoát tâm linh. Thượng tọa khuyến khích đại chúng tu phúc phải đi đôi với tu tuệ, vừa làm lành giúp đời, vừa tinh tiến học đạo, hành đạo.

Nhân dịp này Thượng tọa bày tỏ sự cảm động và tán thán công đức của Phật tử Đạo tràng Pháp Hoa đã duy trì đều đặn các khóa lễ, tinh tiến tu học, hộ trì Tam Bảo, là tấm gương cho nhiều Phật tử noi theo.

Tiếp đó Thượng tọa giảng về những ý nghĩa tốt đẹp của việc tụng kinh lễ Phật. Đó là tạo duyên lành với Phật pháp, Tam Bảo, nhờ đó mà hàng Phật tử thấu hiểu được lời Phật dạy, như một tấm bản đồ, ngọn hải đăng dẫn đại chúng đi trên con đường chính giác, không lầm đường lạc lối. Tụng kinh lễ Phật là dẹp trừ bản ngã, tịnh hóa 6 căn và 3 nghiệp. Bên cạnh đó, việc tụng kinh còn để sám hối nghiệp chướng, tăng trưởng phúc đức trí tuệ. Thượng tọa khuyên các Phật tử nên dành thời gian nghe Kinh, nghe Pháp tạo thành một thói quen. Một ý nghĩa nữa của việc tụng kinh lễ Phật đó là kết duyên lành, không chỉ cho mình mà còn mang lại rất nhiều lợi ích cho người xung quanh.

Kết thúc thời pháp, Thượng tọa Thích Minh Quang nhắc lại một cách ngắn gọn để các Phật tử cần ghi nhớ và thực hành. Tu không chỉ là lễ Phật hay tụng kinh, mà là học cách sống giữa đời bằng tâm từ bi, trí tuệ và biết ơn. Thượng tọa gửi lời tri ân sâu sắc tới Hòa thượng - trụ trì chùa Bằng (Linh Tiên Tự) cùng chư Tôn đức đã tổ chức Pháp hội viên mãn, đem lại lợi ích lớn lao cho hàng Phật tử.

Thượng tọa cầu nguyện Phật pháp hưng long, quốc thái dân an, đạo tâm kiên cố, chúng sinh an lạc.

Sau thời pháp thoại, Thượng tọa Thích Minh Quang tiếp dẫn đại chúng tụng thời Kinh Dược Sư, đồng nhất tâm cầu nguyện cho thế giới hòa bình, nhân sinh an lạc, mưa thuận gió hòa. Khép lại buổi sáng ngày thứ 4 của Pháp hội Dược Sư lần thứ XX trong bầu không khí trang nghiêm và viên mãn.

Nguồn: https://phatsuonline.vn/thuong-toa-thich-minh-quang-thuyet-phap-trong-ngay-thu-4-phap-hoi-duoc-su-lan-thu-xx-92

ĐTPHMB tháp tùng BTS GHPGVN TP. Hà Nội chia sẻ yêu thương tới bà con vùng lũNgày 14/10/2025 (nhằm ngày 23/8 năm Ất Tỵ) đ...
15/10/2025

ĐTPHMB tháp tùng BTS GHPGVN TP. Hà Nội chia sẻ yêu thương tới bà con vùng lũ
Ngày 14/10/2025 (nhằm ngày 23/8 năm Ất Tỵ) đoàn Ban Trị sự GHPGVN thành phố Hà Nội do Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm - Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Trưởng Ban Hoằng pháp Trung ương, Trưởng Ban Trị sự GHPGVN TP. Hà Nội dẫn đoàn cùng chư Tôn đức trong Ban đại diện khu vực và đại diện Phật tử Đạo tràng Pháp Hoa miền Bắc đã đến tận nơi thăm hỏi, chia sẻ, động viên các tự viện và bà con nhân dân vùng chịu ảnh hưởng nặng nề của bão lũ.
Kính mời quý đạo hữu đọc tiếp bài tại:
https://phatsuonline.vn/bts-ghpgvn-tp-ha-noi-chia-se-yeu-thuong-toi-ba-con-vung-lu-20

THẤM ĐẪM GIÁO LÝ ĐẠO PHẬT TRONG NGÀY TU THỨ 3 PHÁP HỘI DƯỢC SƯ TẠI CHÙA BẰNGNgày 12/10 (nhằm ngày 21/8 năm Ất Tỵ), Pháp ...
15/10/2025

