Tĩnh Thủy

Tĩnh Thủy Vạn vật đều có vết nứt, đó là nơi ánh sáng chiếu vào

60.Thu Linh đích thân đi ra nơi đóng trại quân Gia Lâm, ròng rã đi hơn một ngày đêm thì tới, đoạn đứng trên mỏm núi cao ...
17/07/2025

60.

Thu Linh đích thân đi ra nơi đóng trại quân Gia Lâm, ròng rã đi hơn một ngày đêm thì tới, đoạn đứng trên mỏm núi cao nhìn xuống dưới, thấy doanh trại san sát, núp dưới cây rừng, có rào giới nghiêm. Linh nhìn thấy các trại xếp đặt có vẻ cũng chưa được đúng phép cho lắm, đoạn lặng thật lâu trên núi chờ thì thấy hết canh mới có điếm gác thay người, mà cũng không được mau lẹ cho lắm, xem chừng Trịnh tướng quân nói đúng, kẻ thù còn đang đi thăm dò, thật là không phòng bị.

Mấy ngày ấy vào mùa mưa trên Gia Lâm, gió rít mưa gào cả đêm, Thu Linh cứ lặng đứng trên đỉnh núi như thế nghe ngóng quan sát, xong xuôi thì ngầm gọi Tiểu Thử tới. Tiểu Thử bảo rằng:

- Quả là chủ nhân chúng không có ở đây, quân sĩ đi lâu xa vợ con, mỗi đêm chúng em đều vào hầu hạ, bọn chúng đã quen mùi rồi.

Linh cười bảo:

- Chúng không biết lần này đi đánh hồ ly sao?

Tiểu Thử đáp:

- Chắc chúng nghĩ đánh người Mường là chính, mà có nghĩ ra được thì đêm hôm ở núi rừng, mưa gió tơi bời thế này, bên chén rượu nóng có mỹ nữ vui thú bên cạnh, thì biết được gì nữa.

Mấy con hồ ly đều cười ầm lên.

Đoạn Tiểu Thử nói lại được cho Linh nghe hết đường đi lối tắt vào trại lính, rồi bảo:

- Em nghe ngóng được Vu Đạt đi về Thiện Tài, mấy ngày nữa mới về đây, có khi là đi xin viện binh đấy, mau mau báo cho Trang tướng quân dốc sức đánh nó thì được sớm, khi chúng nó về tới đây là khó hơn.

Linh im không nói gì.

Kế đêm hôm sau Linh ăn mặc lả lướt, thoa son tô phấn, mắt lúng liếng xinh đẹp, trông như tiên nữ giáng thế. Tiểu Thử đem rượu vào trong trướng đã quen, đêm ấy dẫn Linh cùng vài con hồ nữa vào mua bán dâm trong trại cho quân lính, không có ai nghi ngờ gì.

Tiểu Thử trỏ vào một trại lớn, nói:

- Kia là trại của viên tướng tên là Hắc Manh mà em kể đó. Người này lĩnh quản hơn bốn đội (khoảng gần tám trăm quân), là một kẻ vũ dũng khét tiếng, có sức khỏe phi thường, cũng nắm được nhiều việc nhưng mà nghiện rượu, mê gái, ưa nịnh. nếu khéo léo có thể nên việc đấy.

Thu Linh gật đầu đáp:

- Được.

Thế rồi bọn hồ chia ra đi tiếp rượu các trại, riêng Linh thì bỏ vài đồng bạc ra lót tay cho thằng mối (là kẻ dẫn khách điếm đến cho bọn tướng sĩ), Tiểu Thử đem Linh cùng đến trại đội trưởng. Viên tướng trong trại là Hắc Manh mới nhìn thấy Thu Linh và Tiểu Thử bước vào thì hai mắt sáng rực, cười nói:

- Ở đâu ra thế kia?

Tên mối đáp:

- Thưa tướng quân, mới đến hầu lần đầu. Hôm trước tướng quân nói muốn hai người, nên con này dẫn bạn tới.

Linh đưa mắt lấm lét sợ sệt nhìn ngó liếc quanh, Tiểu Thử giật mạnh vạt áo, nghiến răng trừng mắt quát Thu Linh:

- Trong trại quân không được nhìn quanh quất. Bị nghi là gián điệp thì chết đó.

Linh rúm người lại, mắt sợ lộ rõ nhìn viên tướng, đầu hơi cúi.

Lời quát cố tỏ ra cho nhỏ tiếng nhắc riêng, nhưng lại vừa đủ to cho viên tướng nghe được, hắn phá lên cười nói:

- Đúng là mới đến lần đầu thật, rất là khờ khạo. Ta rất thích non tơ như thế, hôm nay một người là được rồi.

Nói đoạn đuổi Tiểu Thử ra ngoài, Linh bối rối sợ hãi thì tên mối đã đẩy vào trong, rồi trừng mắt nhìn. Tiểu Thử lưu luyến chốc nhát, viên tướng ném xuống đất cho mấy quan tiền, Tiểu Thử lưỡng lự cầm nhặt lấy, gật đầu với Thu Linh rồi lui ra ngoài. Thu Linh còn đang lóng ngóng chưa biết thế nào thì tên mối lại xô về phía Hắc Manh, rồi vội đi lùi bước ra.

Linh loạng choạng muốn ngã, Hắc Manh vươn tay ra đỡ lấy. Bàn tay con nhà võ to chắc như gọng kìm, xiết lấy mông Thu Linh, rồi ghì vào người thô bạo. Người Linh run lẩy bẩy nói:

- Để em hầu rượu tướng quân. Việc chăn gối chưa thử qua bao giờ, xin hãy nhẹ tay.

Hắc Manh đáp:

- Được, đêm hãy còn dài.

Rồi cười thống khoái, đoạn ngửa người ra thụ hưởng. Linh đem rượu nóng đã hâm ra rót mời, xong đoạn múa hát làm vui, Hắc Manh rất thích cô kĩ nữ đa tài nghệ, mắt cứ nhìn Thu Linh không rời. Linh múa điệu thiên nga chầu sơn, lại múa điệu phượng hoàng ngoạn thủy, váy áo thướt tha, tay chân mềm mại, Hắc Manh nhao lên muốn ôm lấy mấy lần mà linh khéo léo vờn ra, lại múa hát khúc uyên ương.

