Indochinese style - Phong cách kiến trúc Đông Dương

Indochinese style - Phong cách kiến trúc Đông Dương INDOCHINESE STYLE

Một căn biệt thự với kiến trúc mái Việt Nam tại Sài Gòn.Ảnh: Gauvin Alexander Bailey
14/03/2024

Một căn biệt thự với kiến trúc mái Việt Nam tại Sài Gòn.
Ảnh: Gauvin Alexander Bailey

Đ𝐀̣𝐈 𝐇𝐎̣𝐂 Đ𝐎̂𝐍𝐆 𝐃𝐔̛𝐎̛𝐍𝐆 - 𝐏𝐇𝐎̀𝐍𝐆 𝐓𝐇𝐈́ 𝐍𝐆𝐇𝐈𝐄̣̂𝐌 𝐂𝐔̉𝐀 𝐄.𝐇𝐄𝐁𝐑𝐀𝐃Không phải ngẫu nhiên mà sự ra đời của công trình Đại học Đô...
05/07/2023

Đ𝐀̣𝐈 𝐇𝐎̣𝐂 Đ𝐎̂𝐍𝐆 𝐃𝐔̛𝐎̛𝐍𝐆 - 𝐏𝐇𝐎̀𝐍𝐆 𝐓𝐇𝐈́ 𝐍𝐆𝐇𝐈𝐄̣̂𝐌 𝐂𝐔̉𝐀 𝐄.𝐇𝐄𝐁𝐑𝐀𝐃

Không phải ngẫu nhiên mà sự ra đời của công trình Đại học Đông Dương được coi là một bước ngoặt trong lịch sử ở xứ thuộc địa, cả trên bình diện xã hội lẫn kiến trúc.

Năm 1906, Đại học Đông Dương ra đời theo quyết định của Toàn quyền Đông Dương Paul Beau (ký ngày 16.5.1906). Quyết định thành lập Trường Đại học Đông Dương ở thời điểm đó cũng là một vấn đề được nhiều người quan tâm. Theo tác giả Arnauld Le Brusq trong “Việt Nam qua kiến trúc thuộc địa” thì đây là hệ quả của sự thất bại về chính trị, bởi việc phá bỏ nền giáo dục truyền thống và sự chiến thắng của Nhật Bản trước Nga là những nguyên nhân thúc đẩy thanh niên Việt Nam, những người bị các nhà nho chống lại giới thực dân như Phan Bội Châu, người theo chủ nghĩa dân tộc kêu gọi lên đường Đông Du, tức là theo học tại các trường đại học của đất nước mặt trời mọc – ngôi nhà hiện đại kiểu Châu Á. Một số nhà sử học trong nước cũng cho rằng việc Pháp mở trường là nhằm thu hút giới nho sĩ Việt Nam, hạn chế học sinh Việt Nam sang Nhật du học theo phong trào Đông Du đang nổi lên do Phan Bội Châu lãnh đạo . Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng Paul Beau và người tiền nhiệm của ông ta là Paul Doumer coi trường đại học cũng như hệ thống đường sắt, cầu cống, đường xá mà họ xây dựng ở vào thời điểm giao nhau của thế kỷ XIX và XX.

Công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp tại Đông Dương lần 2 (1919 – 1929) đã làm thay đổi bộ mặt Hà Nội nói riêng và Đông Dương nói chung. Tuy nhiên, người Pháp cũng nhận ra rằng việc áp đặt một cách cứng nhắc những giá trị văn hoá chính quốc vào một xứ sở vốn có truyền thống văn hoá lâu đời gây nên nhiều bất cập. Theo kiến trúc sư Trần Quốc Bảo trong “Phong cách kiến trúc Đông Dương những tìm tòi đầu tiên theo hướng hiện đại và dân tộc”, đây chính là bối cảnh thúc đẩy xu hướng mong muốn kết hợp hài hoà giữa văn hoá phương Đông và phương Tây, giữa văn hoá bản địa và chính quốc đã diễn ra ở nhiều lĩnh vực mà kiến trúc là một trong những lĩnh vực đi tiên phong. Trong “Việt Nam qua kiến trúc thuộc địa”, tác giả Arnauld Le Brusq đã dẫn lại lời của một nhà cải cách giáo dục (Albert Sarraut – người viết) khi phản đối phong cách kiến trúc do Sở Công thự phổ biến ở thời điểm đó như sau: “Sau 3 năm vắng mặt, khi trở lại mảnh đất Đông Dương, tôi vô cùng đau đớn khi nhận ra rằng bên cạnh những công trình mang phong cách nghệ thuật bản địa, người ta áp đặt lên đó là một sự đối đầu tàn nhẫn, những cục bê tông cốt thép và bản sao kiến trúc Muy-ních đã lấn át quyền thể hiện khả năng sáng tạo theo thị hiếu của người Pháp”. Những dòng trên đây đã khơi dậy mong muốn về một bản sắc kiến trúc riêng cho Đông Dương – một trọng trách được giao cho Ernest Hébrard, người đã biến dự án xây trường thành một “phòng thí nghiệm” thực thụ.