THẤM ĐẪM GIÁO LÝ ĐẠO PHẬT TRONG NGÀY TU THỨ 3 PHÁP HỘI DƯỢC SƯ TẠI CHÙA BẰNG

Ngày 12/10 (nhằm ngày 21/8 năm Ất Tỵ), Pháp hội Dược Sư truyền thống lần thứ XX tại chùa Bằng – Linh Tiên Tự (phường Hoàng Liệt, Hà Nội) đã bước sang ngày tu thứ ba đầy ý nghĩa, tiếp nối hai ngày tu học đầu tiên đầy trang nghiêm và lợi lạc.

Trong buổi sáng, đại chúng trang nghiêm cung đón Thượng tọa Thích Chiếu Tuệ – Ủy viên HĐTS, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Hoằng pháp Trung ương GHPGVN, Trưởng Ban Điều hành Lớp Đào tạo Giảng sư khu vực phía Bắc quang lâm và có thời pháp thoại chia sẻ chi tiết về 9 điều khó đầu tiên trong lời “Phật dạy về 20 điều khó” của con người được nêu ra trong kinh Tứ thập Nhị Chương và kinh Dược Sư.

Chín điều khó đầu tiên bao gồm: Nghèo khổ bố thí là khó, Giàu sang học đạo là khó, bỏ thân mạng quyết chết là khó, Gặp được kinh Phật là khó, sinh vào thời Phật là khó, nhẫn sắc dục là khó, thấy tốt không cầu là khó, bị nhục không tức là khó, Có thế lực không cậy uy quyền là khó.

Trước khi đi vào chi tiết các điều khó được nêu, Thượng tọa nhấn mạnh với đại chúng căn bản phiền não của con người, một trong số đó được nhắc đến là Ngã mạn. Đây là ỷ tài mình rồi khinh khi lấn áp người khác. Thiện tri thức là người hiểu biết, bạn tốt giúp đỡ ta trên con đường học đạo. Có ba hạng Thiện tri thức: Ngoại hộ thiện tri thức, đồng hạnh nguyện tri thức, giáo thụ thiện tri thức.

Tiếp đó, Thượng tọa giảng giải chi tiết về 9 điều khó đầu tiên mà Phật dạy, bao gồm:

1.Nghèo khổ bố thí là khó: Khi bản thân thiếu thốn, không đủ ăn mặc mà vẫn có tâm từ bỏ, chia sẻ của cải mình có được. Điều này thể hiện lòng từ bi không bị hoàn cảnh vật chất chi phối.

2. Giàu sang học đạo là khó : Người giàu có dễ bị danh lợi, tài sản, và ngũ dục (tiền tài, sắc đẹp, ăn uống, ngủ nghỉ, danh vọng) trói buộc, làm tâm trí phân tán, khó dứt bỏ để chuyên tâm tu học.

3. Bỏ thân mạng quyết chết là khó: Hy sinh mạng sống, vật quý giá nhất, để bảo vệ chân lý, đạo đức, hoặc một lý tưởng cao cả. Đây là đỉnh cao của lòng dũng cảm và đức hy sinh.

4. Gặp được lời dạy của Phật là khó: Khó thấy được chân lý của Phật, con đường Phật dạy là đi ngược với sở thích của con người nên người đời khó học đạo.

5. Sinh vào thời Phật Là khó: Hơn 2600 năm qua từ khi đức Phật ra đời đến nay chưa có vị Phật nào xuất hiện, chúng ta sinh ra trong thời mạt pháp nên không dễ gì được thân người mà lại còn được gặp Phật. Việc có nhân duyên sống trong thời Phật còn tại thế để trực tiếp nghe giáo pháp và được Ngài chỉ dạy là một phúc báu hiếm có.

6. Nhẫn sắc dục là khó: Sắc dục (tham muốn về tình cảm, khoái lạc nam nữ) là một trong những bản năng mạnh mẽ nhất của con người. Kiềm chế và nhẫn chịu được sự lôi kéo của nó là điều khó khăn nhất trên con đường ly dục. Cho nên Phật nói nhẫn được sắc dục thì đạo quả mới viên thành.