Kế rồi bước lại nơi giàn khí cụ, mắt đảo đưa các món nào sáo, nào đàn. Hắc Manh hỏi:

- Xứ Thổ Chu khỉ ho cò gáy, chỉ toàn Mán Mường, lại có người đa nghệ thế sao? Nàng chơi được thứ gì?

Linh đáp:

- Thứ gì thiếp cũng chơi đôi chút được.

Manh bảo:

- Ta thích tiếng đàn cầm, nàng hãy chơi một khúc tùy ý. Nếu chơi vừa ý ta, sẽ thưởng lớn nhiều bạc, không còn phải lo cơm gạo.

Linh tùy ý lấy cây đàn cầm, tiếng đàn cầm vang lên, đoạn chương đầu thì cung thanh thì cao vút như tiếng trẻ thơ ấu gọi đòi bầu sữa mẹ, đoạn chương sau càng lúc thì càng trầm, cung trầm xuống ỉ ôi như điệu nước non trầm hùng mà đau buồn khôn tả. Tiếng đờn nghe lúc thì thiết tha, lúc lại sởn g*i ốc. Hắc Manh ngây người lắng nghe, rượu uống liên tục, có lúc cũng rơi nước mắt theo tiếng đàn đấy. Rồi bất giác hỏi:

- Hay quá, là khúc nhạc gì?

Thu Linh nói:

- Khúc này gọi là “Vong quốc ca”, chính em đã viết ra đấy.

Manh hỏi:

- Cớ sao là “vong quốc”?

Thu Linh chợt thảng thốt giật mình như nhớ ra điều gì, quăng đàn xuống đất, rồi chạy vội lại trước trướng rút thanh kiếm đeo bao trên giáp trụ Manh để trên giá, toan đâm cổ. Manh lao vụt xuống nhanh như con cắt, giật lấy thanh kiếm ném đi, Thu Linh quỳ mọp xuống khóc, nói:

- Trong lúc ngẫu hứng tùy ý làm mà không nghĩ, nói ra sợ phải tội, nên tự tìm đường chết thì hơn.

Manh ôm lấy vỗ về, bảo:

- Ta đã bảo đàn hay thưởng lớn, thưởng vẫn chưa ban, sao lại trách tội? Nàng cứ nói đi!

Thu Linh rấm rứt nước mắt thưa:

- Bọn kĩ nữ rẻ tiền hầu hạ quân lính mà có kẻ tinh thông âm luật viết ra được ca từ sắc bén da diết sao? Tài nghệ này mà phải đi làm kĩ nữ sao?

Manh nói:

- Đúng là thế!

Linh lại khóc đáp:

- Bởi thiếp là tiểu thư con nhà thế gia, mấy năm nay binh lửa triền miên, quan đại nhân họ Lục ở trên cao không thấu cảnh dân tình, cứ sai tướng mạnh đến đánh nhau liên miên ở đất này, khiến cho nạn gươm giáo không dứt, giặc Mường bị dẹp là phúc lớn của nước nhà, nhưng mà giáo gươm không mắt, khó trách có người thường dân cuốn theo mà chết. Năm ngoái Lục Báo công tử dẫn quân chinh phạt xuống đây, cha mẹ thiếp đều chết vì nạn binh đao cả rồi, nhà cửa làng mạc đều thành bình địa, thiếp bị quân lính hiếp đáp, mới phải vùi thân vào chốn nhà chứa đấy. Bởi ai oán mà tự viết ra bài ‘vong quốc ca”, biết nói ra phải tội, nhưng nghĩ đến cha mẹ, vậy đành chết.

Nói rồi lại cố sức giằng lấy thanh kiếm. Hắc Manh ôm ghì Thu Linh vào lòng, vứt kiếm đi, rồi nói:

- Ta có thể hiểu được. Lục Báo là kẻ con nhà có quyền, nó cậy cha nó là đại thần nên mới được giữ chức thống soái chứ có tài cán gì? Nó chỉ hiếu sát, không biết ngăn chặn quân lính giết càn. Chứ nếu là ta làm thống soái, thì làm gì mà dân bị chịu khổ lây như thế?

Linh thấy Hắc Manh có vẻ không phục lắm, lại hỏi:

- Năm nay vị ấy lại đến chăng?

Manh đáp:

- Lần này là Vu Đạt.

Linh hỏi:

- Vị ấy có hung dữ như vị kia không? Nhà thiếp chẳng còn người nào để cho quân lính giết nữa đâu, chỉ còn mạng liễu này thôi.

Manh nói:

- Bọn công tử con nhà quyền quý với nhau nên tranh tài nhau đấy, xem chiến trường là trò chơi đánh đố, chứ đều một lũ trẻ ranh vắt mũi chưa sạch.

Linh khoác tay vào cổ Hắc Manh, vuốt ve bộ râu rậm, tay lại dâng lên rượu, nói:

- Quan thống soái họ Vu, mà quan đại thần họ Lục, sao lại là công tử quyền quý cùng nhà được?

Manh uống một hơi cạn, rồi bảo:

- Quan cậu là người minh trí, vậy mà càng già càng lẩn thẩn, lại đi tin chuyện quỷ thần. Vu Đạt là con người bạn cũ đã chết, bởi vậy mà nhận nuôi về rồi bổ cho làm tướng, lại truyền trong ba quân là trước khi ra trận có thần nhân hiện về nói phò trợ cho Vu Đạt, nên để hắn cầm quân.

Thần nhân hiện về, chắc là Vu Chấn. Nhưng nhớ hồi xưa gặp nhau, Chấn còn sống thân phận nghèo hèn, còn phải bị bức bách đánh đập gần chết, phải nương nhờ bà lão ăn xin hàng xóm cho cháo cầm hơi, làm sao mà lại quen biết làm bạn cũ với Lục Nghị được? Còn việc thần nhân hiện về, là do Vu Chấn ngầm về mách, rồi Lục Nghị nhân đó phao lên trong quân để thêm thanh thế mà thôi…

Thu Linh ngẫm nghĩ, rồi bảo:

- Hai công tử ấy ghét nhau lắm sao?