Toà nhà chính của khu Đại học Đông Dương do kiến trúc sư E.Hébrard thiết kế là công trình kiến trúc đầu tiên theo phong cách kết hợp kiến trúc kinh viện Châu Âu với các thành phần và giải pháp kiến trúc bản địa (mà Ernest Hébrard – Kiến trúc sư hàng đầu của phong cách này, gọi là phong cách Kiến trúc Đông Dương) ra đời tại Hà Nội .

Theo Arnauld Le Brusq, trước khi kiến trúc sư Hernest Hébrard đặt chân đến Hà Nội lần đầu tiên (1922), các đồng nghiệp của ông là Charles Lacollonge và Paul Sabrié đã trình lên Toàn quyền đề xuất xây dựng công trình Đại học Đông Dương và đã được Toàn quyền thông qua. Thậm chí khi đó, việc xây móng và chân công trình với việc đóng gần 2.000 cọc gỗ lim đang trong giai đoạn hoàn thành.

Nhờ vòng hào quang của Giải thưởng La Mã, Hébrard được trao quyền chỉ đạo toàn bộ ê kip thi công công trình, ông tạm dừng thi công công trình này và hướng việc nghiên cứu của mình theo phong cách Châu Á. Tuy nhiên, việc thay đổi phong cách kiến trúc cần thời gian lâu hơn để chín muồi, nếu so sánh với những gì Felix Durnail đã trải qua trong các giai đoạn liên tiếp khi xây dựng chi nhánh ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn.

Ernest Hébrard tập trung vào tính thẩm mỹ và không quá coi trọng cách bài trí – yếu tố khớp nối khu tiền sảnh đã bị mái vòm lấn át với một hội trường hai tầng, một thư viện và rất nhiều phòng làm việc. Bản vẽ mặt đứng cùng nhiều mặt cắt ký tên Sabrié, ghi thời gian lập 1924 và được phê duyệt thi công ngay năm đó vẫn mang dáng dấp của những bức vẽ lấy cảm hứng từ thế kỷ 18 ở Pháp với sự lấn át của các không gian khánh tiết, mái vòm khổng lồ cùng tháp sáng, các trang trí hình vòm xuất hiện cách quãng tại hành lang lưu thông và những bức tượng đối xứng hai bên lối vào.

Nhưng các bản vẽ cũng thể hiện quyết tâm của Hébrard – người đã chính thức trở thành Giám đốc Sở Kiến trúc và Quy hoạch đô thị năm 1923 trong việc thay đổi dáng dấp của tòa nhà. Lúc này, ông hướng thiết kế công trình về các mô hình của Trung Quốc, bắt đầu từ công trình nổi tiếng nhất là hoàng cung thuộc Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh. Kết quả là tòa nhà bị Hán hóa một cách dè dặt với một ô văng loe ra trên đệm cửa của mái vòm, với những lớp mái chồng xếp giống như hệ mái bậc thang và tháp sáng có dáng dấp như một nóc phù đồ, mái đua như đường cúp góc ở các hành lang của kiến trúc Trung Hoa.

Mùa hè năm 1924, việc thi công (giao cho Hãng Aviat) được tiến hành trở lại dựa trên những cơ sở mới này. Nhưng Hébrard chưa ngừng trăn trở, ông yêu cầu sửa bản vẽ nhiều lần, chủ yếu bởi kiến trúc sư Gaston Roger để đạt được điều mà sau này ông gọi là “phong cách Đông Dương”, nhưng ở thời điểm đó mới chỉ ở dạng thai nghén.

Công văn trao đổi, các thông báo về thay đổi kích thước, đơn thư khiếu nại của chủ thầu bị dừng thi công do không có bản vẽ chính thức, việc phá hủy một phần công trình đã cho thấy quy mô thử nghiệm của dự án. Thực vậy, quan sát công trình hoàn tất là thấy được tầm vóc của các thay đổi. Mái vòm bị thay thế bằng lầu tứ giác trên chồng 2 lớp mái nặng nề, góc cạnh rõ ràng. Mái đua lúc này đã rõ dáng dấp của các lan can tạo thành từ nhiều cột nhỏ thân vuông, xen kẽ các bức phù điêu chạm khắc và đục lỗ thường chạy quanh sân các đền đài ở Châu Á. Tác giả của dự án ban đầu – kiến trúc sư Sabrié phản đối việc thay đổi và nhiều lần cảnh báo về nguy cơ lạc điệu giữa “chủ nghĩa cổ điển” của ông và phong cách Trung Hoa.

Đến tham quan Đại học Đông Dương, chúng ta sẽ thấy nhiều dấu tích của sự đối nghịch trong thiết kế kiến trúc, chẳng hạn như việc xây thêm cổng nhỏ trên cổng vòm lớn ở mặt sau hay ở phần nội thất khi vẫn giữ mái vòm giả và hàng cột ở tiền sảnh. Những thử nghiệm của Hébrard không chỉ gây phiền phức cho các kiến trúc sư bởi ngay từ năm 1921, họa sĩ Victor Tardieu đã phác thảo một dự án trang trí phù hợp hoàn toàn với chủ nghĩa kinh viện xung quanh. Mái vòm phải tiếp nhận những biểu tượng của Khoa học, Nông nghiệp, Kỹ nghệ và Thương mại. Do trí tưởng tượng bộc phát, họa sĩ đề nghị sơn dòng chữ “La France apportant à sa colonie les bienfaits de la civilisation” (Nước Pháp mang đến cho xứ thuộc địa những lợi ích của nền văn minh) và đối lại “L’Indochine faisant hommage à la France de ses richesses” (Đông Dương cảm phục nước Pháp vì sự giàu có). Ngoài ra, trên bức tường chính của hội trường, ông dự kiến vẽ một loạt chân dung của những người sáng lập Đại học Đông Dương: Paul Doumer, Paul Beau, Albert Sarraut và Maurice Long, xung quanh là các cộng sự của họ.