7. Thấy tốt không ham cầu là khó: Khi sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với những cảnh trần hấp dẫn, ưa thích (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) mà tâm không khởi lên lòng tham muốn, dính mắc và chiếm hữu. chính vì điều này thứ tốt là đối tượng của tranh chấp. Người tu cần tránh xa.

8. Bị nhục không tức là khó: Nhẫn nhục là công hạnh quan trọng của đệ tử Phật, sức mạnh của người tu là tâm nhẫn nhục chứ không phải là danh lợi tiền tài.

9. Có thế lực không sử dụng là khó: con người luôn có xu hướng có chỗ dựa mới an tâm, và thường dùng chỗ dựa đó để lợi cho mình và hại cho người. Nhưng với người tu chỗ dựa tốt nhất là dựa vào chính mình.

Từ đó, Thượng toạ khuyến tấn các Phật tử hãy lấy Phật pháp làm nền tảng, lấy chính kiến, chính tư duy để soi sáng hành động trong đời sống hàng ngày. Khi mỗi người biết tu sửa thân, khẩu, ý, hạn chế những việc làm xấu ác, nuôi dưỡng tâm từ bi, vị tha, thì không chỉ tự thân được an lạc mà còn góp phần xây dựng xã hội hòa bình, thế giới an lành và nhân sinh hạnh phúc đúng như tinh thần của Kinh Dược Sư.

Chiều và tối cùng ngày, dưới sự chủ lễ của Hoà thượng Thích Bảo Nghiêm, Phó chủ tịch HĐTS, Trưởng ban Hoằng pháp TƯ GHPGVN, Trụ trì chùa Bằng cùng chư Tăng bản tự, toàn thể đại chúng trang nghiêm tụng kinh Dược Sư, nhất tâm cầu nguyện cho thế giới hòa bình, đất nước phồn vinh, Phật pháp xương minh, nhân dân an lạc.
Nguồn: https://phatsuthudo.vn/tham-dam-giao-ly-dao-phat-trong-ngay-thu-ba-phap-hoi-duoc-su-tai-chua-bang/?zarsrc=30&utm_source=zalo&utm_medium=zalo&utm_campaign=zalo

Hà Nội: Trang nghiêm Pháp hội Dược Sư lần thứ XX ngày thứ 2 tại chùa BằngDưới tiết trời se lạnh cùng cơn mưa lớn ngày 11...
14/10/2025