Manh gật đầu, Linh liền rót rượu cho tới tấp, rồi nói:

- Ngài mới thực có khí chất bậc đại thần tướng, lại hết sức biết thương dân, kể mà ngài tiếp quản đất này, thì bách dân được nhờ cậy. Chắc là trong nhà họ Lục, chỉ có ngài là có thần võ.

Hắc Manh nói:

- Bậc đại tướng trong Lục gia phải kể đến Triệu lão tướng quân Triệu Chân, ta chỉ là học trò.

- Triệu tướng quân giờ ở đâu?

Manh nói:

- Vị ấy xuất thân làm cướp, ngày còn hàn vi lỡ đắc tội với bên nhà vợ của Lục gia, cắt mũi chị vợ Lục gia là Tô Như Cơ, Như Cơ lại là dâu nhà tướng quân họ Phạn, về sau họ cứ đến làm khó dễ mãi, lão tướng quân sợ gây vạ đến nhà chủ nên tự bỏ ra vùng Hương Xuân làm nông rồi, thật đáng tiếc.

Nói rồi chép miệng thở dài.

Thu Linh âu yếm trườn lên, bảo:

- Vậy thì giờ ngài là nhất đẳng tướng quân còn gì.

Hắc Manh nghe lời ngọt ngào ấy vui lòng lắm, quẳng cây đàn cầm sang bên, kế xé đồ Thu Linh ra, bế nàng lên giường. Thu Linh cầm vò rượu đổ lên người, mùi rượu thơm hòa với mùi da thịt thơm tho khiến người ta đê mê ngây ngất, Hắc Manh vồ lấy thân thể Thu Linh mà liếm láp hơi rượu, liền dính phải yêu thuật say ngà, đê mê khoái lạc. Linh biết nhiều trò trên giường, yêu chiều đến từng lỗ chân lông, không trò gì bẩn thỉu mà không làm cho đàn ông, khiến Hắc Manh một đêm biết thế nào là cõi thiên thai nhân thế, đoạn cứ chuốc rượu, rồi hỏi việc quân cơ, lại hỏi việc riêng trong Lục gia, hỏi gì, đều được nói đó.

59.Kế Vu Đạt nói việc đang đi đánh giặc Thổ Chu, nhưng hiện đang tạm ở xa đất giặc mà đóng quân, mới thư thả thời gian l...
16/07/2025

59.

Kế Vu Đạt nói việc đang đi đánh giặc Thổ Chu, nhưng hiện đang tạm ở xa đất giặc mà đóng quân, mới thư thả thời gian lo cho xong việc nhà, bấy giờ phải quay trở lại đất đóng quân lo việc ngay. Phan Lâm hỏi:

- Tôi nghe nói người làm tướng, nhận mệnh của bề trên ra hành quân, dẫn binh đi ngang qua cổng nhà, cha chết cũng không vào thắp hương. Vậy sao nay vì gặp được mẹ mà bỏ lỡ cả việc quân cơ mà đi, có đúng phép binh hay không?

Đạt cười đáp:

- Anh nói đúng lắm, nhưng mỗi người có sự diệu cơ khác nhau, tùy đó mà hành xử chứ không thể xem các việc như một được. Như ở Hạ Bì, Tháo giết Lữ Bố, mà kế ở Hoa Dung, Tháo lại tha Vân Trường, sao thế? Chúng đều là hàng tướng, mà đối xử khác nhau, vì chúng khác nhau đấy.

Nói rồi xin cáo từ lên đường. Phan Lâm hẹn ở lại hai ngày để chiêu tập dũng sĩ, rồi sẽ cùng đến hội quân đánh Hồ Ly, Đạt ưng lời rồi đi ngay.

Lời Đạt nói cũng chẳng ăn nhập gì với việc Phan Lâm nói, chẳng qua cũng chỉ do còn trẻ con lụy tình, dù tài đến mấy cũng chẳng tránh khỏi chữ tình trong đó nên gác việc quân mà lo việc riêng cha mẹ đấy thôi. Phan Lâm là kẻ hào kiệt, hỏi rất là đúng việc. Đạt đuối lý mà nói lấp liếm như vậy, Lâm chắc là biết nhưng cũng nể chữ hiếu nên không bắt bẻ nữa đấy thôi.



Lại nói tới Ngũ Thu Linh ở trên Liên Sơn, sau ngày gặp Vu Chấn, biết con trai Chấn sắp đem quân đến thì trong lòng cũng lo sợ, lúc nào cũng căn dặn bọn Trang Páo và các thuộc tướng phải hết sức phòng giữ. Nhưng bọn người Mán chúng đánh đâu được đó, trong dạ cũng hả hê, chẳng còn biết lo sợ gì, suốt ngày chè chén trên núi, rồi lại thả quân sĩ vào thành bắt gái đẹp về chơi, lòng người trong thành cũng hơi nghiêng ngả. Thu Linh biết việc ấy rất nguy, nhưng cũng chỉ là đàn bà đứng sau Trang Páo, mấy lần ngăn quân sĩ đều bị chúng khó chịu ra mặt, cũng không dám làm căng với chúng nữa sợ mất lòng. Linh bèn ngấm ngầm tổ chức ra các đội trạm, mỗi đội hai mươi người và mười ngựa khỏe, lại sai mỗi con Hồ Ly làm chủ một đội, chia ra đi thị sát cách thành đến tận hai mươi dặm. Khi có bóng quan quân thì phải tức tốc về báo. Thu Linh có phép hồ trạm, chia đội trạm ra nửa, một nửa do thám, một nửa chuyển tin về, cứ liên tục như thế bất kể ngày đêm, ai mà bỏ ca trạm thì phạt rất nặng, các hồ lại di chuyển rất nhanh, nên tin tức thông suốt hàng ngày, từ đó mới được vững dạ.



Một hôm trời có mưa, Linh đang ngồi uống rượu cùng Trang Páo và bọn thủ hạ, có một viên trạm trưởng Hồ Ly là Tiểu Thử đi do thám ở xa, khi ấy chợt về cáo cấp, bước thẳng vào trong trướng. Thuộc tướng Mường là Sùng Lan đã uống ngà say, đứng dậy trỏ thám tử quát:

- Nơi đây là trướng tướng quân, ai cho bọn Hồ tụi bay chạy xộc vào đây thế?