Theo kiến trúc sư Trần Quốc Bảo, công trình Đại học Đông Dương có thể được coi là thử nghiệm đầu tiên của E. Hébrard theo phong cách kết hợp nên còn thiếu sự ăn nhập giữa nội – ngoại thất công trình. Tuy nhiên với hình khối được tổ chức chuẩn mực theo tinh thần cổ điển kết hợp với các hình thức trang trí mặt đứng theo tinh thần Á Đông, toà nhà chính Đại học Đông Dương có thể coi là công trình tiên phong của trường phái Kiến trúc Đông Dương, một sự kết hợp thành công bước đầu giữa kiến trúc nói riêng và văn hoá phương Đông và phương Tây nói chung ở Hà Nội.

Hoàn thành vào năm 1927, Đại học Đông Dương đặt dấu chấm hết cho sự tồn dư của kiến trúc cổ điển và đánh dấu sự trỗi dậy của nghệ thuật lai tạp nơi phương Tây và phương Đông gặp gỡ.

Theo: Trung tâm lưu trữ Quốc gia I

Đông Dương ở Sài Gòn - 1955
23/04/2023

Đông Dương ở Sài Gòn - 1955

Phải công nhận 1 điều rằng các nhà làm phim rất nghiêm túc khi nghiên cứu về văn hoá, họ tái hiện bối cảnh 1 cách vừa ch...
25/05/2022

Phải công nhận 1 điều rằng các nhà làm phim rất nghiêm túc khi nghiên cứu về văn hoá, họ tái hiện bối cảnh 1 cách vừa chính xác vừa nghệ thuật. Ta có thể thấy điều này ở những The Godfather, Titanic, hay như bộ phim được đề cử cho hạng mục Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 66 - Mùi đu đủ xanh.

Mặc dù đặt bối cảnh ở Việt Nam mà cụ thể là ở Sài Gòn thập niên 1950, nhưng Mùi đu đủ xanh lại được quay trong phòng âm tầng tại Boulogne, Pháp. Ồ, Pháp, 1 yếu tố gắn liền với Đông Dương, 1 cách không thể tách rời. Sự lãng mạn của văn hoá Pháp góp phần làm nên 1 không gian Đông Dương trong Mùi đu đủ xanh thêm phần đậm đà, ngọt ngào, đầy thi vị.

Phong cách Đông Dương - Style Indochinois - Indochinese Style tuy chỉ xuất hiện ngắn ngủi trong khoảng nửa thế kỉ nhưng nhiều bộ phim đã phục dựng lại 1 cách xuất sắc cho dù phim được quay ở Việt Nam, Pháp, hay Malaysia... Để trở về với hoài niệm Đông Dương, ngoài Mùi đu đủ xanh thì ta có thể tìm thấy ở những tựa phim:
- Đông Dương – Indochine (1992)
- Người tình – L’Amant (1992)
- Người Mỹ trầm lặng – The Quiet American (2002)

HÌNH BỘ THƯỢNG THƯ TÔN THẤT ĐÀNTôn Thất Đàn (尊室檀), tự Hinh Nhi (馨兒), hiệu Lạc Viên Thị (樂園氏), là danh thần triều Nguyễn....
30/04/2022