Hà Nội: Trang nghiêm Pháp hội Dược Sư lần thứ XX ngày thứ 2 tại chùa Bằng

Dưới tiết trời se lạnh cùng cơn mưa lớn ngày 11/10/2025, đông đảo Phật tử Đạo tràng Pháp Hoa miền Bắc tiếp tục trở về chùa Bằng – Linh Tiên Tự (phường Hoàng Liệt, Hà Nội) để nghe pháp thoại và tụng kinh Dược Sư hồi hướng công đức nguyện cầu người người được an vui, muôn nơi được thái bình thịnh trị trong ngày tu thứ 2 của Pháp hội Dược Sư lần thứ XX.
Đúng 7h30, toàn thể Hội chúng đã nhất tâm cung thỉnh Hòa thượng giảng sư Thích Huệ Phước – Ủy viên thường trực HĐTS, Phó trưởng Ban thường trực Ban Hoằng pháp TW GHPGVN, Phó trưởng Ban thường trực BTS GHPGVN thành phố Huế quang lâm pháp tòa, có thời pháp thoại ngắn với chủ đề: “12 hạnh nguyện của Đức Phật Dược Sư và sự phù hợp với hoàn cảnh xã hội ngày nay” đến đại chúng trong pháp hội.
Bên cạnh 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà xây dựng cảnh giới Tây phương Cực Lạc, Ngài Quan Âm Bồ Tát với 32 lời nguyện thì Đức Phật Dược Sư đã xây dựng cảnh giới Tịnh độ Cực lạc tại phương Đông bằng 12 lời nguyện vô cùng thiết thực cho cuộc sống của mỗi người.
Các Phật tử hãy nỗ lực khắc ghi thường xuyên, nỗ lực tinh tiến không bao giờ dừng nghỉ để chất liệu Dược Sư trong con người được phát triển một cách tốt đẹp, được giải thoát, tăng trưởng phúc đức. Tham gia Pháp hội Dược Sư, người tu tập cần phải nhớ 2 từ “tinh tiến”, nỗ lực để thấm sâu, tiếp nhận năng lực để chất liệu Dược Sư ngày một phát triển và dẫn đến giải thoát… chữa cho được nỗi khổ tinh thần bằng niềm tin, bằng dược liệu tâm linh.
Sau đó, Hòa thượng Giảng sư đã ân cần giảng giải cho hàng Phật tử hiểu rõ ý nghĩa 12 lời nguyện của Đức Phật Dược sư gồm:
1. Nguyện ánh sáng chiếu tâm:
Mong muốn ánh sáng của trí tuệ, tâm linh được toả khắp để thấy được thiện ác, nhân quả, để thấy tội mà tránh, thấy phúc lạc, thấy vô minh mà dẹp bỏ, thấy trí tuệ mà phát triển… có niềm tin nhân quả, hồi phúc để từ đó khai sáng cho tâm của chúng sinh.
2. Thân tướng viên mãn, trang nghiêm, trong sáng như ngọc lưu ly:
Mỗi người cần lưu ý thân tướng để tự nhắc nhở phúc đức, công đức của bản thân để được thân tướng, nết hạnh tốt đẹp, trang nghiêm từ bên trong và hiện ra hình tướng bên ngoài. Tất cả đều nhờ công đức tu tập, thân tâm làm điều tốt, giúp ích cho mọi người, cho đời.
3. Ban đủ nhu yếu vật chất:
“An cư lạc nghiệp”, an cư không chỉ là ngôi nhà để che mưa, che nắng, mà còn có gạo, nước, điện, vật dụng… vậy nên sống cần phải biết san sẻ, hỗ trợ, cung cấp nhu yếu vật chất với những người xung quanh. Nhìn lại bản tâm, thương ghét để thấy sự khác biệt và đi đến “Vô nhiên tại tự”, tức tấm lòng từ bi không đòi hỏi điều gì, thương mến không phân biệt.
4. Nguyện hướng thiện và hành thánh đạo:
Ở đời có những người biết lẽ phải để đi, để sống nhưng cũng có rất nhiều người lầm đường lạc lối. Nhưng Đức Phật dạy với họ đáng thương hơn đáng trách. Chúng ta cần biết thương họ nhiều hơn, hướng dẫn theo con đường hướng thiện, hành thánh đạo, bồ đề tâm dù bất kể màu da, tôn giáo nào.
5. Giúp chúng sinh giữ giới trong sạch:
Lời nguyện nhắc nhở người tu hành cần lưu tâm, sát cánh bảo vệ, che chở, khuyến thiện giúp những người bạn đồng tu không phá giới, thối thất bồ đề tâm, đứt gánh không còn lún sâu vào tội ác bằng tài đức của mình. Là tấm gương để người xung quanh thấy được cần giữ giới trong sạch. Không nên vì sơ suất, yếu kém về giới hạnh của người mà khinh thường, nguyền rủa mà phải tập theo hạnh nguyện của Đức Phật Dược Sư. Nếu sơ suất có thể sám hối, làm lại và sống có đạo đức để nghiệp chướng tiêu trừ, sống đời sống phạm hạnh.
6. Nguyện giúp người khuyết tật, bất hoạn được lành bệnh:
Phật tính bình đẳng, ai cũng có khả năng thành Phật, thậm chí cái xấu bên ngoài hay cái đẹp bên ngoài chưa chắc đã thể hiện tuyệt đối phẩm chất bên trong. Có đức tin, có niềm tin là cội nguồn của mọi công đức, làm ra phúc đức nên đừng vì cái xấu cái đẹp mà so đo, hơn thua, có sự gần xa. Sống phải có tâm niệm đến gần với từng người, bởi mỗi người đều có tâm Phật tính. “Phúc tuệ lưỡng toàn phúc tạo Phật”, có phát triển từ bi, có phát triển trí tuệ để làm công đức mới có cơ hội thành Phật.
7. Nguyện cứu khổ, giải thoát nghèo đói:
Trong luật có câu: “Nhất thiết chúng sinh, giai vị ẩm thực” – sống không thể không ăn, không uống, có ăn, có uống mới có thể nuôi dưỡng thân người. Vì vậy đạo hữu Phật tử khi thấy người nghèo, đói khổ, vật chất thiếu thốn hãy chia sẻ dù chỉ là chút ít trong khả năng của mình. Điều đó góp phần cứu khổ cho chúng sinh và cũng là thể hiện tinh thần “Tương thân tương ái”, “Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách” của người Việt Nam từ xa xưa tới nay.
8. Nguyện cứu chúng sinh khỏi tà đạo, tà kiến:
Chúng ta là người thực hành chính đạo, cần hướng dẫn người lầm đường lạc lối trở về với chính đạo, Chính pháp và nuôi lớn niềm tin chính kiến với Tam Bảo.
9. Nguyện cứu thân người nữ:
Đức Phật là người đầu tiên tiên phong cho đấu tranh bình đẳng giới. Người thành lập Ni đoàn giúp họ có cơ hội thăng tiến về phạm hạnh, và có đủ khả năng giúp cho xã hội ngày càng văn minh, tốt đẹp hơn. Ta không được coi thường người nữ, bảo vệ Phụ nữ khỏi những thiệt thòi như Đức Phật từng làm.
10. Nguyện cứu khổ trong lao ngục, thiệt mạng:
Tai nạn, thiên tai lũ lụt, dịch bệnh, lao ngục, bao hiểm nguy luôn rình rập trong cuộc đời luôn đến với người bất hạnh, kém phúc đức. Vì vậy, chúng ta tu tập, mong rằng sự nỗ lực tu tập để phúc đức ngày càng cao, đây là lá chắn bình an trong mỗi cuộc đời mỗi người. Từ đó, ta giúp đỡ, quan tâm đến những người không có điều kiện như mình.
11. Nguyện cứu chúng sinh khỏi đói khát ôn dịch:
Ngay khi lũ lụt, ôn dịch xảy đến, những người con Phật luôn sẵn sàng đóng góp, chia sẻ nỗi khổ niềm đau với những người đang đói khát, ôn dịch, nan y.
12. Nguyện chúng sinh đắc giải thoát tối hậu:
Lời nguyện sau cùng này Đức Phật chỉ cho ta thực hiện hạnh nguyện nào cũng phải ra ngoài khổ đau, quay về chính đạo, có niềm tin Tam Bảo, nhân quả tội phúc. Từ đây ta không làm ác, cố gắng làm lành.
Cuối cùng, Hòa Thượng nhấn mạnh:
Mười hai đại nguyện của Đức Phật Dược Sư là con đường tu tập và chuyển hóa tâm thức của mỗi người. Mong rằng, trong 7 ngày tham dự Pháp hội Dược Sư, các Phật tử sẽ lập nguyện thực hiện theo 12 hạnh của Ngài trong cuộc sống mỗi ngày. Muốn biết có hiệu quả hay không, mỗi người cần nhìn vào bên trong để thấy có chuyển biến tâm thức hay không. Người trì niệm danh hiệu Đức Phật Dược Sư, tụng kinh, cúng dường đều là thắp lên tâm sáng suốt chân lý của mình, thoát ra ngoài khổ đau.
Muốn có xã hội bình yên, gia đình hạnh phúc, ta cần nuôi dưỡng tâm từ bi, trí tuệ và tinh thần trách nhiệm. Xây dựng hòa bình, khao khát hòa bình thì trước hết mỗi con người đều tự mình xóa bỏ hận thù, ích kỷ để tình thương được lan tỏa, mình với người là một, không có ngăn cách, chia ly. Có như vậy, cũng chính là ta đang chuyển hóa tâm thức của chính mình, tu học theo hạnh Đức Phật Dược Sư.
Buổi trưa, đại chúng vân tập tại trai đường, thực hiện nghi thức cúng Ngọ, dùng cơm trong trong sự biết ơn và tâm hồn tĩnh lặng an trú.
Đầu giờ chiều, Đại đức Thích Thanh Tâm – Ủy viên Thường trực Ban Hoằng pháp Trung ương GHPGVN đã quang lâm pháp tòa ban bố thời pháp thoại tới toàn thể đại chúng.
Trong bài giảng, Đại đức Giảng sư chia sẻ: Trên phương diện tu học trong đời này, phải có sự phòng hộ thân tâm để những tâm hành xấu, nhưng hạt giống xấu không đi vào trong con người của mình.
Người xưa nói rằng: bệnh từ miệng mà vào, họa từ miệng mà ra. Nghĩa rằng các bệnh có từ con đường ăn uống đi vào. Và còn rất nhiều các bệnh vào cơ thể mình không phải từ miệng, mà từ con mắt, từ sự tiếp xúc về thân, từ tai cũng mang những căn bệnh vào để nuôi dưỡng những hạt giống xấu ác đó. Khi phát tâm tu tập, các Phật tử khi ra ngoài phải cẩn thận các quan sát, nhận thức của mình.
Để phòng hộ những căn bệnh sinh khởi, bảo hộ thân thì trong đời sống phải phòng hộ các căn. Âm thanh nào là âm thanh nuôi dưỡng Chính pháp để chúng ta phải lắng nghe? Con mắt này nhìn cái gì để nuôi dưỡng hạt giống thiện trong con người mình? Đó là cách thức mình phòng hộ tai họa đến với thân. Là người tu học, ta phải cẩn trọng để bảo hộ thân và tâm. Từ đó, dần tránh xa tai họa về thân, nuôi dưỡng hạt giống thiện, suy nghĩ thiện, thì lời nói sẽ là chất liệu của hòa ái, của nhẹ nhàng.
Tu Phật chính là phòng hộ thân tâm. Chất liệu giúp chúng ta nuôi dưỡng, phòng hộ được thân tâm đó là chất liệu của Chính niệm. Nếu một người sống thất niệm, không ý thức được là mình đang sống, thì rất khó có được sự phòng hộ này. Thất niệm có nghĩa là sống mơ màng, thân xác ở đây nhưng tâm hồn ở nơi khác. Là bóng đêm không thể soi chiếu.
Khi phòng hộ thân thì cũng là đang phòng hộ tâm. Chính niệm là ánh sáng. Khi ngồi tụng kinh, có ánh sáng của chính niệm soi chiếu, đọc lời kinh đến đâu ý nghĩa lời kinh đó sẽ hiện lên trong tâm tư.
Ánh sáng chính niệm lớn mạnh sẽ soi chiếu vào các hành động, lời nói và suy nghĩ của mình, để biết những điều gì không phù hợp với Chính đạo. Ý thức chính niệm sẽ giúp ta soi chiếu, phòng hộ thân tâm.
Muốn có năng lượng chính niệm lớn thì phải giữ giới. Bởi giới chính là những điều giúp ta cẩn thận trong khi sống, những oai nghi giúp mình trong đời sống tu học. 5 giới là nền tảng căn bản để ta bước lên cấp bậc cao hơn. Từ giới, khiến mình định tĩnh, từ định khiến ta có được tuệ.