Thu Linh nghe thế đã giận đỏ cả mặt, Trang Páo biết ý cười can ngăn, nói:

- Tướng quân chớ nói thế, là phạm đấy.

Sùng Lan mới liếc mắt nhìn lại Thu Linh, cười bảo:

- Đó là rượu nói, không có ý gì, phu nhân chớ giận nhé.

Nói rồi phá lên cười, bọn tướng lĩnh cũng che miệng cười theo khúc khích. Thu Linh giận lắm, răng nghiến ken két, hai mắt long lên sòng sọc nhưng nín hơi làm thinh, trong giây lát sắc mặt điều hòa như không có gì, quay hỏi Tiểu Thử:

- Có chuyện gì?

Tiểu Thử cả người vẫn còn ướt sũng bởi dầm mưa đi xuyên đêm, nói:

- Nghe thám báo về rằng, có doanh trại quân đội đóng cách ba mươi dặm, cho người do thám đi vào sâu hơn mười dặm, rồi ở yên đó không động gì. Tôi đi xa vào trong đất đóng quân ấy trực tiếp thị sát, thấy rất nhiều trại lính, mỗi trại năm mươi quân. Quân sĩ ngủ trong rừng, chắc kể tới vài ngàn, mang hiệu quân Gia Lâm.

Linh sợ hãi làm rơi cả ly rượu trên tay xuống đất, đứng bật dậy khỏi chỗ ngồi, hỏi:

- Chủ tướng chúng họ Vu chăng?

Tiểu Thử đáp:

- Tôi sai Hồ ly giả làm kỹ nữ đi vào trong trại mua rượu, chúng nói Đại tướng họ Vu tên Đạt, nhưng trong mấy ngày người đi kiểm tra các trại là viên tướng họ Thương, tên Hoàn, không thấy Vu Đạt đâu cả.

Lại hỏi:

- Vì sao chúng đóng quân ở xa thế?

Tiểu Thử đáp:

- Bọn lính không biết được, chỉ nói hạ trại chờ lệnh mới tiến.

Thu Linh nghe thế, nét mặt sa sầm có nét chẳng vui, đứng dậy khỏi bàn rượu. Trang Páo níu áo Thu Linh lại nói:

- Tiệc đang vui mà nàng đi đâu? Lục Nghị đã sai người đến Liên Sơn này biết bao nhiêu lần rồi? Lần nào ta cũng đánh bại chúng hết, nên lần này chúng sợ mà chưa dám tiến phát thôi. Nàng không nghe con hồ này nói hay sao? Đi đánh nhau mà đóng xa như thế không tiến, chủ tướng thì lẩn trốn để phó tướng trông trại, thật là hèn hạ.

Đoạn trỏ xuống Tiểu Thử, nói:

- Mi đi vào trại chúng nó, nói phao lên rằng. Trang Páo đang kéo quân ra đánh, có Lục Nghị đích thân đến đây, chúng tao cũng giết chết. Tự khắc giặc tan vỡ.

Nói rồi cười lên ha hả, bọn chư tướng đều cười theo, tiếp tục uống rượu không hề lo sợ chút gì.

Thu Linh giằng áo ra khỏi tay Páo, bước xuống rất vội, nói với Tiểu Thử:

- Quay trở lại trạm canh, sai hai đội đi sát vào trại của chúng nó, chờ khi có hiệu lệnh của ta.

Tiểu Thử nhận lệnh, bước ra khỏi trướng ba bước, lập tức hóa thành con chồn, hòa vào trong mưa đi ngay ra tiền tuyến.

Thu Linh rời khỏi trướng đi về phòng riêng.

Trong phòng nghỉ của linh không có lụa là gấm vóc gì, chỉ có đơn sơ một chiếc bàn gộc và một ổ rơm nằm quấn, chẳng có chăn ấm nệm êm hay các thức đồ cao sang quyền quý nào, khác xa phòng các tướng, còn không bằng phòng của bọn thị nữ hầu hạ, thậm chí còn chẳng bằng nơi nghỉ trong động của quân lính. Linh mỗi ngày đều nằm trên ổ rơm, uống nước lá, ăn lá cây rừng, để nhắc cho không khi nào quên mối thù diệt tộc.

Bấy giờ bước lại cuối phòng nơi có một chiếc bàn thờ gỗ mộc, khắc chìa ra khỏi một thân cành cây lớn đâm xuyên lên mái nhà, trên bàn thờ thờ một chiếc gương lớn và một hình nhân bằng vải màu đỏ thẫm, thắp lên ba nén hương lớn trước gương, khấn lạy rằng:

- Thưa Trịnh tướng quân, giặc đã tới.

Sau cỡ ba hồi, trên hương án từ từ có cảm ứng, cây hương đã tắt đi phân nửa, thì từ trong gương dần dần trồi ra một bóng đen, bò lan trên mặt bàn thờ như vũng laayfkhoong nhìn rõ nhân dạng chỉ thấy lộ ra hai con mắt sâu hoắm màu đỏ lửa nổi bận lên trên nền khói bóng màu đen. Giọng nói từ từ vang lên trong bóng:

- Có phải con trai viên phán quan không?

Thu Linh cung kính chắp tay đáp:

- Phải, nhưng hiện hắn không ở trong doanh, chẳng biết thế nào.

Chiếc bóng nói:

- Ngươi hãy đích thân đi vào doanh của nó, nên xem xét kẻ nào xao lãng mà dùng mĩ nhân kế dò thử thực hư của chúng. Mặt khác sai tướng chuẩn bị quân sĩ, hãy tiến đánh chúng trước.

Thu Linh nói:

- Liên Sơn là nơi dễ thủ khó công, thành trì ở đây là nơi khó chống, nếu rời xa thành trì mà đi về hướng giặc, chẳng khác gì đi sâu vào nơi trống trải, sợ quân bị nguy.

- Giặc chưa tiến là để thăm dò chứ không phải sợ ngươi, nếu nó sợ thì nó phòng, nếu nó thăm dò thì nó xao lãng. Giặc cũng nghĩ như ngươi, nên chắc không ngờ ngươi đánh trước. Lúc này mà đánh, như sấm sét đánh tới chẳng kịp bưng tai, sẽ khiến chúng phải tan vỡ.