HÌNH BỘ THƯỢNG THƯ TÔN THẤT ĐÀN
Tôn Thất Đàn (尊室檀), tự Hinh Nhi (馨兒), hiệu Lạc Viên Thị (樂園氏), là danh thần triều Nguyễn. Ông sinh ngày 28/2/1871 (tức 10/1 năm Tự Đức thứ 24) tại xã Lại Thế, tổng Đường Anh, huyện Phú Vinh, phủ Thừa Thiên (nay là huyện Phú Vang, Thừa Thiên Huế), ông xuất thân trong gia đình Tôn thất nhà Nguyễn, là hậu duệ của Cương Quận công Nguyễn Phúc Trân (阮福溱) con thứ ba của chúa Nguyễn Phúc Tần (阮福瀕) thuộc hệ thứ năm của Hệ Tôn Thất.
QUAN LỘ
Năm 1899, ông nhậm chức tri huyện Bình Khuê, tỉnh Bình Định. Sau đó nhậm chức tri huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Năm 1907 (Duy Tân nguyên niên), thăng chức làm Tri phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Năm 1910, thăng làm Phủ thừa Thừa Thiên. Năm 1913, điều làm Án sát sứ tỉnh Quảng Bình.
Năm 1916 (Khải Định nguyên niên), điều làm Án sát sứ Quảng Nam. Năm 1917, thăng làm Bố chánh sứ Nghệ An. Năm 1919, làm Bố chánh sứ Bình Thuận. Năm 1920, thăng làm Tham tri Bộ Binh. Năm 1922, làm Tuần phủ Bình Trị, hàm Tổng đốc. Năm 1923, thăng làm Tổng đốc An Tĩnh.
Năm 1927 (năm Bảo Đại thứ 2), bổ nhiệm làm Thượng thư Hình bộ, sung Cơ mật viện Đại thần. Tháng 1 năm 1925, kiêm nhiếp Tôn nhân phủ vụ đại thần. Năm 1929, thăng làm Hiệp Tá Đại học sĩ, lĩnh Thượng thư Hình bộ, sung Cơ mật viện Đại thần, miễn kiêm chức kiêm nhiếp Tôn nhân phủ vụ đại thần. Năm 1930, phong Hiệp tá Đại học sĩ. Năm 1933, ông làm đại biểu Thuận Hóa, xuất sứ sang Pháp.
Ngày 2 tháng 5 năm 1933, vua Bảo Đại cải tổ nội các, ông nghỉ hưu mang chức Hiệp tá Đại học sĩ. Ngày 1 tháng 8 năm 1933, ông được phong tước Phò Nhơn Nam (扶仁男).
Ông qua đời vào năm 1936, thọ 66 tuổi, được truy tặng tước vị Đông Các Đại học sĩ. Gia đình ông là “Danh gia vọng tộc”, hậu duệ của ông ngày nay đều chức giữ chức vụ cao trong các Bộ ngành, khối các cơ quan nhà nước, Giáo sư, Tiến sĩ…vv.
Cùng chiêm ngưỡng thần thái của Đông các Đại học sĩ Tôn Thất Đàn, và các vị đồng liêu qua bộ ảnh tư liệu rất quý này nhé…
——————
Ảnh tư liệu được tô màu bởi Đại Nam Phục Ảnh

Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varenne.Alexandre Varenne (1870 – 1947) là một nhà báo và chính trị gia người Pháp.  Var...
28/02/2022

Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varenne.

Alexandre Varenne (1870 – 1947) là một nhà báo và chính trị gia người Pháp. Varenne nhận chức vụ Toàn quyền Đông dương từ tháng 7-1925 đến tháng 1 năm 1928. Ông sinh tại Clermont-Ferrand, Pháp, sang nhậm chức Toàn quyền ở Đông Dương vào ngày 28 tháng 7 năm 1925 lúc 55 tuổi. Ông là đảng viên Đảng Xã hội Pháp. Khi toàn quyền Merlin bị nhà cách mạng Phạm Hồng Thái thuộc Việt Nam Quang phục hội giết hụt ở Sa Diện, (Trung Quốc) thì Paris cử Varenne sang chấp chính hầu xoa dịu tình hình ở Đông Dương. Ông được xem là một Toàn quyền có ý thức nhân đạo với đường lối tương đối cấp tiến hơn các tiền nhiệm. Một trong thành tựu của Varenne là chính sách chích ngừa dịch tả, cải cách học chính, và thành lập các Viện Dân biểu Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Trong nhiệm kỳ của Varenne có 2 sự kiện chính trị nổi bật là phong trào đấu tranh đòi ân xá cụ Phan Bội Châu và phong trào tổ chức lễ truy điệu cụ Phan Châu Trinh. Varenne cũng xuất hiện trong truyện ngắn ” Những trò lố hay Varenne và Phan Bội Châu” của Nguyễn Ái Quốc.

VIỆN PASTEUR - INSTITUT PASTEUR Viện Pasteur (Institut Pasteur) Hà Nội do kiến trúc sư Roger Gaston thiết kế năm 1926 là...
04/01/2022