Khi phòng hộ được thân và tâm thì đó cũng chính là Đức Phật Dược Sư đang ở ngay trong chính bản thân mình để nuôi dưỡng, phòng hộ mình và thấy được thân khỏe, tâm an, sống nhẹ nhàng, xa rời cõi tạm trong an lành.
Nếu không phòng hộ thân tâm mà để danh lợi, tài sắc, ăn uống ở ngoài bám vào, thì mình sẽ bị sa ngã trên con đường tu học. Người tu cần hộ trì sáu căn, đi đứng nằm ngồi trong chính niệm, trau dồi tam vô lậu học Giới, Định, Tuệ; vào ra cười nói tướng đoan nghiêm. Sự tu tập không phải ở một phương trời nào xa mà chỉ trong đời sống hằng ngày.
Đại đức hy vọng, các Phật tử không chỉ trì tụng kinh Dược Sư, mà cần nương theo lời kinh và thực tập theo công hạnh của Phật Dược Sư, với sự tín tâm và lòng thành kính; giữ giới để bảo hộ được thân và tâm của mình, để được thăng tiến trên con đường tu tập. Khi chất Phật bên trong mình trỗi dậy, sẽ góp phần lan tỏa ra giữa xã hội, khiến Tịnh độ hiện tiền ngay trên nhân gian này.
Nguồn: https://phatsuthudo.vn/ha-noi-trang-nghiem-phap-hoi-duoc-su-lan-thu-xx-ngay-thu-2-tai-chua-bang/

Address

Số 63 Phố Bằng Liệt. Phường Hoàng Liệt, Quận Hoàng Mai
Tp Hanoi
XR79+5FHOÀNGMAI,HÀNỘI,

Telephone

+84966699682

Website

http://www.chuahuenghiem.net/

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Đạo tràng Pháp Hoa Chùa Bằng posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Business

Send a message to Đạo tràng Pháp Hoa Chùa Bằng:

Share

Category