Linh vẫn còn ngần ngừ hơi sợ, lại nói:

- Bọn thổ dân rất là ngu ngốc, lại hay phải thói hợm mình, xem thường đàn bà, xem thường hồ tộc, xem thường kẻ thù, trong mắt bọn chúng hết thảy đều chẳng ai ra gì, chỉ có chúng là nhất. Tôi sợ hỏng việc mất thôi.

Chiếc bóng cười gằn một tiếng, nói:

- Trang Páo tự cao như thế, bảo hắn đi đánh trận này tất hắn dốc sức đánh phủ đầu giặc. Cái sự kiêu hãnh là dùng cho lúc này, sẽ thắng mà trở về. Thắng về rồi lại càng kiêu, khi kiêu lên quá chắc là không toàn mạng được. Ngươi chuẩn bị đem người của Hồ tộc vào tiếp quản thành đi, khi Páo đánh xong, ngươi hãy giết hết bọn tù trưởng mà nắm quyền, ta sẽ có âm trợ.

Thu Linh nói:

- Thành trì có thể đoạt được, bọn tướng Mán đều có thể giết được, riêng Trang Páo là người có ơn sâu với thiếp, có thể toàn mạng được không?

Chiếc bóng từ từ trườn lại gần Thu Linh, đoạn vươn lên đứng thẳng như người, lộ ra hình hài là một viên tướng quân trẻ tuổi, hai mắt sáng như sao, mặc áo bào màu trắng. Vị ấy bước lại sát bên, Thu Linh cảm nhận được hơi thở lạnh buốt phả vào cổ gáy, vị ấy vén tóc mai Thu Linh lên nói:

- Ngươi yêu hắn rồi à?

Thu Linh cúi đầu đáp:

- Không dám như thế.

Viên tướng quân buông tóc Thu Linh ra, nói:

- Phải, người cưu mang mình lúc khốn khó, mà sau được như ý thì mình giết hại là bất nghĩa. Có thể để hắn sống.

Thu Linh vâng dạ, cúi đầu lĩnh mệnh, lòng lúc này đã vững. Chiếc bóng thoáng chốc biến mất, tan nhập vào chiếc gương trên án thờ, không còn một vết tích gì.

58.Con trai cả nhà họ Phan tên là Phan Lâm là một tay hào sảng nổi tiếng trong vùng, nhà họ Phan nuôi nhiều hương binh, ...
15/07/2025

58.

Con trai cả nhà họ Phan tên là Phan Lâm là một tay hào sảng nổi tiếng trong vùng, nhà họ Phan nuôi nhiều hương binh, đều do người này trông coi, quản tới mấy làng, quan huyện trong Thiện Tài cũng không dám đụng đến. Phan Lâm là người nghĩa khí, lại rất yêu thương người nhà, Phan Liên từ khi sinh ra đã bị bệnh, người cứ như mộng du, không nói chẳng cười, Lâm càng thương, đi đâu cũng rất lo cho em gái. Tới khi Phan Liên chết, Phan Lâm mới từ bên ngoài về đến phủ, lập tức cho giữ bọn người Vu Đạt lại hỏi cho ra nhẽ việc em gái. Bọn người trong nhà kể lại việc kì lạ tiểu thư họ Phan gặp được Vu Đạt thì đột nhiên nói cười như thường, rồi kể lại việc kiếp trước, kế sau mới xin thành hôn rồi chết, người nhà đều thỏa ý thì mới cử sự. Lâm nghe xong không tin, bảo bọn người nhà:

- Bây giờ thiên hạ loạn lạc, bọn yêu ma thầy pháp có rất lắm trò hèn mạt. Có khi chúng thấy nhà ta có của, nên đến bày ra trò yêu, hại chết em ta để kiếm ít đồng tiền mai táng, vàng bạc được thưởng nuôi thân.

Nói rồi vẫn cho giam bọn Vu Đạt lại, rồi vào thắp hương cho em gái, khấn rằng:

- Trên đời có nhiều việc chí dị, trong đời thì có hai việc lớn là việc hỉ và việc tang. Em trong một ngày, cưới chồng xong rồi chết, thật là chuyện lạ. Nếu thực tình đúng là được toại ý mà như thế, xin mộng cho anh hay để khỏi cắn rứt, nếu không phải thế, anh sẽ chém đầu hết bọn lừa bịp này trả thù cho em.

Đến đêm hôm đó, Phan Lâm ngủ canh bên linh cữu em, thì thấy có yêu khí bốc vào nhà, quan tài lay động, rồi trong cơn mộng mị thấy hiện ra một chiếc xe kiệu, có lính lệ gác hai bên đi vào, trước xe có một bà già dẫn.

Lâm bật dậy rút kiếm, thì trong xe kiệu bước ra hai người, một người uy nghi thần vũ, mặc áo nhà quan, khuôn mặt tro xám, ánh mắt sáng quắc, đội mũ miện, lưng thắt đai. Người bên cạnh là nữ nhân mặc áo trắng dài, mi thanh mục tú, yêu kiều thướt tha, tay bám lấy tay vị nhà quan kia. Lâm nhìn lại, thì người nữ đó chính là em gái, vứt kiếm xuống đất mà khóc.

Phan Liên bước lại, lạy anh mà rằng:

- Cha chết rồi thì anh trưởng như là cha, lẽ ra em nên xin thưa với anh mới dám lấy chồng nhưng công việc gấp rút, người đến đón dâu chỉ ở được có mấy ngày, lễ nghi còn không có đủ, còn anh thì ở xa nên em chưa tiện báo mà cho người nhà cử sự trước, mong anh thứ lỗi.

Lâm đỡ em dậy, thấy người lạnh toát, nhưng chẳng hề sợ, nói rằng:

- Việc ấy không ngại, chỉ ngại bọn thuật sĩ giang hồ. Sự thể thế nào, xin em nói cho anh yên lòng.