VIỆN PASTEUR - INSTITUT PASTEUR
Viện Pasteur (Institut Pasteur) Hà Nội do kiến trúc sư Roger Gaston thiết kế năm 1926 là một trong bốn viện nghiên cứu vi trùng học ở Đông Dương thuộc viện Pasteur Paris.
Công trình được khởi công xây dựng năm 1927 trên một khu đất rộng tới 3 ha và có hình ngũ giác, được án ngữ bởi các tuyến phố Baronna (phố Yersin ngày nay), Armand Rousseau (phố Lò Đúc) và Voie No. 163 (phố Nguyễn Cao), phía trước là một vườn hoa nhỏ sau này cũng được đặt tên là Pasteur.
Mặt bằng tổng thể được bố trí theo dạng phân tán, ngoài toà nhà chính dành cho công tác nghiên cứu còn có nhiều công trình phù trợ như chòi gác, nhà tiêm, chuồng gia súc lớn, chuồng gia súc nhỏ. Trên khu đất còn có biệt thự của viên giám đốc và nhà ở cho nhân viên quản lý công trình.
Toà nhà chính cao 3 tầng là một công trình mang tính nhiệt đới hoá điển hình thời Pháp thuộc ở Hà Nội. Nhà được bố trí theo hướng Bắc – Nam với hệ thống hành lang bên ở phía Nam vừa dón được gió mát tránh gió lạnh, đồng thời giảm bức xạ mặt trời chiếu lên mặt nhà.
Mặt bằng công trình được bố trí kiểu đối xứng qua trục trung tâm gồm ba tầng. Cách bố trí mặt bằng tương đối giống nhau ở cả ba tầng: sảnh nằm chính giữa, các phòng làm việc bám theo hành lang bên rộng tới 2,5m, hai đầu hồi là các phòng làm việc có hành lang nhỏ quay ra các hướng Đông và Tây tạo ra không gian chuyển tiếp che chắn bức xạ mặt trời. Phía dưới còn có một tầng trống cao 0,5m để cách nhiệt chống ẩm cho sàn tầng 1.
Giao thông theo phương đứng toà nhà được đảm trách bởi một hệ thống gồm ba cầu thang: cầu thang chính nằm ngay sau chính sảnh có hình móng lừa, hai cầu thang phụ được bố trí ở các hồi nhà...
Viện Pasteur là một công trình nghiên cứu khoa học lớn thời Pháp thuộc, được thiết kế đáp ứng đầy đủ công năng nghiên cứu hiện đại kiểu phương Tây nhưng được bọc trong lớp vỏ kiến trúc phương Đông, rất phù hợp với khí hậu và cảnh quan đặc trưng địa phương, ngày nay đã trở thành một di sản, một công trình kiến trúc nhiệt đới hoá điển hình ở Hà Nội.
TÊN GỌI CỦA VIỆN QUA CÁC THỜI KỲ:
• Viện Pasteur Hà Nội: 1925-1945
• Viện Vi trùng học (1945-1946): Theo Sắc lệnh luật số 41 ngày 03 tháng 10 năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh
• Viện Pasteur Hà Nội: 1946-1957
• Viện Vi trùng học: 1957-1961
• Viện Vệ sinh Dịch tễ học Hà Nội (1961-1998): Theo Quyết định số 291/BYT-QĐngày 25 tháng 3 năm 1961 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc sát nhập Viện Vi trùng và Viện Vệ sinh thành Viện Vệ sinh Dịch tễ học.
• Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương (1998- nay): Theo Quyết định số 230/1998/QĐ-TTg ngày 30 tháng 11 năm1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc sắp xếp các cơ quan nghiên cứu triển khai khoa học và công nghệ thuộc Bộ Y tế.

Nhà Thuỷ Tạ - Con thuyền lãng mạn bên Hồ GươmCông trình này đã được xây dựng cách đây gần 100 năm. Vào thời điểm năm 193...
29/11/2021

Nhà Thuỷ Tạ - Con thuyền lãng mạn bên Hồ Gươm
Công trình này đã được xây dựng cách đây gần 100 năm. Vào thời điểm năm 1935, Đốc lí Hà Nội Virgitti đã từng nhận thấy tổng thể khu vực này rất xấu xí, không ăn nhập gì khi đặt trong phối cảnh với Tháp Bút vốn làm say lòng người. Mỗi tối, nhìn từ phố Paul Bert (nay là đoạn phố Hàng Khay), thì góc phố này rất thiếu ánh sáng còn ban ngày thì cảnh sắc không được đẹp mắt.
Để làm đẹp các góc của Hồ Gươm, Đốc lí đã đưa ra ý tưởng về một cuộc thi tuyển để xây dựng một quán trà hoặc cà phê với kiến trúc phù hợp khung cảnh nơi đây và có thêm du thuyền qua lại tô điểm cho công trình.
Ý tưởng của Đốc lí được triển khai. Toàn thể thành viên Hội đồng thành phố đánh giá việc xây dựng một Nhà Thuỷ Tạ ở đại lộ Beauchamp sẽ làm đẹp Hồ Hoàn Kiếm và họ đã nhất trí thông qua dự án tổ chức thi tuyển nhà thầu xây dựng và khai thác công trình này. Một Ủy ban được thành lập để nghiên cứu mời thầu xây dựng và khai thác Nhà Thuỷ Tạ gồm Đốc lí làm chủ tịch và các thành viên Hoàng Trọng Phu, Tổng đốc Hà Đông, cựu Tổng đốc Nguyễn Năng Quốc, các uỷ viên Hội đồng Thành phố Lesterlin, Trần Văn Lai, Lacollonge và Kiến trúc sư Lagisquet làm thư kí.
Công trình được thiết kế bởi 2 Kiến trúc sư: KTS Võ Đức Diên và KTS Nguyễn Xuân Tùng*.

ĐẠI HỌC ĐÔNG DƯƠNG - 𝗜𝗡𝗗𝗢𝗖𝗛𝗜𝗡𝗘𝗦𝗘 𝗨𝗡𝗜𝗩𝗘𝗥𝗦𝗜𝗧𝗬Hồ sơ lưu trữ từ Trung tâm Lưu Trữ Quốc Gia I.
26/11/2021

ĐẠI HỌC ĐÔNG DƯƠNG - 𝗜𝗡𝗗𝗢𝗖𝗛𝗜𝗡𝗘𝗦𝗘 𝗨𝗡𝗜𝗩𝗘𝗥𝗦𝗜𝗧𝗬
Hồ sơ lưu trữ từ Trung tâm Lưu Trữ Quốc Gia I.

