05/07/2025
Mộ Cụ Phan Thanh Giản - Vị Tiến Sĩ đầu tiên của Nam Kỳ..!
Cụ Phan Thanh Giản sinh vào giờ Thìn ngày 12 tháng 10 năm Bính Thìn (1796), tại làng Tân Thạnh, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh (sau là làng Bảo Thạnh, tổng Bảo Trị, huyện Bảo An, phủ Hoằng Trị, tỉnh Vĩnh Long; nay là xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Ông làm quan trải qua 3 triều, là Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, qua nhiều chức vụ và nhiều lần thăng giáng.
Ông cũng người đã đàm phán và chấp thuận cắt 3 tỉnh Nam Kỳ cho thực dân Pháp(Hòa ước Nhâm Tuất 1862) - Là hòa ước bất bình đẳng đầu tiên giữa Đại Nam và Đế quốc Pháp, theo đó Nhà Nguyễn phải cắt nhượng lãnh thổ 3 tỉnh Nam Kỳ gồm Biên Hòa, Gia Định, và Định Tường cho Pháp.
Hòa ước được ký ngày 5 tháng 6 năm 1862 tại Sài Gòn giữa đại diện triều Nguyễn (thời vua Tự Đức) là chánh sứ Phan Thanh Giản và phó sứ Lâm Duy Hiệp với đại diện của Pháp là thiếu tướng Bonard và đại diện của Tây Ban Nha là đại tá Don Carlos.
Hòa ước Nhâm Tuất gồm 12 điều, hai nội dung quan trọng và nặng nề nhất là triều đình Huế phải nhượng cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam kỳ và Côn Đảo với tất cả chủ quyền và bồi thường chiến phí với số tiền lên đến 4 triệu franc Pháp (tương đương 2.880.000 lạng bạc) trong vòng 10 năm. Đổi lại, người Pháp sẽ trả lại tỉnh Vĩnh Long cho triều đình Huế, nhưng kèm theo điều kiện là triều đình phải có biện pháp chấm dứt các cuộc khởi nghĩa chống lại người Pháp ở các tỉnh (khoản 11 Hiệp ước). Do chi tiết này mà dân gian có câu truyền: "Phan, Lâm mãi quốc; triều đình khí dân" (Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp bán nước; triều đình bỏ dân chúng).
Ngày 20 tháng 6 năm 1867, Pháp đánh chiếm Vĩnh Long (vốn đã được trao trả triều đình Huế ngày 25 tháng 5 năm 1863), yêu cầu ông gửi mật thư cho thủ thành An Giang và Hà Tiên buông súng đầu hàng. Trước sức mạnh áp đảo của Pháp về mặt quân sự, cho rằng không thể giữ nổi, ông đã quyết định giao thành, không kháng cự, với yêu cầu người Pháp phải bảo đảm an toàn cho dân chúng. Cho nên chỉ trong 5 ngày (20-24 tháng 6 năm 1867) Pháp chiếm gọn 3 tỉnh miền Tây(Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) không tốn một viên đạn.
Sau khi thành mất, ông gói mũ áo, phẩm hàm, kèm theo sớ tạ tội và gửi về triều. Song chờ nửa tháng vẫn không thấy triều đình hồi âm. Lo lắng rồi thất vọng, ông uống thuốc phiện hòa với giấm thanh tự sát và qua đời vào nửa đêm ngày 5 tháng 7 năm Đinh Mão, tức ngày 4 tháng 8 năm 1867, hưởng thọ 72 tuổi.
Sau khi mất con cháu đã phải lén trộm thi hài của ông về Bảo Thạnh an táng. Tương truyền sau khi đưa thi hài ông từ Vĩnh Long về Bảo Thạnh bằng ghe, người dân và con cháu chỉ đắp mộ ông bằng đất sơ sài. Sau đó, qua nhiều lần tu sửa trong thế kỷ 20 cho đến hôm nay, khu mộ có kết cấu kiến trúc khá đơn giản với bình phong, bia mộ, mộ hình voi phục, … tất cả đều mang những đặc điểm kiểu thức của người Việt gốc Hoa.
Tháng 11 năm 1868, vì làm mất Nam Kỳ, Triều đình Huế đã xử ông án "trảm quyết" (nhưng vì chết nên được miễn), lột hết chức tước và cho đục bỏ tên ông ở bia tiến sĩ.
Mãi đến 19 năm sau (1886), dưới thời Pháp thuộc, ông được vua Đồng Khánh khôi phục nguyên hàm Hiệp tá đại học sĩ và cho khắc lại tên ở bia tiến sĩ.
,