Phan Liên đáp:

- Anh chắc chưa biết trên đời có việc Minh Hôn (người ma lấy nhau). Mười chín năm trước, em là ma, tên là Tứ Nương, lấy chồng em là người, tên là Vu Chấn. Về sau bởi lẽ âm dương không hợp mà không ở được, đã có lời hẹn ước mười chín năm sau xin được bên nhau mãi mãi, rồi kế em đi đầu thai, làm em gái yêu của anh. Tới nay chồng em là ma, quay lại đón em là người mà đi đấy. Nhưng âm dương bất hòa, nay chết rồi, mới có thể theo chồng đi được. Xa anh em rất đau lòng, nhưng nếu mà còn sống thì cũng chỉ như cái xác người, còn hồn phách gửi ở thân cây tầm gửi mọc trong miếu hoang tiền kiếp, như thế sống có nghĩa lý gì? Vậy chi bằng làm chim uyên ương (loài chim hết sức chung thủy, nếu một con chết, con kia buồn bã chán nản, nhịn ăn nhịn uống rồi cũng chết theo, không có người bạn đời khác), đi theo chồng chuyến này cho trọn tình phu thế. Vậy nếu anh có thương em, xin anh chớ có đau buồn.

Bấy giờ vị thần quan kia bước lại bên cạnh Phan Liên, cũng lạy Phan Lâm một lạy, nói:

- Ta xin lạy huynh trưởng. Nay nhân duyên hội đủ, ta tới đón vợ ta đi. Kẻ đem bài vị linh cữu tới đây làm lễ, là con trai của chúng ta trong kiếp trước, nó có việc công vụ trong hai ngày nữa phải đi, xin huynh trưởng chớ gây khó dễ.

Lâm hỏi:

- Việc bọn người nhà kể là đúng hết, vậy cừu thù của các người là họ Hà ở đất An Định phải không?

Phan Liên đáp:

- Đúng thế, nếu có cơ hội thì trả thù cho em.

Lâm nói:

- Vây dưới huỳnh tuyền, xin chăm lo em ta cho được chu đáo, việc ở trần thế cứ để người trần gánh vác, ta sẽ vì hai người mà phục thù cho.

Vợ chồng cùng vái lạy, kế đó bước lên kiệu, khói tỏa mịt mù, bọn lính lệ hét vang một tiếng rồi cùng theo gió tan biến đi cả. Lâm giật mình tỉnh khỏi giấc chiêm bao, thấy vẫn đang ngồi bên quan quách em, ngọn hương vẫn đang phảng phất khói lành, lòng đau xót chợt rơi nước mắt, kế đó liền hạ lệnh thả bọn người Vu Đạt ra, bài trí cho chỗ an nghỉ.



Sáng ngày sau Phan Lâm gọi bọn Vu Đạt đến, tiếp đãi ân cần cho ăn uống thức ngon rồi tạ lỗi, kế đó hỏi dò thử việc chính sự. Đạt đối đáp rạch ròi đâu ra đấy, Lâm nhìn tướng biết không phải là người thường, cũng vì ơn nghĩa riêng mà muốn dùng, liền nói:

- Chuyện nhà ngươi thật là thương tâm, ta đã biết cả rồi. Nay ngươi vì bị thói đời ganh ghét mà chết mất cả nhà, khiến cho gia đình ly tán, rồi bị mồ côi. Ta muốn giúp ngươi trả thù nhà, cũng là để hương hồn em ta được an nghỉ, nhưng họ Hà ở trong đất giặc, uy quyền lấn át, binh mã đủ đầy, trước nhất không có cách gì đánh được. Nếu thù nhà chưa quên thì chi bằng các ngươi ở lại đây theo ta, rồi lâu dài cùng tính, ngươi thấy thế nào?

Đạt nói:

- Mồ mả cha ông tôi vẫn còn ở An Định, mối thù giết cả nhà làm sao quên được, vẫn nóng lòng muốn được phục thù. Được anh có lòng như thế tôi rất biết ơn, xin hỏi anh tính thế nào?

Lâm nói:

- Ta ở bên ngoài, rất ghét sự bất bình, thường chiêu tập dũng sĩ để lập công bằng, quan phủ cũng phải nể nang. Tới nay môn khách đã có hơn ngàn người, trông coi ba làng, không ai đụng tới được. Bây giờ đất nước có loạn, ta vẫn muốn đem số hương binh này đi theo chủ giỏi để lập chiến công cho nước, kế đó xin phục thù nhà. Đánh đất An Định, cũng là vì việc nước đấy.

Đạt nói:

- Anh nghĩ rất sâu xa, nhưng anh định theo ai?

Lâm đáp:

- Ta vẫn chưa biết.

Đạt hỏi:

- Kim Long Vương ở phía đông đất Kim Long là tay hoàng thân mà lại anh dũng, thế nào?

Lâm đáp:

- Ở phía đông, quân Kim Long mạnh như vũ bão, quân Kính Vũ là quân của ma quỷ, quân Lĩnh Sơn xâm chiếm núi rừng, chúng đều là người của nước cũ, chỉ chú tâm đánh lật mà phục thù chứ chẳng mưu việc gì cho bách dân, ta không muốn đi theo hạng ấy.

Đạt lại hỏi:

- Vậy ở phía bắc, quân Liên Sơn, quân Lạng Giang thì thế nào? Tù trưởng là Trang Páo, đánh chiếm thành trì, quy tụ người Mán, cũng là một tay hảo hán.

Lâm đáp:

- Quân người Lèo nổi dậy bám vào núi rừng rất chắc, nhưng đều chỉ là bọn người tộc, ai nói gì nghe đó, không có cơ trí. Bọn Mán Mường, hạng người Lèo ấy ta cũng không muốn theo.

Đạt nói:

- Ngó về mặt Tây thì đất An Định, Đông Gia Lâm của nhà Điền Gia, đều là bọn tráo trở ngả nghiêng, ăn lộc nước mà phản nước, tự lập làm cõi, nuôi chó giữ trong nhà, thả ra là cắn, chính là kẻ thù của ta. Nếu anh không theo các thế lực kia, vậy thì nhìn ngang nhìn dọc chỉ thấy có đất của Lục Đại Nhân ở Tây Gia Lâm là nơi có thể ở được, anh thấy ra sao?