𝗜𝗡𝗗𝗢𝗖𝗛𝗜𝗡𝗘𝗦𝗘 𝗨𝗡𝗜𝗩𝗘𝗥𝗦𝗜𝗧𝗬2 chữ nhỏ trên án thư vòm cửa là "Cách Trí", nói tắt của Cách vật trí tri 格 物 致 知 (truy cứu tới cù...
25/11/2021

𝗜𝗡𝗗𝗢𝗖𝗛𝗜𝗡𝗘𝗦𝗘 𝗨𝗡𝗜𝗩𝗘𝗥𝗦𝗜𝗧𝗬

2 chữ nhỏ trên án thư vòm cửa là "Cách Trí", nói tắt của Cách vật trí tri 格 物 致 知 (truy cứu tới cùng cái lí của sự vật).

Ngày 16/5/1906, Toàn quyền Paul Beau đã ký ban hành Nghị định số 1514a thành lập Đại học Đông Dương - Thiết chế đại học hiện đại đầu tiên ở Việt Nam.

PGS.TS Lê Kim Long, Hiệu trưởng trường ĐH Giáo dục – ĐH QGHN cho biết, Đại học Đông Dương ban đầu gồm có 5 trường thành viên theo tiếng Việt là: Trường Luật và Pháp chính; Trường Khoa học; Trường Y khoa Đông Dương; Trường Xây dựng dân dụng và Trường Văn khoa.

Trong quá trình phát triển, nhiều ngành nghề mới được mở ra cho phù hợp với nhu cầu xã hội. Đây chính là cái nôi góp phần xây dựng nên rất nhiều lĩnh vực học thuật hiện đại cho Việt Nam như Y, Dược, Mỹ thuật, Luật…

Có thể khẳng định, ý nghĩa lịch sử của ĐH Đông Dương không chỉ là ở vị trí một thiết chế đại học đầu tiên, mà nó có đóng góp đáng kể cho việc hình thành một số lĩnh vực học thuật mới ở Việt Nam.
Có nhiều nhà Cách mạng Việt Nam tiền bối như: Đặng Xuân Khu – đã từng là sinh viên Trường Thương mại thuộc ĐH Đông Dương, sau này trở thành Tổng Bí thư Đảng Lao động Việt Nam Trường Chinh; Võ Nguyên Giáp – sinh viên khoa Luật, ĐH Đông Dương, sau này trở thành Đại tướng Tổng tư lệnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam…

Chùm ảnh: Khám phá Đại học Đông Dương ở Hà Nội thập niên 1920Sau rất nhiều cuộc viễn du, Trường Y khoa và Đại học Đông D...
25/11/2021

Chùm ảnh: Khám phá Đại học Đông Dương ở Hà Nội thập niên 1920

Sau rất nhiều cuộc viễn du, Trường Y khoa và Đại học Đông Dương hợp lại thành một quần thể kiến trúc. Theo yêu cầu của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, Alexandre Yersin cho thành lập Trường Y khoa vào năm 1902. Toà nhà đầu tiên được xây dựng vào năm 1904 trên đại lộ Bobillot (nay là phố Lê Thánh Tông), đây chính là hạt nhân của trường đại học tương lai.

Năm 1918, vua Khải Định đã tới thăm trường. Năm trước đó, theo thiết kế của kiến trúc sư Bussy, trường đã mở rộng thêm khu giảng đường và được trang trí bằng các y hiệu. Tại đây, những thanh niên người Việt từ bỏ nền y học cổ truyền để chuyển sang lĩnh vực khoa học phương Tây phải theo học 5 năm dự bị mới được làm luận án tại Paris. Nhưng sau khi trải qua kỳ thi tuyển thành công, họ vẫn không thoát khỏi ngạch “bác sĩ Đông Dương”, đây chính là điều phân biệt họ với các đồng nghiệp người Pháp.

Ngoài chuyên ngành y, dược, vào những năm 1920, Đại học Đông Dương còn đào tạo thêm ngành luật, hành chính, sư phạm, nông nghiệp, công nghiệp, công chính cũng như thương nghiệp.

Tòa nhà trên phố Bobillot tiếp nhận sinh viên y khoa, luật khoa và sinh viên sư phạm, những sinh viên khác được phân bổ về các trường chuyên của thành phố. Tuy nhiên, trước khi có được một cơ cấu tổ chức thực sự ổn định, Đại học Đông Dương đã phải trải qua rất nhiều thăng trầm.

Thực ra, Paul Beau cho thành lập trường năm 1906 xuất phát từ nhận thức về một thất bại và một nguy cơ chính trị: việc nền cựu học sụp đổ cũng như việc Nhật Bản thắng Nga chính là động cơ để thanh niên Việt Nam – dưới sự thúc đẩy của các nho sĩ phản đối chế độ thuộc địa như Phan Bội Châu mưu toan Đông Du tức là sang các trường đại học của “đất nước mặt trời mọc”. Phản ứng của các nhà chức trách Pháp trước khát vọng của sinh viên đã làm phật lòng phe bảo thủ và trường đại học vốn đang được bố trí trong lãnh sự quán cũ thuộc khu nhượng địa ngay lập tức bị Toàn quyền Klobukowski cho đóng cửa trước khi mở lại vào năm 1918 trong một tòa nhà nằm trên phố Paul Bert (nay là phố Tràng Tiền). Theo sau kế hoạch của Sarraut, Phủ toàn quyền quyết định hiện thực hóa việc đào tạo bậc đại học bằng cách xây dựng một tòa nhà tương xứng với tham vọng đã được đưa ra và không phải ngẫu nhiên mà công trình Đại học Đông Dương được coi là một bước ngoặt trong lịch sử xứ thuộc địa, cả trên bình diện xã hội lẫn kiến trúc.