Lâm ngẫm nghĩ hồi lâu rồi bảo:

- Lục Nghị là quan thanh liêm có tiếng, cha ông ba đời đều làm đề đốc, nay có con trai lại làm khu mật viện, mà hình như cũng có đối chọi với họ Hà. Ta cũng muốn đem quân đi theo người ấy, rồi dần dà xin ra biên cương, mà hiềm chưa có ai tiến cử, không biết cách gì.

Bấy giờ Đạt mới cười mà bảo:

- Đó là trời cho ta chuyến này hành binh đạt được thành tựu, nên mới khiến ta đến Thiện Tài đấy. Ân của thầy giỏi chỉ lối, ân của mẹ cha an bài, chính là ở chỗ đó. Ta chính là tướng nhà họ Lục đây.

Phan Lâm nghe xong giật nảy mình, Trọng Mậu bấy giờ âm thầm để ý, thấy quả đúng là người chính trực, lúc này mới bước lên, trình ra binh phù, nói:

- Vu Đạt tướng quân nhận lệnh quan tri châu Lục Nghị đi dẹp giặc Mán ở sơn động Liên Sơn Thổ Chu, chính là người trước mặt anh đó.

Lâm bật dậy khỏi chiếu, vội làm lễ phục.

57.Bấy giờ Đạt tỉnh khỏi mê mị bị yêu ám, bèn thưa lại hết mọi việc với Cù Trọng Mậu, hai thầy trò liền cùng quay lại mi...
14/07/2025

57.

Bấy giờ Đạt tỉnh khỏi mê mị bị yêu ám, bèn thưa lại hết mọi việc với Cù Trọng Mậu, hai thầy trò liền cùng quay lại miếu cũ thắp hương cho Tứ Nương, nhưng không thấy người hiện lên nữa.

Đạt nói:

- Mẹ ta đang đầu thai vào nhà ngươi con gái họ Phan ở trong đất Thiện Tài, nên mau đến rước người ấy về thờ phụng. Trọng Mậu can rằng:

- Thiếu chủ đi bây giờ thì phải lui quân lính. Quân đi đã xuất ra ngoài thành, lại đã hạ trại đóng quân, giờ vì một người phụ nữ mà lui quân, vốn là điều cấm kị, chẳng những thế còn là oan hồn, kỵ nối tiếp kỵ, đối với người cầm binh mà nói, đều không nên làm.

Đạt bảo:

- Ra binh rất kỵ phù đàn bà, nhưng mẹ ta gần hai mươi năm khôn có hương lửa, rất là tội nghiệp. Trong vạn chữ, chữ hiếu làm đầu. Nếu không giữ được hiếu, việc cang kỵ các thứ cũng vô nghĩa.

Nói rồi nhất quyết hạ lệnh lui quân đi thêm mười dặm hạ trại, còn bản thân cùng với bọn thuộc tướng thân thuộc, bọn Đại Di, Tiểu Di, Hoàn Thương, cùng đi vào trong Thiện Tài tìm người. Trọng Mậu nghĩ đi nghĩ lại, cũng xót tình. Quân đã lùi ra tới khỏi khu vực đất Thổ Chu, không còn là đất giặc nữa, Mậu bèn giao lại việc phó tướng cho thuộc tướng, rồi cũng cùng đi với Vu Đạt, căn dặn cẩn thận binh sĩ giữ kín công việc trong quân vắng chủ tướng, hẹn trong năm ngày sẽ trở về.

Bấy giờ thầy trò chủ tớ cùng đi vào trong Thiện Tài, trước nhất đi tới nha đường ở đó, quan huyện đón vào hầu huyện ngay. Đạt hỏi tới nhân khẩu người họ Phan, lại hỏi nhà ai có con gái cỡ chừng mười bảy, mười tám tuổi. Quan huyện đáp:

- Vậy thì có một người đấy, là con gái nhà Phan Quân, nhưng đứa con này đã hỏng mất rồi, từ khi sinh ra thì đã không cười không nói, chỉ nằm đó ngây dại thôi.

Đạt bảo với bọn người hầu:

- Là mẹ ta đấy.

Thế rồi lập tức tới diện kiến.

Nhà Phan Quân là nhà cường hào trong xã, trước đi buôn gỗ mà giàu, cũng có nhiều tiền của. Ông già họ Phan vốn là người khảng khái, cũng có chí, nên lập ra hương ấp rộng lớn, nuôi đến vài trăm gia nhân, thành một gia trang họ Phan. Ông ta đẻ ra được mấy người con trai, ai nấy đều có sức khỏe, có nghề võ bị, nổi tiếng hào hiệp trong vùng. Đến sau đẻ ra một người con gái, đặt tên là Phan Liên. Phan ông rất thương người con gái út này, chăm bẵm hết sức, nhưng Phan Liên lớn lên thì không được như thường, mà bị ngây dại rất là khổ sở, cả ngày chỉ ngơ ngác không nói cười gì, suốt ngày chỉ nằm trong phòng mà thôi. Bởi vậy cho nên đến năm nay đã mười chín tuổi, vẫn chưa có chồng. Phan ông kén cho gần xa, nếu ai làm hết bệnh được thì gả, người ta cũng ham lắm nhưng ai đến cũng chẳng làm nàng cười nói được.

Bấy giờ Vu Đạt tìm đến, nhưng không nói là tướng quân, nói trá đi là người đến xin chữa bệnh thôi, hỏi về triệu trứng mấy ngày trở lại, Phan ông bảo:

- Nó ngây dại đã mười chín năm từ khi đẻ tới giờ, không nói cười, nhưng vẫn đứng ngồi được, chỉ là bị ngơ ngác thôi. Đến mấy ngày trước thì bất tỉnh nhân sự, chìm vào lâm sàng, cả nhà đều tưởng là phải chết. Các thầy đến xem mạch đều bảo chuẩn bị hậu sự, thì hôm qua đột nhiên lại tỉnh được, cũng chưa biết lành dữ thế nào.

Đạt liền xin vào gặp. Phan Liên vừa nhìn thấy Đạt đã cười rất tươi, chạy lại ôm lấy, rồi chòng ghẹo đùa cợt, cả nhà họ Phan đều lấy làm lạ, muốn gả cho. Đạt bèn kể lại rằng:

- Đó là mẹ của tôi đấy. Mười mấy năm trước mẹ tôi bị người gian hại chết ở bên sông, đáng lẽ đã tán hồn mà may diêm quân lại thương tình oan ức nên cho làm si. Mẹ tôi bèn đậu thai thác vào nhà ông bà, nhưng bởi si phách vẫn còn ở miếu thờ nên thai đậu ra mà bị ngẩn ngơ do lạc phách. Mấy ngày trước có thầy tôi đến miếu thờ kêu cúng, làm động đến si, do vậy mà thai bị ngất đi, do bởi phách si ở trong thai thoát ra mà đi tìm về miếu (phách nam có bảy, phách nữ có chín, phách si cũng phân chia làm ba, nơi có xác, nơi có linh, nơi chết). Về sau kêu khấn, phách trở về xác nên tỉnh lại.

Cả nhà hỏi:

- Nên làm thế nào?

Trọng Mậu đáp:

- Việc này chắc phải nhờ phán quan quyết đoán, vì đây là vợ của phán quan đấy.

Nói rồi trong một ngày liên tục lập đàn thắp hương, làm lễ cầu hồn niệm chú, gọi lên âm binh ma quỷ, lại vẽ vời phù ấn, thảo ra quyết chú trùng ngục, cho tới khi xong xuôi cả, thì ăn chay kết giới, cùng ngồi dưới đàn mà niệm lực, chiêu hồn một vị Phán quan họ Vu. Vu Đạt biết thầy đang gọi tới cha mình lên, cũng tham gia trợ lễ.

Về sau nửa ngày đêm, nghi thức hú hồn được linh, Vu Chấn liền giáng thế trong đàn, đi cùng với bọn xe cộ, lính đầu trâu mặt ngựa, ở trước mặt Trọng Mậu nói:

- Ông dám làm tà thuật, triệu hồi đến cả Phán quan, chắc phải bị giảm chín năm tuổi thọ.

Mậu cúi đầu xin tội, Vu Chấn liền trừ đi chín năm thọ vào sổ sinh tử, bà già hầu giấy tờ lập tức chắp bút.

Bấy giờ lại đảo mắt nhìn sang người trợ lễ trong đàn, nói:

- Sáu năm không gặp, tiểu tử nhà ngươi đã lớn thế này rồi à?

Vu Đạt mừng lắm nhưng biết cha là đại quan, không dám sỗ sàng, bèn thưa lại việc gặp mẹ ở sông Quy Hóa dạo trước. Chấn nghe xong, đột nhiên lặng người không nói gì. Đạt bảo:

- Thầy gọi cha tới, bởi chúng con đã tìm được mẹ rồi, muốn cho cha gặp rồi quyết đoán.

Chấn gật đầu, nói:

- Ta đã biết.

Thế rồi dặn như thế, như thế, đoạn tan khỏi đàn.

Đêm ấy Trọng Mậu vẽ kết giới bên ngoài phòng của Phan Liên, lại đặt đồ hình và thờ lễ bên trong phòng cẩn thận, rồi đặt Đại Di cùng bọn quân canh gác bên ngoài không cho ai đến hay vào phòng.

Đến nửa đêm, Vu Chấn hiện lên trong phòng, quả nhiên phách si từ Phan Liên thoát ra, hai người mới được gặp nhau sau hai chục năm trời cách biệt.

Vu Chấn nhìn thân thể Phan Liên nằm im lìm trên giường, như bị ma làm, không hề động cựa, liền niệm chú làm phép. Kế đó Phan Liên choàng mở mắt ra, rồi ngồi dậy khỏi giường, trên thân mình trên trán vẫn còn đang dán bùa, trên búi tóc vẫn còn đang rắc gạo, làm lễ lạy rồi nói:

- Thật là khác xưa, nay chàng cũng đã vinh hiển được rồi.

Vu Chấn nói:

- Ngày xưa em đi theo ta, ta chỉ là đứa con nhà nghèo làm nghề dệt, chẳng có gì. Cả cơ đồ nhờ em mà đươc. Nay nắm quyền sinh sát trong tay, thì đã chẳng còn em nữa.

Phan Liên nói:

- Chàng có còn nhớ lời hẹn bên sông không?

Vu Chấn nhớ lại năm xưa, khi ở trên bờ nắm lấy tay Tứ Nương bấy giờ bị đuổi đánh đã gần tán phách, vất vưởng ở bờ sông năm ấy, chỉ kịp hẹn ước mười tám năm sau lại cùng kết duyên với nhau, rồi tan biến đi thành vũng nước. Đoạn gật đầu. Phan Liên nói:

- Giờ đây là lúc thực hiện lời hứa, em lại xin đi theo chàng đây.



Đến ngày hôm sau, họ Phan ăn mặc rất đẹp đồ cô dâu cho con gái Phan Liên, cô gái vẫn cứ ngơ ngơ ngây ngốc, ai muốn làm gì thì làm, không biết gì cả. Kế đó làm lễ thành thân với một bài vị, trên đề hai chữ “Vu Chấn”, việc ấy khiến cho trong vùng hết thảy rung động.

Làm lễ xong xuôi, đêm ấy Phan Liên nằm trên giường rồi mất, đem quàn cùng với bài vị phán quan, khi quàn không đổi đồ trắng mà mặc nguyên đồ hỉ như vậy.

Khi quàn xác xong, cây tầm gửi quấn quanh ngôi miếu hoang của Tứ Nương ở bờ sông Quy Hóa cũng khô héo dần rồi dụng.

Thế là sau mười chín năm cách trở, họ cũng về với nhau, giờ chằng còn là âm dương li biệt nữa rồi. Thế mới biết là một ngôi miếu thiêng, dẫu cho giá lạnh đìu hiu mười chín năm trời mà chỉ một mồi hương, quỷ cũng liền về được. Còn một người trinh tiết, giữ tiết hạnh mười chín năm, chỉ để làm tròn lời thề từ kiếp trước, cũng chẳng phải chuyện vô lý đâu.

Address


Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Tĩnh Thủy posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Business

Send a message to Tĩnh Thủy:

Shortcuts

  • Address
  • Telephone
  • Alerts
  • Contact The Business
  • Claim ownership or report listing
  • Want your business to be the top-listed Media Company?

Share