Hãy cùng xem nhà cải cách giáo dục phản đối phong cách kiến trúc do Sở Công thự phổ biến ở thời điểm đó: “Sau 3 năm vắng mặt, khi trở lại mảnh đất Đông Dương, tôi vô cùng đau đớn khi nhận ra rằng bên cạnh những công trình mang phong cách nghệ thuật bản địa – áp đặt lên đó là một sự đối đầu tàn nhẫn, những cục bê tông cốt thép và bản sao kiến ​​trúc Muy-ních đã lấn át quyền thể hiện khả năng sáng tạo theo thị hiếu của người Pháp”. Những dòng trên đây đã khơi dậy mong muốn về một bản sắc kiến trúc riêng cho Đông Dương – một trọng trách được giao cho Ernest Hébrard.

Năm 1922, lần đầu tiên kiến trúc sư Ernest Hébrard đặt chân đến Hà Nội, thời điểm đó các đồng nghiệp của ông là Charles Lacollonge và Paul Sabrié đã trình lên Toàn quyền đề xuất xây dựng công trình Đại học Đông Dương và đã được thông qua. Khi đó, việc xây móng và chân công trình với việc đóng gần 2.000 cọc gỗ lim thậm chí đang trong giai đoạn hoàn thành. Nhờ vòng hào quang của Giải thưởng La Mã, Ernest Hébrard nắm quyền chỉ đạo toàn bộ ê kíp thi công công trình, ông tạm dừng thi công và hướng công việc nghiên cứu của mình theo phong cách châu Á. Tuy nhiên, việc thay đổi phong cách kiến trúc cần thời gian lâu hơn để chín muồi, nếu so sánh với những gì Félix Dumail đã trải qua trong các giai đoạn liên tiếp khi xây dựng chi nhánh ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn. Ernest Hébrard tập trung vào tính thẩm mỹ và không quá coi trọng cách bài trí – yếu tố khớp nối khu tiền sảnh đã bị mái vòm lấn át với một hội trường hai tầng, một thư viện và rất nhiều phòng làm việc. Bản vẽ mặt đứng cùng nhiều mặt cắt ký tên Sabrié, ghi thời gian lập 1924 và được phê duyệt thi công ngay năm đó vẫn mang dáng dấp của những bức vẽ lấy cảm hứng từ thế kỷ 18 ở Pháp với sự lấn át của các không gian khánh tiết, mái vòm khổng lồ cùng tháp sáng, cách trang trí hình vòm xuất hiện cách quãng tại hành lang lưu thông và những bức tượng đối xứng ở hai bên lối vào.

Nhưng các bản vẽ cũng thể hiện quyết tâm của Ernest Hébrard – người đã chính thức trở thành Giám đốc Sở Kiến trúc và Quy hoạch đô thị năm 1923 – trong việc thay đổi dáng dấp của tòa nhà. Lúc này, ông hướng về các mô hình của Trung Quốc, bắt đầu từ công trình nổi tiếng nhất trong số đó – hoàng cung thuộc Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh. Kết quả là tòa nhà bị Hán hóa một cách dè dặt với một ô văng loe ra trên đệm cửa của mái vòm, với những lớp mái chồng xếp giống như hệ mái bậc thang và tháp sáng có dáng dấp như một nóc phù đồ, mái đua như đường cúp góc ở các hành lang của kiến trúc Trung Hoa.

Mùa hè năm 1924, việc thi công (giao cho Hãng Aviat) được tiến hành trở lại dựa trên những cơ sở mới này. Nhưng Ernest Hébrard chưa ngừng trăn trở, ông yêu cầu sửa bản vẽ nhiều lần, chủ yếu bởi kiến trúc sư Gaston Roger để đạt được điều mà sau này ông gọi là “phong cách Đông Dương”, nhưng ở thời điểm đó mới chỉ ở dạng thai nghén.

Công văn trao đổi, các thông báo thay đổi về kích thước, đơn thư khiếu nại của chủ thầu bị dừng thi công do không có bản vẽ chính thức, việc phá hủy một phần công trình đã cho thấy quy mô thử nghiệm của dự án. Thực vậy, quan sát công trình hoàn tất là thấy được tầm vóc của các thay đổi. Mái vòm bị thay thế bằng lầu tứ giác trên chồng 2 lớp mái nặng nề, góc cạnh rõ ràng. Mái đua lúc này đã rõ dáng dấp của các lan can tạo thành từ nhiều cột nhỏ thân vuông, xen kẽ các bức phù điêu chạm khắc và đục lỗ thường chạy quanh sân các đền đài ở châu Á. Tác giả của dự án ban đầu – kiến trúc sư Sabrié – phản đối việc thay đổi và nhiều lần cảnh báo về nguy cơ lạc điệu giữa “chủ nghĩa cổ điển” của ông và phong cách “Trung Hoa”.

Đến tham quan Đại học Đông Dương, sẽ thấy nhiều dấu tích của sự đối nghịch, chẳng hạn như việc xây thêm cổng nhỏ trên cổng vòm lớn ở mặt sau hay ở phần nội thất khi vẫn giữ mái vòm giả và hàng cột ở tiền sảnh. Mặt khác, các thử nghiệm của Hébrard không chỉ gây phiền phức cho các kiến trúc sư, ngay từ năm 1921, họa sĩ Victor Tardieu đã phác thảo một dự án trang trí phù hợp với chủ nghĩa kinh viện xung quanh. Mái vòm phải tiếp nhận những biểu tượng của khoa học, nông nghiệp, kỹ nghệ và thương nghiệp hoàn toàn tách biệt trên nền vàng. Do trí tưởng tượng bộc phát, họa sĩ đề nghị sơn dòng chữ “La France apportant à sa colonie les bienfaits de la civilisation” (Nước Pháp mang đến cho xứ thuộc địa những lợi ích của nền văn minh) và đối lại “L’Indochine faisant hommage à la France de ses richesses”(Đông Dương cảm phục nước Pháp vì sự giàu có). Ngoài ra, trên bức tường chính của hội trường, ông dự kiến nhóm thành một tập hợp chân dung những người sáng lập Đại học Đông Dương: Paul Doumer, Paul Beau, Albert Sarraut và Maurice Long, xung quanh là các cộng sự của họ. Sáu năm sau, bức tranh vải lớn hé lộ chân dung của Alma Mater – Mẹ cưu mang – và ngay tại chân bà các thế hệ sinh viên được long trọng trao những tấm bằng tốt nghiệp dưới ánh nhìn của ngài Toàn quyền.

Hoàn thành năm 1927, Đại học Đông Dương đặt dấu chấm hết cho sự tồn dư của kiến trúc cổ điển và đánh dấu sự trỗi dậy của nghệ thuật giao thoa nơi phương Tây và phương Đông gặp gỡ. Đến nay, công trình vẫn được coi là một điểm nhấn về nghệ thuật kiến trúc tại Hà Nội.

Hoàng Hằng – Hồng Nhung Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I

𝐈𝐍𝐃𝐎𝐂𝐇𝐈𝐍𝐄𝐒𝐄 𝐒𝐓𝐘𝐋𝐄 từ phim INDOCHINE 1992INDOCHINE  nhận được rất nhiều giải thưởng danh giá trên thế giới, trong đó là g...
03/11/2021

𝐈𝐍𝐃𝐎𝐂𝐇𝐈𝐍𝐄𝐒𝐄 𝐒𝐓𝐘𝐋𝐄 từ phim INDOCHINE 1992

INDOCHINE nhận được rất nhiều giải thưởng danh giá trên thế giới, trong đó là giải thưởng dành cho 5 hạng mục: nữ diễn viên chính xuất sắc nhất, nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất, hình ảnh đẹp nhất, âm thanh trong phim hay nhất, phim có bối cảnh đẹp nhất, và Giải Oscar cũng như Quả Cầu Vàng cho phim ngoại ngữ hay nhất.
Bộ phim đã giành được giải Oscar cho Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất và Catherine Deneuve nhận được đề cử Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất - duy nhất của cô cho đến nay. Phim cũng đã giành được giải Quả cầu vàng cho Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất. Bộ phim đã được chọn để trình chiếu trong hạng mục Cannes Classics tại Liên hoan phim Cannes 2016.

Rất nhiều chi tiết và cảnh quay trong INDOCHINE đều có thể trở thành những tư liệu quý giá cho những người đi sau học hỏi. Từ cảnh trí, trang phục, tập tục đến sự chân thực trong xử lí tình huống đều thể hiện cái tài hoa của một đạo diễn người Pháp làm phim về thời kì suy tàn của chế độ thực dân tại xứ thuộc địa của họ. Những gì mà Régis Wargnier kể lại hoàn toàn không có một sự định hướng để tạo ra sự nhạy cảm, tất cả hoàn toàn công tâm, chân thực và ý nhị.

INDOCHINE tái hiện lại khung cảnh của xứ Đông Dương 1 cách chân thực và sâu sắc nhất. Mọi chi tiết đặc trưng của 𝐈𝐍𝐃𝐎𝐂𝐇𝐈𝐍𝐄𝐒𝐄 𝐒𝐓𝐘𝐋𝐄 - Phong cách kiến trúc Đông Dương được Nhà làm phim tỉ mỉ trau truốt, từ những bức tranh trang trí, từ những mảng giấy dán tường, mọi thứ đều có sự đầu tư và lựa chọn kỹ lưỡng.

Màu gỗ tự nhiên nâu trầm là chủ đạo, tường sơn trắng, kem hoặc vàng nhạt. Tranh treo tường mang màu sắc Việt Nam và đều là những bức tranh quý, có giá trị. Sàn gỗ tự nhiên màu nâu cánh gián được sử dụng trong những gia đình người Pháp khá giả. Đồ gốm sứ trang trí nổi bật văn hoá Trung Hoa. Nội thất tre đan cũng xuất hiện trong quá trình giao thương với những nước thuộc địa Anh, với tính chất nhẹ, rẻ nên đồ mây tre đan được ưa chuộng, nhất là với những công trình dịch vụ thương mại.

Address

Xã Mỹ Hạnh Nam

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Indochinese style - Phong cách kiến trúc Đông Dương posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share

Category